Monday 18 November 2019

Rối rắm tiền di động, tiền điện tử (Bài đăng trên TBKTSG, 18/11/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/296826/Roi-ram-tien-di-dong-tien-dien-tu.html/#286881


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang đưa ra lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định về thanh toán không dùng tiền mặt. Một trong những điểm nổi cộm thu hút sự chú ý của dư luận là định nghĩa về tiền di động.


Là tiền và cũng không phải là tiền?


Theo dự thảo, tiền di động được định nghĩa là tiền điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán kinh doanh dịch vụ viễn thông phát hành và định danh khách hàng thông qua cơ sở dữ liệu thuê bao di động. Với định nghĩa này, tiền di động được hiểu nôm na là một loại/hình thức tiền tệ.


Mặt khác, tiền điện tử được định nghĩa trong cùng dự thảo là “giá trị tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử được trả trước bởi khách hàng cho ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thực hiện giao dịch thanh toán và được đảm bảo giá trị tương ứng tại ngân hàng, bao gồm: thẻ trả trước, ví điện tử, tiền di động”.


Nếu lồng ghép khái niệm tiền di động vào khái niệm tiền điện tử như trong dự thảo thì sẽ được một định nghĩa sau: “Tiền di động là giá trị tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử...”. Như vậy, theo định nghĩa kiểu này thì rõ ràng tiền di động lại không phải là một loại/hình thức tiền tệ, mà chỉ là một đại lượng thể hiện/thước đo giá trị của tiền tệ lưu trữ trên các phương tiện điện tử. Nhưng nếu chỉ là (thước đo) giá trị thì tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán hay bất cứ tổ chức nào khác cũng không thể “phát hành” được tiền di động, như nêu trong dự thảo. Người ta chỉ có thể phát hành ra đồng tiền nào đó chứ không thể phát hành ra giá trị của đồng tiền đó.


Tương tự, trong dự thảo cũng có nhiều chỗ sử dụng lẫn lộn giữa phạm trù nội dung và hình thức của các khái niệm liên quan. Với ví điện tử, nó được định nghĩa là ‘tiền điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phát hành...”, trong khi phải hiểu ví điện tử chỉ là phương tiện lưu trữ tiền điện tử tương tự như một cái ví da đựng tiền mặt, chứ nếu không thì ắt sẽ có nhiều người “phiên dịch” định nghĩa này thành kiểu nếu anh và tôi đều chỉ có một cái ví điện tử thì anh và tôi giàu như nhau, có cùng giá trị tiền tệ (tiền đồng) như nhau.


Với thẻ trả trước cũng vậy, nó được định nghĩa là tiền điện tử do ngân hàng phát hành, dù đúng ra phải chỉ rõ thẻ trả trước chỉ là một công cụ, phương tiện để người ta lưu trữ bao nhiêu tiền điện tử (tiền đồng được số hóa) trong đó mà thôi.


Chính sách tiền tệ sẽ bị mất hiệu lực?


Gạt chuyện nội dung hay hình thức nói trên sang một bên, điều đáng bận tâm hơn nhiều là sự cho phép các tổ chức viễn thông phát hành tiền di động. Nếu coi tiền di động là một loại tiền tệ và cái sự “phát hành” được nêu trong dự thảo cũng mang cái nghĩa tương tự như sự phát hành tiền tệ của NHNN thì tự nhiên Việt Nam có hàng loạt tổ chức tương tự như NHNN cùng có chức năng phát hành tiền tệ. Nói cách khác, lúc này trên lãnh thổ Việt Nam lại có nhiều loại tiền tệ được lưu thông và sử dụng trong thanh toán một cách hợp pháp.


Như thế thì việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN với tiền đồng sẽ trở nên vô tác dụng bởi mỗi khi, ví dụ, NHNN muốn tăng lãi suất tiền đồng để ngăn chặn dòng ngoại hối đổ ra nước ngoài thì lập tức người dân sẽ chuyển sang vay mượn bằng tiền di động, tiền điện tử có chi phí thấp hơn, làm vô hiệu hóa chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN.


Còn nếu lập luận rằng tiền di động cũng là tiền đồng, do NHNN phát hành và điều tiết, được người tiêu dùng nộp cho công ty viễn thông để đổi lấy tiền di động dùng được “tạo ra” bởi các công ty này để thanh toán trên điện thoại nên sẽ không có ảnh hưởng gì đến hiệu quả của chính sách tiền tệ của NHNN thì lập luận này lại tạo ra một lỗ hổng lớn trong lập luận ủng hộ cho việc phát hành và sử dụng tiền di động.


Cụ thể, tiền di động được cho là giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt nên cần được khuyến khích phát triển vì nó sẽ bao phủ cả những nơi người tiêu dùng không tiếp cận được các dịch vụ ngân hàng, không có internet. Nhưng bản thân việc người tiêu dùng phải mang tiền mặt đến công ty viễn thông (hoặc mua thẻ cào) để chuyển đổi sang tiền di động đã vi phạm tiền đề/điều kiện là không dùng tiền mặt!


Tóm lại, NHNN cần sửa đổi lại dự thảo theo hướng quy định rõ tiền điện tử được sử dụng trong thanh toán hợp pháp ở Việt Nam phải là tiền được số hóa từ tiền đồng và việc phát hành phải thông qua nối kết với tài khoản ngân hàng (để đảm bảo nguyên tắc không dùng tiền mặt và đáp ứng các quy định về phòng chống rửa tiền...). Các tổ chức phát hành không chỉ được giới hạn là ngân hàng và tổ chức viễn thông, miễn là được NHNN cấp phép, công nhận.

Thursday 7 November 2019

Cho vay qua app: Khó cấm, phải tìm cách quản (Bài đăng trên TBKTSG, 7/11/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/296515/cho-vay-qua-app-kho-cam-phai-tim-cach-quan.html

Công an vừa phá một vụ án “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” mà các đối tượng đã cho người dân vay với lãi suất đến 4,4%/ngày thông qua app – mọi giao dịch đều được thực hiện qua Internet và điện thoại di động. Nếu đến hạn không trả được nợ thì nhân viên thu hồi nợ sẽ liên tục điện thoại cho người nợ để đòi nợ và/hoặc cho tất cả những người có trong danh bạ điện thoại của người vay để tạo áp lực lên người vay phải trả nợ (1).

“Tiên trách kỷ”

Hiển nhiên là khi nghe đến lãi suất cho vay 4,4%/ngày thì không ai không cảm thấy bất bình cho người “bị hại” và lên án kẻ cho vay nặng lãi theo kiểu “cắt cổ” này và có hướng suy đến sự lừa đảo, lập lờ thông tin để người vay “chui vào tròng” một khi đã vướng vào vay nặng lãi kiểu này.

Tuy nhiên, tỉnh táo mà nhìn lại thì không phải người cho vay qua app (tạm gọi là công ty cho vay) nào cũng là lừa đảo ở cái nghĩa là hoạt động “chui”, không phép, lãi suất cho vay vượt quá mức quy định theo luật pháp, cho vay có tính ép buộc, che giấu thông tin để lừa người vay...

Trong số các công ty cho vay nặng lãi mà Công an công bố như chủ sở hữu của app “Vaytocdo”, “Moreloan”, và “VD Online”, thử tra tìm thông tin về chúng trên Google thì hai cái đầu có website, còn cái thứ ba thì tìm mỏi mắt cũng... chưa thấy. Hai cái có website thì tuyệt nhiên không thấy có bất cứ một thông tin gì về ai là chủ sở hữu, chưa nói gì đến những thứ như địa chỉ, đăng ký kinh doanh... Nói tóm lại, những “công ty” cho vay qua app này đúng là tổ chức “tín dụng đen” ở cái nghĩa là tiến hành hoạt động cho vay không phép, và chỉ riêng hoạt động này thôi đã xứng đáng bị pháp luật sờ gáy, truy tố tội danh tương ứng.

Dẫu vậy, không thể phủ nhận rằng người vay hoàn toàn không bị dụ dỗ theo kiểu bị ép buộc, lừa phỉnh để vay tiền từ những app này. Họ hoàn toàn là những “nạn nhân” chủ động đi vay. Hơn nữa, cũng không thể nói khi đi vay, họ không biết gì về những khoản phí và lãi suất, bởi các mức này được thông báo rõ trước khi người vay ấn nút xác nhận (2). Do đó, đã để đến mức “vỡ nợ”, bị quấy rối bởi những kẻ đòi nợ (thuê) thì người vay trước tiên phải tự trách mình vì đã quyết định vay, dù biết vay sẽ phải trả lãi cao, dễ bị mất khả năng trả nợ, dễ bị đòi nợ qua (ứng dụng trên) điện thoại di động...

Không thể cấm

Sự hoạt động không phép thông qua app của những tổ chức tín dụng đen như trên rõ ràng là cần được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với mọi công ty/hoạt động cho vay qua app đều là xấu xa, bất hợp pháp, cần bị cấm đoán. Quay trở lại với những trường hợp người vay vừa là “nạn nhân”, vừa là “tòng phạm” tiếp sức cho sự tồn tại của những app tín dụng đen nêu trên, câu hỏi đặt ra là nếu họ không vay từ những app này thì họ sẽ vay ai, ở đâu?

Câu trả lời chung chung thường thấy là hãy tìm đến các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương hoặc trực tiếp đến tổ chức tín dụng, ngân hàng tin cậy để được hỗ trợ (1). Xin nói luôn là những lời khuyên kiểu này chỉ để cho có. Kể cả có suôn sẻ đến đâu thì cũng không tổ chức nào có thể cho vay ngay trong 10 phút, bất kể người vay là ai, ở đâu, làm gì... Cần luôn nhận thức rằng có rất nhiều người chỉ có thể vay ngay, vay được từ các số điện thoại dán trên cột điện, dù ai cũng tỉnh táo, có năng lực dân sự, cũng biết nếu được thì phải vay từ các nguồn chính thống như ngân hàng, tổ chức tín dụng.

Trong bối cảnh này, nếu cấm đoán, thì một bộ phận lớn có nhu cầu chính đáng trong số những người phải vay, chấp nhận vay nặng lãi sẽ rơi vào cảnh còn tuyệt vọng, khốn đốn hơn cả khi chấp nhận vay nặng lãi. Đó là chưa kể các hoạt động tín dụng đen bằng cách này hay cách khác vẫn sẽ luôn tồn tại, bất chấp pháp luật có nghiêm minh đến đâu (xem bài “Tín dụng đen sẽ “trường tồn”!) (3). Bởi vậy, giải pháp phải là đưa những hoạt động cho vay này vào khuôn khổ điều tiết của pháp luật trong chừng mực có thể.

Tìm cách quản

Cũng thử tra tìm trên Google thông tin liên quan sẽ thấy có một số điều “thú vị”. Có một số công ty chủ sở hữu app cho vay có đủ thông tin tối thiểu như đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên hệ; trên website thậm chí còn có cả mục Điều kiện và Điều khoản quy định chi tiết về giao dịch cho vay của mình. Như vậy, những thông tin công khai cho thấy công ty này là một thể nhân kinh doanh hợp pháp với dịch vụ cung ứng là (môi giới) cho vay trực tiếp qua app (hoặc trên website).

Trong bối cảnh tín dụng đen không thể dẹp bỏ thì sự tồn tại của những công ty cho vay trực tuyến này rõ ràng là giải pháp đỡ tệ hơn. Nói đỡ tệ hơn bởi đối tượng này vẫn có một số điểm không tốt, cần được điều chỉnh bởi pháp luật đặc biệt liên quan đến bảo mật thông tin và đòi nợ (chứ không phải là về phí và lãi suất, là những điều được công khai mà người vay được biết trước, biết rõ).

Lấy ví dụ với Công ty Tư vấn Tài chính X, chủ của ứng dụng “....Đồng”. Trong phần “Điều kiện và Điều khoản”, đọc thì sẽ thấy là có rất nhiều “cài cắm” tinh vi, có thể nói không quá lời là rất gian manh; toàn bộ rủi ro, bất lợi được công ty gạt hết sang người vay.

Chẳng hạn, điều khoản liên quan đến webstie của công ty quy định công ty có toàn quyền thay đổi bất kỳ tính năng, điều khoản, điều kiện áp dụng với người sử dụng website vào bất kỳ lúc nào, không cần báo trước; mọi thay đổi có hiệu lực ngay khi được cập nhật lên website; mọi dịch vụ hay sản phẩm đang được người dùng sử dụng sẽ phải chấp nhận các thay đổi, cập nhật đó.

Ngoài chuyện lời lẽ mơ hồ, hiểu kiểu gì cũng được, có một điều chắc chắn phải được hiểu đúng (theo ý đồ của công ty) là có một điều khoản nào đó công ty muốn điều chỉnh theo hướng có lợi cho mình thì chỉ việc “cập nhật” nó lên website. Như thế, một điều khoản tương ứng trong “hợp đồng” vay tiền hiện hữu của người vay với/thông  qua công ty rất có thể là không còn đúng như ban đầu nữa mà phải theo điều khoản mới theo hướng bất lợi cho người vay.

Những quy định liên quan đến tính an toàn, chính xác, bảo mật của website và “bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào” do công ty cung cấp cũng rất bất lợi cho người vay; công ty hoàn toàn không chịu trách nhiệm với bất cứ vấn đề nào phát sinh có thể gây thiệt hại cho khách hàng, dù rằng có thể lỗi là phía công ty, kể cả khi có virus máy tính liên quan đến các tài liệu, thông tin trên website... 

Tương tự, ngay những chuyện tưởng như hiển nhiên như điều khoản công ty và các đối tác được phép gửi thông tin và hình ảnh của người vay cho các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ liên quan, được phép liên lạc với người vay, điều mà công ty “cài cắm” chính là câu nèo sau đó rằng: “Vào bất cứ lúc nào bạn không muốn tiếp tục nhận được thông tin liên lạc từ ... Đồng, bạn có thể gọi điện trực tiếp vào số hotline của ... Đồng để nêu ra yêu cầu của mình”. Khi chấp nhận như thế này thì cầm chắc người vay sẽ còn tiếp tục “được” nhận thông tin liên lạc (chắc chắn là gồm nhiều liên lạc không mấy “thú vị” như tin nhắn khủng bố đòi nợ) từ “các đối tác” của công ty vì trong điều khoản chỉ nói là nếu không muốn nhận thông tin liên lạc từ công ty chứ không phải là từ “các đối tác” của công ty mà rất có thể trong đó gồm những kẻ đòi nợ thuê và/hoặc người cho vay thực sự. Hơn nữa, người vay gọi điện đến hotline để nêu ra yêu cầu nhưng sự nêu ra yêu cầu này không đồng nghĩa với việc công ty (và các đối tác) sẽ chấm dứt “thông tin liên lạc” với người vay, bởi đơn giản là chẳng có từ ngữ nào trong điều khoản này nói lên điều này cả!


Như vậy, song song với việc xử lý theo pháp luật các chủ nhân của website, app cho vay bất hợp pháp, nhà nước cần một mặt khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp cho vay trực tuyến/ngang hàng hợp pháp, có đăng ký, nhưng đồng thời phải đưa ra  những quy định và tiêu chuẩn chi tiết về hình thức cho vay này để bảo vệ, hạn chế rủi ro cho người vay qua kênh này (xem thêm bài “Cần sớm quản lý cho vay ngang hàng”) (4), cũng như thắt chặt các quy định về đòi nợ nói chung. 

(1) http://vneconomy.vn/canh-bao-vay-tin-dung-den-qua-app-web-lai-suat-1600--nam-20191101152004135.htm
(2) https://tuoitre.vn/vay-tien-qua-app-qua-nhanh-qua-nguy-hiem-20190703082332659.htm
(3) https://www.thesaigontimes.vn/286445/tin-dung-den-se-truong-ton-.html
(4) https://www.thesaigontimes.vn/279602/can-som-quan-ly-cho-vay-ngang-hang.html

Doanh nghiệp FDI lên sàn: Đừng biến bình thường thành bất thường (Bài đăng trên TBKTSG bản in số 44-2019)

https://www.thesaigontimes.vn/296173/doanh-nghiep-fdi-len-san-dung-bien-binh-thuong-thanh-bat-thuong.html
Theo báo cáo, hiện nay ở Việt Nam đã có một số doanh nghiệp FDI đã chuyển đổi thành công ty cổ phần nhưng chưa có quy định pháp lý cụ thể về việc niêm yết/đăng ký giao dịch. Hiện Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới chỉ làm được đến đoạn là “xin ý kiến của các cơ quan, đơn vị liên quan” để sẽ “sớm trình Thủ tướng Chính phủ cơ chế niêm yết/đăng ký giao dịch đối với doanh nghiệp FDI” (1). 


Đồng thời, dù vẫn chưa cho ra đời được cơ chế niêm yết/đăng ký nhưng Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã “lo xa” hơn khi “cũng sẽ có cơ chế phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện giám sát sau khi các doanh nghiệp FDI lên sàn”.

Do nghi ngờ?

Lý do của việc chậm chễ, trì hoãn kéo dài, và tuy chưa làm được (chưa ban hành cơ chế niêm yết) nhưng đã lo đến chuyện giám sát này có thể gói gọn trong hai chữ “nghi ngờ”!

Lý do trên có thể được thấy rõ qua trường hợp cụ thể là công ty Seoul Metal Việt Nam (SMV). Theo đó, “SMV được niêm yết cũng gây ra lo ngại cổ đông sáng lập bán cổ phiếu, nhà đầu tư nước ngoài rút vốn” (2). Với những doanh nghiệp FDI khác đã niêm yết, thời gian đầu thì kết quả tốt đẹp nhưng sau này thì thua lỗ, cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá, thậm chí bị hủy niêm yết..., đã có các giả thuyết đưa ra để giải thích là do chuyển giá, trốn thuế, nhà đầu tư ngoại rút vốn khi doanh nghiệp lên sàn... (1).

Tóm lại, viễn cảnh doanh nghiệp FDI lên sàn rõ ràng không được ít nhất là “thị trường” nhìn nhận một cách thiện cảm. Nếu có lên sàn thì họ sẽ bị nghi ngờ với những động cơ “không trong sáng” và thậm chí sẽ phải chịu nhiều phiền phức, rủi ro sau niêm yết do nhận được sự chú ý trên mức bình thường của cơ quan giám sát, xuất phát từ thành kiến với họ.

“Ngoại” cũng (phải được coi) là “nội”

Nếu quả thực lý do trên là nguyên nhân chính gây ra sự chậm chễ trong ban hành quy định và hướng dẫn doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán thì đây là một điều rất đáng tiếc và đáng trách, thể hiện một nhận thức hạn hẹp, sai lầm rất không phù hợp với bối cảnh thời nay.

Trước hết, cần khẳng định lại là mọi doanh nghiệp đăng ký và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam, dù là có nguồn gốc FDI, phải được đối xử công bằng như nhau, đặc biệt trong bối cảnh mà Việt Nam đã và đang ký kết các hiệp định tự do hóa thương mại và đầu tư (FTA). Trên cái nghĩa này, nếu doanh nghiệp FDI vẫn còn đang bị đối xử bất công ít nhất từ góc độ niêm yết trên sàn thì nghĩa vụ của Chính phủ là phải lập tức xóa bỏ ngay các đối xử này, để doanh nghiệp FDI được niêm yết theo cách áp dụng với các doanh nghiệp trong nước. Nếu không làm vậy thì hãy chuẩn bị tinh thần để bị kiện cáo vì phân biết đối xử.

Đó là về pháp lý. Còn về lý luận, việc niêm yết chẳng có liên quan gì đến những điều “xấu xí” mà “thị trường” đang đặt ra cho các doanh nghiệp FDI (muốn) niêm yết. Muốn chuyển giá/trốn thuế thì không cần phải đợi niêm yết mới thực hiện được (mà thậm chí là ngược lại thì đúng hơn, bởi khi niêm yết thì doanh nghiệp phải minh bạch thông tin). Hơn nữa, chẳng phải chỉ có doanh nghiệp FDI (niêm yết) mới có (xu hướng) chuyển giá, trốn thuế, mà ngay cả doanh nghiệp nội cũng vậy. Thế nên nếu lo ngại khi niêm yết, doanh nghiệp FDI sẽ trốn thuế/chuyển giá thì cùng một logic, doanh nghiệp nội cũng nên bị cấm/không khuyến khích niêm yết. Và, nói cho cùng, hiện cơ quan chức năng của Việt Nam đã “chỉ mặt” được mấy doanh nghiệp FDI (chưa niêm yết) có hành vi chuyển giá/trốn thuế, hay mới chỉ dừng lại ở những nghi vấn? 

Chủ đầu tư nước ngoài muốn thoái vốn thì cũng không cần phải đợi niêm yết mới thoái được, mà thậm chí là ngược lại thì đúng hơn, bởi lúc đã niêm yết, khi cổ đông lớn muốn thoái vốn thì phải thông báo, nên việc thoái vốn sau khi niêm yết có thể sẽ khó khăn hơn do thị trường hiểu rằng công ty hoặc cổ đông lớn “có vấn đề”, và sẽ không chấp nhận mua cổ phiếu doanh nghiệp, hoặc mua với giá không như cổ đông kỳ vọng. 

Đừng “ngược dòng” một mình!

Xem ra quan niệm tiêu cực về niêm yết của các doanh nghiệp FDI và hậu quả là sự chậm chễ trong niêm yết của các doanh nghiệp này ở Việt Nam như nói trên là trường hợp hãn hữu so với thế giới hiện nay. Nhìn chung, ở các nước khác, muốn niêm yết thì doanh nghiệp, không phân biệt nội hay ngoại, phải và chỉ cần đáp ứng một số điều kiện chung đặt ra bởi thị trường chứng khoán/sàn giao dịch của nơi mà doanh nghiệp muốn niêm yết (thậm chí với những nước có nhiều hơn một sàn giao dịch, như ở Mỹ, thì mỗi sàn giao dịch lại có một bộ các điều kiện khác nhau đối với việc niêm yết).

Ở Singapore, chỉ có hai loại hình doanh nghiệp/công ty chính, gồm công ty tư nhân (private company) và công ty đại chúng (public company). Công ty tư nhân có thể chọn chuyển đổi thành công ty đại chúng và (sau đó) lên sàn nếu thấy việc chuyển đổi và lên sàn có lợi cho mình hơn. Những lợi ích này gồm dễ gọi thêm vốn, làm tăng giá trị nắm giữ, dễ dàng mua bán cổ phần hơn, dễ gây dựng uy tín/hình ảnh doanh nghiệp hơn, dễ dùng cổ phiếu để mua bán, sáp nhập doanh nghiệp khác hơn... Ngược lại, việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và niêm yết sẽ đi kèm với nhiều bất lợi, gồm việc phải công khai thông tin, tốn thêm nhiều loại chi phí, dễ bị thôn tính, chịu thêm các quy định và thủ tục... 

Việc chuyển đổi thành công ty đại chúng và/hoặc niêm yết phải thỏa mãn một số điều kiện và tuân theo quy trình chung, thống nhất được quy định rõ ràng, công khai mà chẳng có điều kiện nào áp dụng riêng cho doanh nghiệp (có nguồn gốc) FDI (3). Thậm chí một doanh nghiệp tư nhân có thể bị bắt buộc phải chuyển đổi thành công ty đại chúng khi cơ quan quản lý thấy rằng công ty đó không còn đáp ứng điều kiện để là công ty tư nhân nữa (chẳng hạn như khi số lượng cổ đông của công ty vượt quá ngưỡng quy định là 50). Khi đó, công ty muốn tiếp tục tồn tại và hoạt động thì phải tuân theo quy định như áp dụng đối với công ty đại chúng.

Như vậy, nhìn rộng ra thế giới thì việc “cổ phần hóa” (biến công ty tư nhân thành công ty đại chúng, dù đó là một doanh nghiệp FDI như khái niệm đang được dùng ở Việt Nam) và niêm yết chỉ là một việc hết sức bình thường mà khuôn khổ pháp luật cho nó cần phải có, cần phải tạo dựng và áp dụng với mọi doanh nghiệp thích ứng, ngay khi thị trường chứng khoán ra đời.

Trước một điều bình thường, hiển nhiên và là một thông lệ trên thế giới như vậy, việc phân biệt đối xử, chậm chễ, trì hoãn cho doanh nghiệp FDI sau “cổ phần hóa” ở Việt Nam như hiện nay chẳng có bất cứ lý do gì để biện minh và kéo dài thêm.

(1) http://ndh.vn/som-co-co-che-dua-cac-doanh-nghiep-fdi-len-san-chung-khoan-20190712021346506p4c147.news
(2) http://ndh.vn/cua-nao-len-san-cho-doanh-nghiep-goc-fdi-nhin-tu-truong-hop-seoul-metal-viet-nam--2018062804357992p4c147.news
(3) https://www.3ecpa.com.sg/resources/finances-and-grants/going-for-public-listing-in-singapore

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).