Sunday 20 October 2019

Động thái của Moody’s với Việt Nam: Hiểu đúng để hành động đúng (Bài đăng trên TBKTSG, 19/10/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/295480/dong-thai-cua-moody’s-voi-viet-nam-hieu-dung-de-hanh-dong-dung-.html


Ngày 9/10 vừa qua, hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã ra thông báo đặt mức xếp hạng tín nhiệm phát hành nợ bằng ngoại tệ hoặc tiền đồng của Chính phủ Việt Nam ở mức Ba3 vào diện xem xét hạ xuông trong vòng 3 tháng tới (1).


Theo Moody’s, nguyên nhân của động thái này là những khiếm khuyết thể chế đã lộ diện. Đặc biệt là Moody’s đã được biết đến những khoản chi trả chậm chễ đối với một nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ. Trong khi thông tin họ có được cho đến thời điểm này cho thấy không hoặc chỉ có thiệt hại tối thiểu cho các chủ nợ, nhưng khoảng trống và những khiếm khuyết trong sự phối hợp và lập kế hoạch giữa các cơ quan liên đới trong Chính phủ với sự không rõ ràng ở một mức độ nào đó trong việc ra quyết định và hành động cần thiết để kịp chi trả một số nghĩa vụ nợ, cũng như quy trình thủ tục phức tạp vốn có thể cản trở Chính phủ trả nợ đầy đủ và kịp thời như được thể hiện qua việc chậm trả nợ này cho thấy mức tín nhiệm đã có thể không còn tương xứng với hạng tín nhiệm Ba3 nữa.


Nợ nào cũng là... nợ!


Trước thông báo khá sốc trên của Moody’s, Bộ Tài chính đã có ý kiến phản hồi chính thức. Theo  đó, nghĩa vụ trả nợ bị chậm thanh toán trên là nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh, thuộc nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ, không phải là nghĩa vụ nợ trực tiệp của Chính phủ. "Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trách nhiệm của người bảo lãnh trong việc thanh toán, ngay cả khi chưa nhận được yêu cầu chính thức của Bên cho vay", Bộ Tài chính cho biết (2). Ngoài ra, bộ này cũng khẳng định việc Moody’s đưa Việt Nam vào diện xem xét để hạ bậc chỉ dựa trên một sự việc riêng lẻ là không phù hợp. Bộ Tài chính cho rằng Moody's cần xác định rõ nghĩa vụ nợ dự phòng và nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ. "Chính phủ chưa bao giờ chậm trễ trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ", Bộ Tài chính nhấn mạnh.


Không rõ thực hư việc Bộ Tài chính khẳng định đã trả nợ (kịp thời) trong khi Moody’s lại cho rằng đã có sự chậm chễ. Nhưng có một thực tế cần lưu ý là không chỉ Moody’s mà các hãng xếp hạng tín nhiệm uy tín khác trên thế giới như Standard & Poor’s (S&P) cũng coi nghĩa vụ nợ dự phòng là một bộ phận khăng khít trong sự đánh giá tổng thể tín nhiệm quốc gia của họ ((3), (4)). Do đó, cần chấp nhận rằng khi đã không trả nợ đúng và đầy đủ một khoản nợ dự phòng phát sinh thành nghĩa vụ thật nào đó thì sẽ bị đánh giá là vỡ nợ, mất khả năng thanh toán, hoặc không muốn thanh toán. Vì vậy, để tránh những mất mát thiệt hại không đáng có cho uy tín quốc gia thì cần “quán triệt” trước hết rằng nợ dự phòng cũng là nợ, cũng phải nghiêm túc trả ngay, luôn và đầy đủ khi trở thành nghĩa vụ thật, chẳng hạn khi con nợ được Chính phủ bảo lãnh mất khả năng thanh toán đúng hạn khoản nợ của mình.


Thêm nữa, như đã nói, Moody’s hay các hãng xếp hạng tín nhiệm khác như S&P đều công khai, công bố các cập nhật về phương pháp tính toán và quyết định xếp hạng tín nhiệm của mọi khách hàng – khách tự nguyện hay bất đắc dĩ – và tất nhiên là nhận được sự chấp nhận, chấp thuận rộng rãi trên thị trường quốc tế (vì thế mới có thể tồn tại và phát triển được đến ngày nay) nên không thể nói việc họ chỉ căn cứ vào một sự việc riêng lẻ (để xem xét hạ hạng tín nhiệm) là không hợp lý.


Cũng cần phải nói thêm về bình luận của các chuyên gia ở Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, rằng Việt Nam không thiếu tiền trả nợ, rằng dự trữ ngoại hối lớn và chi tiêu công thấp hơn năm trước (2). Thực ra ít nhiều thì những điều này đã được Moody’s nêu trong thông báo của mình. Vấn đề quan trọng ở đây là họ xem xét “trừng phạt” Việt Nam chủ yếu bởi thực trạng thể chế hiện nay có thể không còn tương xứng với hạng tín nhiệm Ba3 nữa, không thể đảm bảo sẽ không có những rủi ro chậm trả nợ trong tương lai mà thôi.


Để tránh tình trạng “bé xé ra to”


Căn cứ vào thông báo của Moody’s và phản hồi của Bộ Tài chính, có thể thấy một phần nguồn cơn của sự việc bắt nguồn từ quan niệm xem nhẹ trách nhiệm liên quan đến nợ dự phòng, gồm các khoản nợ có bảo lãnh của Chính phủ, chẳng hạn cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Và khi nợ dự phòng thành nợ thật do DNNN không trả được nợ đúng hạn, các cơ quan hữu trách trở nên lúng túng vì đã không có kế hoạch hành động cụ thể trong một khung thời gian cụ thể.


Vì vậy, giải pháp dài hạn để tránh hậu quả lớn từ một lý do khá “đơn giản” như thế trước hết cần hạn chế tối đa bảo lãnh Chính phủ với các khoản vay của DNNN, bởi thực tế cho thấy không ít trường hợp sự bảo lãnh đã trở thành nghĩa vụ trả nợ thật. Nói cách khác, không được chủ quan cho rằng chỉ là bảo lãnh nên không gây ra gánh nặng cho quốc gia để rồi bảo lãnh một cách bất cẩn.


Tiếp đó, cần phải thực thi nghiêm túc trích lập và sử dụng các loại quỹ dự phòng theo đúng tinh thần là để sử dụng ngay được cho các nghĩa vụ khẩn cấp, bất thường. Tinh thần này cho đến nay dường như vẫn bị xem nhẹ bởi một bộ phận chuyên gia và quan chức, như được thể hiện qua những khuyến nghị rất “lạ”, chẳng hạn sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để xử lý nợ xấu...(5).


Đồng thời, khi đã có nợ dự phòng, cần lên kế hoạch cụ thể về trả nợ đột xuất khi nợ dự phòng thành nợ thật. Điều này có nghĩa là luôn phải “treo” một nguồn dự trữ trong các quỹ dự phòng tương ứng với tổng các khoản nợ dự phòng để sẵn sàng chi trả trong mọi thời điểm, mà không được đụng đến cho những mục  đích khác với lý do là chưa được dùng đến nên đang “nhàn rỗi”. Điều này không chỉ giúp tránh rơi vào tình trạng bị động khi phải “giật gấu vá vai” các nguồn tài chính khác nhau để đáp ứng nghĩa vụ trả nợ đột xuất, gây ảnh hưởng dây chuyền, mà còn tạo sự chủ động trả nợ kịp thời, đầy đủ.


Do chi phí trích lập và duy trì quỹ dự phòng sẽ tăng theo lượng vốn vay có sự bảo lãnh của Chính phủ nên điều này càng cho thấy sự cần thiết phải hạn chế tối đa việc Chính phủ bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp.   


Trước mắt, trong thời hạn 3 tháng xem xét của Moody’s, Chính phủ cần khẩn trương rà soát mọi nghĩa vụ nợ dự phòng và nợ trực tiếp của Chính phủ và có kế hoạch đảm bảo không một khoản chi trả nợ nào sẽ bị trì hoãn vì bất cứ lý do nào mà không được sự chấp thuận của các chủ nợ. Nỗ lực khắc phục các tồn tại của Chính phủ trong giai đoạn trọng yếu này mới là cách thuyết phục hữu hiệu duy nhất để tránh được một sự xuống hạng “oan ức” không đáng có, vốn sẽ kéo theo nhiều hệ lụy to lớn cho quốc gia.
  

(1) https://www.moodys.com/research/Moodys-places-Vietnams-Ba3-rating-under-review-for-downgrade--PR_411028

(2) http://cafef.vn/bo-tai-chinh-noi-gi-ve-viec-moodys-xem-xet-ha-bac-tin-nhiem-quoc-gia-viet-nam-20191010191641234.chn

(3)https://www.spratings.com/documents/20184/908545/US_SV_Event_WebcastMay16_Article1/3c49aee3-da08-4298-837a-df2d257609cb

(4) https://www.esm.europa.eu/sites/default/files/day_2_session_2_duggar.pdf
(5) http://www.hiephoidoanhnghiep.vn/diem-tin/dien-dan-kinh-te-mua-thu-nong-theo-no-xau?pagenumber=352

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).