Monday 28 October 2019

Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Xuất ra phải tính đến chuyện thu về (Bài đăng trên TBKTSG, 28/10/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/295846/quy-thuc-hien-chinh-sach-tien-te-quoc-gia-xuat-ra-phai-tinh-den-chuyen-thu-ve.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo Thông tư Quy định Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia (“Quỹ”). Theo đó, Quỹ được sử dụng để hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng.


Quỹ được cấp nguồn từ việc trích 20% từ chênh lệch thu chi hàng năm của NHNN, đảm bảo số dư thực có của Quỹ không vượt quá 1 (một) lần mức vốn pháp định của NHNN. Về sử dụng, có bảy mục đích theo đó Quỹ được sử dụng, gồm: (1) các khoản cho vay tổ chức tín dụng (TCTD) gặp sự cố; (2) cho vay TCTD tham gia hỗ trợ hệ thống thanh toán khi gặp sự cố; (3) mua cổ phần TCTD được kiểm soát đặc biệt; (4) cấp vốn cho doanh nghiệp đặc thù liên quan thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; (5) bù đắp thâm hụt sau khi NHNN đã sử dụng hết Quỹ Dự phòng tài chính; (6) xử lý các khoản NHNN đã sử dụng theo quyết định của Thủ tướng để hỗ trợ chính sách tiền tệ; và (7) các khoản phát sinh được Thủ tướng phê duyệt về chủ trương.


Vì đây là một quỹ của nhà nước nên mối quan tâm hàng đầu của công chúng với Quỹ là liệu nó có được sử dụng minh bạch, hiệu quả, an toàn và bền vững hay không. Xét trên những chỉ tiêu này, xem ra quy chế quả lý và sử dụng Quỹ xem ra chưa đáp ứng được.

Như dự thảo, các sứ mệnh của Quỹ là nhằm hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD. Tuy nhiên, bảy mục đích sử dụng Quỹ như nêu trên lại không thấy gắn bó mấy với sứ mệnh này của Quỹ.

Cụ thể hơn, bảy mục đích sử dụng trên chủ yếu là gắn với, đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và của NHNN nói riêng, và đây là một trong số các sứ mệnh của Quỹ được liệt kê trong dự thảo. Suốt dự thảo không thấy một chi tiết nào đề cập đến các sứ mệnh khác của Quỹ, gồm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Sẽ có lập luận chống chế rằng xét cho cùng việc bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD cũng sẽ là góp phần ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội bằng cách này hay cách khác. Nhưng nếu chắc chắn vậy rồi thì chỉ cần nêu sứ mệnh của Quỹ là bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD là đủ, chặt chẽ, không tạo ra kẽ hở để hứng chịu những phê phán không cần thiết, đồng thời không tạo ra những cơ hội để Quỹ có thể bị lạm dụng khi sứ mệnh của nó được gắn cho những thứ to tát nhưng... mơ hồ!

Dự thảo cũng không hề có một dòng nào chỉ ra cụ thể thế nào và đâu là các doanh nghiệp đặc thù liên quan đến thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nếu không được làm rõ, sẽ không thể loại trừ được khả năng sẽ có những doanh nghiệp (được cho) đội lốt “đặc thù” theo chủ ý, được cấp vốn một cách không thỏa đáng, gây thiệt hại cho nền kinh tế nói chung.

Cũng có liên quan với các doanh nghiệp “đặc thù” này là chuyện nếu NHNN sử dụng Quỹ để cấp vốn cho chúng thì đương nhiên đây sẽ là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nhưng việc cấp vốn cho DNNN có những quy tắc, quy định và quy trình khác biệt, không thể đơn giản và dễ dàng như trong dự thảo, tức chỉ cần lấy tiền từ Quỹ là xong. Và dù có lập luận khác đi để biện hộ thì vẫn có một điều không thể phủ nhận là Quỹ về bản chất là để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản khẩn cấp, đột xuất bởi các chủ thể kinh tế liên quan một cách tạm thời, theo kiểu cho vay và thu hồi, chứ không phải là một nguồn vốn ngân sách để cấp phát cho một đối tượng nào đó. Đó là chưa kể việc cấp vốn cho DNNN mâu thuẫn với chủ trương không dùng ngân sách, không rót (thêm) vốn cho DNNN hiện nay.

Điều đáng  lưu ý khác là trong dự thảo là cũng không có một lần nào thấy xuất hiện các quy địnhh liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ trả nợ, hoàn trả lại tiền cho Quỹ, ngoài yêu cầu khá chung chung: “Quyết định sử dụng Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia quy định rõ mục đích sử dụng, số tiền cần sử dụng và các điều khoản khác có liên quan”.

Thông thường, trong bất cứ một hồ sơ đề nghị cho vay, cấp vốn ở bất cứ một TCTD nào, bên cạnh đề mục bắt buộc là đối tượng được vay, mục đích, số tiền và hình thức vay, còn phải có đề mục là thời hạn vay cụ thể; điều kiện và điều khoản được giải ngân, trả nợ; trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết định kỳ và đột xuất bởi con nợ - TCTD và các công ty liên đới – cho chủ nợ, tức NHNN, theo dõi và có hành động cần thiết kịp thời; và những quyền của chủ nợ đối với con nợ khi không đáp ứng được các điều kiện và điều khoản cho vay đặt ra...

Sự thiếu vắng các điều kiện và điều khoản liên quan nêu ở trên đương nhiên sẽ làm cho Quỹ phải chịu rủi ro là tiền trong Quỹ sẽ “đội nón ra đi” không hẹn ngày trở lại, buộc NHNN hoặc phải in/tạo tiền hoặc “giật gấu vá vai” để bù đắp phần thiếu hụt do không thu hồi được tiền trích Quỹ, mà hành động nào thì cũng sẽ để lại hậu quả tai hại cho ổn định kinh tế vĩ mô.

Sunday 20 October 2019

Động thái của Moody’s với Việt Nam: Hiểu đúng để hành động đúng (Bài đăng trên TBKTSG, 19/10/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/295480/dong-thai-cua-moody’s-voi-viet-nam-hieu-dung-de-hanh-dong-dung-.html


Ngày 9/10 vừa qua, hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã ra thông báo đặt mức xếp hạng tín nhiệm phát hành nợ bằng ngoại tệ hoặc tiền đồng của Chính phủ Việt Nam ở mức Ba3 vào diện xem xét hạ xuông trong vòng 3 tháng tới (1).


Theo Moody’s, nguyên nhân của động thái này là những khiếm khuyết thể chế đã lộ diện. Đặc biệt là Moody’s đã được biết đến những khoản chi trả chậm chễ đối với một nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ. Trong khi thông tin họ có được cho đến thời điểm này cho thấy không hoặc chỉ có thiệt hại tối thiểu cho các chủ nợ, nhưng khoảng trống và những khiếm khuyết trong sự phối hợp và lập kế hoạch giữa các cơ quan liên đới trong Chính phủ với sự không rõ ràng ở một mức độ nào đó trong việc ra quyết định và hành động cần thiết để kịp chi trả một số nghĩa vụ nợ, cũng như quy trình thủ tục phức tạp vốn có thể cản trở Chính phủ trả nợ đầy đủ và kịp thời như được thể hiện qua việc chậm trả nợ này cho thấy mức tín nhiệm đã có thể không còn tương xứng với hạng tín nhiệm Ba3 nữa.


Nợ nào cũng là... nợ!


Trước thông báo khá sốc trên của Moody’s, Bộ Tài chính đã có ý kiến phản hồi chính thức. Theo  đó, nghĩa vụ trả nợ bị chậm thanh toán trên là nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh, thuộc nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ, không phải là nghĩa vụ nợ trực tiệp của Chính phủ. "Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trách nhiệm của người bảo lãnh trong việc thanh toán, ngay cả khi chưa nhận được yêu cầu chính thức của Bên cho vay", Bộ Tài chính cho biết (2). Ngoài ra, bộ này cũng khẳng định việc Moody’s đưa Việt Nam vào diện xem xét để hạ bậc chỉ dựa trên một sự việc riêng lẻ là không phù hợp. Bộ Tài chính cho rằng Moody's cần xác định rõ nghĩa vụ nợ dự phòng và nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ. "Chính phủ chưa bao giờ chậm trễ trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ", Bộ Tài chính nhấn mạnh.


Không rõ thực hư việc Bộ Tài chính khẳng định đã trả nợ (kịp thời) trong khi Moody’s lại cho rằng đã có sự chậm chễ. Nhưng có một thực tế cần lưu ý là không chỉ Moody’s mà các hãng xếp hạng tín nhiệm uy tín khác trên thế giới như Standard & Poor’s (S&P) cũng coi nghĩa vụ nợ dự phòng là một bộ phận khăng khít trong sự đánh giá tổng thể tín nhiệm quốc gia của họ ((3), (4)). Do đó, cần chấp nhận rằng khi đã không trả nợ đúng và đầy đủ một khoản nợ dự phòng phát sinh thành nghĩa vụ thật nào đó thì sẽ bị đánh giá là vỡ nợ, mất khả năng thanh toán, hoặc không muốn thanh toán. Vì vậy, để tránh những mất mát thiệt hại không đáng có cho uy tín quốc gia thì cần “quán triệt” trước hết rằng nợ dự phòng cũng là nợ, cũng phải nghiêm túc trả ngay, luôn và đầy đủ khi trở thành nghĩa vụ thật, chẳng hạn khi con nợ được Chính phủ bảo lãnh mất khả năng thanh toán đúng hạn khoản nợ của mình.


Thêm nữa, như đã nói, Moody’s hay các hãng xếp hạng tín nhiệm khác như S&P đều công khai, công bố các cập nhật về phương pháp tính toán và quyết định xếp hạng tín nhiệm của mọi khách hàng – khách tự nguyện hay bất đắc dĩ – và tất nhiên là nhận được sự chấp nhận, chấp thuận rộng rãi trên thị trường quốc tế (vì thế mới có thể tồn tại và phát triển được đến ngày nay) nên không thể nói việc họ chỉ căn cứ vào một sự việc riêng lẻ (để xem xét hạ hạng tín nhiệm) là không hợp lý.


Cũng cần phải nói thêm về bình luận của các chuyên gia ở Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, rằng Việt Nam không thiếu tiền trả nợ, rằng dự trữ ngoại hối lớn và chi tiêu công thấp hơn năm trước (2). Thực ra ít nhiều thì những điều này đã được Moody’s nêu trong thông báo của mình. Vấn đề quan trọng ở đây là họ xem xét “trừng phạt” Việt Nam chủ yếu bởi thực trạng thể chế hiện nay có thể không còn tương xứng với hạng tín nhiệm Ba3 nữa, không thể đảm bảo sẽ không có những rủi ro chậm trả nợ trong tương lai mà thôi.


Để tránh tình trạng “bé xé ra to”


Căn cứ vào thông báo của Moody’s và phản hồi của Bộ Tài chính, có thể thấy một phần nguồn cơn của sự việc bắt nguồn từ quan niệm xem nhẹ trách nhiệm liên quan đến nợ dự phòng, gồm các khoản nợ có bảo lãnh của Chính phủ, chẳng hạn cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Và khi nợ dự phòng thành nợ thật do DNNN không trả được nợ đúng hạn, các cơ quan hữu trách trở nên lúng túng vì đã không có kế hoạch hành động cụ thể trong một khung thời gian cụ thể.


Vì vậy, giải pháp dài hạn để tránh hậu quả lớn từ một lý do khá “đơn giản” như thế trước hết cần hạn chế tối đa bảo lãnh Chính phủ với các khoản vay của DNNN, bởi thực tế cho thấy không ít trường hợp sự bảo lãnh đã trở thành nghĩa vụ trả nợ thật. Nói cách khác, không được chủ quan cho rằng chỉ là bảo lãnh nên không gây ra gánh nặng cho quốc gia để rồi bảo lãnh một cách bất cẩn.


Tiếp đó, cần phải thực thi nghiêm túc trích lập và sử dụng các loại quỹ dự phòng theo đúng tinh thần là để sử dụng ngay được cho các nghĩa vụ khẩn cấp, bất thường. Tinh thần này cho đến nay dường như vẫn bị xem nhẹ bởi một bộ phận chuyên gia và quan chức, như được thể hiện qua những khuyến nghị rất “lạ”, chẳng hạn sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để xử lý nợ xấu...(5).


Đồng thời, khi đã có nợ dự phòng, cần lên kế hoạch cụ thể về trả nợ đột xuất khi nợ dự phòng thành nợ thật. Điều này có nghĩa là luôn phải “treo” một nguồn dự trữ trong các quỹ dự phòng tương ứng với tổng các khoản nợ dự phòng để sẵn sàng chi trả trong mọi thời điểm, mà không được đụng đến cho những mục  đích khác với lý do là chưa được dùng đến nên đang “nhàn rỗi”. Điều này không chỉ giúp tránh rơi vào tình trạng bị động khi phải “giật gấu vá vai” các nguồn tài chính khác nhau để đáp ứng nghĩa vụ trả nợ đột xuất, gây ảnh hưởng dây chuyền, mà còn tạo sự chủ động trả nợ kịp thời, đầy đủ.


Do chi phí trích lập và duy trì quỹ dự phòng sẽ tăng theo lượng vốn vay có sự bảo lãnh của Chính phủ nên điều này càng cho thấy sự cần thiết phải hạn chế tối đa việc Chính phủ bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp.   


Trước mắt, trong thời hạn 3 tháng xem xét của Moody’s, Chính phủ cần khẩn trương rà soát mọi nghĩa vụ nợ dự phòng và nợ trực tiếp của Chính phủ và có kế hoạch đảm bảo không một khoản chi trả nợ nào sẽ bị trì hoãn vì bất cứ lý do nào mà không được sự chấp thuận của các chủ nợ. Nỗ lực khắc phục các tồn tại của Chính phủ trong giai đoạn trọng yếu này mới là cách thuyết phục hữu hiệu duy nhất để tránh được một sự xuống hạng “oan ức” không đáng có, vốn sẽ kéo theo nhiều hệ lụy to lớn cho quốc gia.
  

(1) https://www.moodys.com/research/Moodys-places-Vietnams-Ba3-rating-under-review-for-downgrade--PR_411028

(2) http://cafef.vn/bo-tai-chinh-noi-gi-ve-viec-moodys-xem-xet-ha-bac-tin-nhiem-quoc-gia-viet-nam-20191010191641234.chn

(3)https://www.spratings.com/documents/20184/908545/US_SV_Event_WebcastMay16_Article1/3c49aee3-da08-4298-837a-df2d257609cb

(4) https://www.esm.europa.eu/sites/default/files/day_2_session_2_duggar.pdf
(5) http://www.hiephoidoanhnghiep.vn/diem-tin/dien-dan-kinh-te-mua-thu-nong-theo-no-xau?pagenumber=352

Monday 7 October 2019

Cần định vị lại sứ mệnh của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước (Bài đăng trên TBKTSG, 7/10/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/294831/can-dinh-vi-lai-su-menh-cua-uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc.html


TBKTSG số ra tuần trước có bài “Định vị lại sứ mệnh của doanh nghiệp nhà nước”, trong đó kiến nghị doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chỉ nên có sứ mệnh là theo đuổi lợi nhuận và có quyền tự chủ trong việc này trong khuôn khổ pháp luật như đối với các doanh nghiệp tư nhân khác. 

Hiện tại, các DNNN được quản lý bởi Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) và/hoặc trực tiếp bởi Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp (Ủy ban) – là tổ chức có thể coi như công ty mẹ của SCIC.

Vẫn là mô hình bất cập

Điều không ổn với mô hình quản lý của SCIC trước đây và Ủy ban hiện nay là nhân sự vẫn chỉ là các công chức ngồi bàn giấy, rất ít hoặc không am tường về lĩnh vực hoạt động của DNNN mà họ quản lý; không hoặc rất ít kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lớn; quyền tự chủ trong quản lý, điều hành doanh nghiệp vẫn bị hạn chế, vẫn phải xin phép, tham khảo ý kiến, trông chờ sự “chủ động phối hợp” của một ai đó, cơ quan nào đó (dù Ủy ban đã được gắn cái nhãn không chính thức là “siêu Ủy ban”).

Hãy hình dung như trước đây, các DNNN được quản lý bởi bộ chủ quản, theo ngành dọc, với cả một ban bệ đồ sộ nhiều tầng lớp, nhưng việc quản lý vẫn... chẳng ra sao! Nay gom tất cả các DNNN về một mối dưới SCIC và/hoặc Ủy ban với khoảng một vài trăm nhân sự gom nhặt từ các cơ quan quản lý với đủ loại trình độ nghề nghiệp và kinh nghiệm (background) thì khó lòng mà hy vọng sự vụ quản lý DNNN sẽ hanh thông hơn, trừ khi lại phải đẻ ra một bộ máy mới trong lòng Ủy ban gồm đầy đủ các ban bệ quản lý DNNN theo ngành dọc như trước đây để đảm bảo việc quản lý DNNN không là quá sức, quá tải với Ủy ban. Nhưng nếu làm như vậy thì tính hữu hiệu, hiệu quả của mô hình Ủy ban sẽ là lại là một câu hỏi lớn.

Điểm nghẽn trên là một trong những nguyên nhân chính mà SCIC trước đây và nay là Ủy ban – dù đã chính thức được thành lập gần 2 năm nay – vẫn “chính thức” không để lại dấu ấn gì, thành công nào, và cũng chưa chứng tỏ được đã có sự chuyển biến hay chiều hướng tích cực cho các DNNN mà họ quản lý. Minh chứng sinh động nhãn tiền nhất là vai trò mờ nhạt của Ủy ban ở các doanh nghiệp thua lỗ của Bộ Công thương bàn giao về Ủy ban.       

Định vị lại sứ mệnh

Với mô hình Ủy ban hay bất cứ mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tương tự, sự quá sức, quá tải về nhiệm vụ, chức năng, và năng lực quản lý buộc phải đi đến một giải pháp không thể khác mà có thể nói nôm na là “không làm được thì thuê”!

Theo cách này, Ủy ban sẽ đóng vai trò như một cổ đông (cổ đông lớn hoặc cổ đông duy nhất) đối với các DNNN. Là cổ đông, không nhất thiết Ủy ban cần phải am tường / “ôm” được nhiều thứ, nhiều lĩnh vực, hoặc phải tham gia vào mọi việc ở DNNN. Thay vào đó, cổ đông gián tiếp/trực tiếp thue người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Khi đó, mối quan tâm duy nhất của cổ đông - Ủy ban – thông thường chỉ là làm sao cổ phần của mình trong doanh nghiệp liên tục gia tăng về giá trị. Nếu điều này không được thực hiện thì cổ đông cần thực hiện quyền hạn của mình để đảm bảo ban lãnh đạo của doanh nghiệp phải có những thay đổi cần thiết để hiện thực hóa mục tiêu này, hoặc không phải bị thay thế.

Nếu không thể cải thiện, thì cổ đông cần tính đến chuyện rút vốn khỏi doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chỉ có duy nhất một cổ đông là Ủy ban thì sự rút vốn này đồng nghĩa với việc DNNN bị giải thể, sang nhượng (cổ phần hóa). Ở góc độ này, Ủy ban có vai trò, sứ mệnh tương tự như Temasek của Singapore.

Với “KPI” (chỉ tiêu đánh giá năng lực) này, DNNN nào không hiệu quả thì sẽ bị giải thể, tái cơ cấu, ban lãnh đạo DNNN đó phải ra đi, và sẽ đơn giản là như vậy. Đổi lại, DNNN sẽ được toàn quyền chủ động trong kinh doanh với sự can thiệp tối thiểu từ Ủy ban, chủ yếu mang tính hình thức như phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh (hàng năm) như trong quan hệ giữa một doanh nghiệp cổ phần thông thường với các cổ đông của nó.

Nếu muốn kiểm tra giám sát để đảm bảo quyền lợi của cổ đông thì Ủy ban có thể thuê các tổ chức thứ ba, độc lập đảm trách viêc này mà không nhất thiết thiết phải thành lập riêng một tổ chức hữu cơ mà chất lượng và hiệu quả không có gì đảm bảo cũng bởi xuất phát từ phạm vi quản lý quá rộng của Ủy ban.

Tất nhiên là với sứ mệnh hoạt động được đơn giản hóa nói trên của Ủy ban thì hàng loạt (có thể nói là quá nhiều) trách nhiệm, nhiệm vụ hiện nay được giao cho Ủy ban (1) sẽ (nên) được rút gọn lại quanh mấy chữ “hiệu quả gia tăng vốn nhà nước” cũng như đảm bảo cho Ủy ban sự tự chủ, độc lập cần thiết với mọi cơ quan quản lý nhà nước khác trong việc thực hiện sứ mệnh này. Với thước đo này, bản thân Ủy ban và người lãnh đạo cũng sẽ bị chịu áp lực phải bị thay thế nếu không hoàn thành nhiệm vụ.

Nếu theo đúng phương châm hoạt động trên, thực ra không cần đến sự thành lập và tồn tại của Ủy ban, mà chỉ cần bàn giao các DNNN về SCIC và sửa đổi mô hình của SCIC để nó hoạt động tương tự như Temasek là đầy đủ, trọn vẹn và hợp lý trên mọi lẽ.
(1) http://cmsc.gov.vn/chuc-nang-nhiem-vu

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).