https://www.thesaigontimes.vn/td/296515/cho-vay-qua-app-kho-cam-phai-tim-cach-quan.html
Công an vừa phá một
vụ án “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” mà các đối tượng đã cho người
dân vay với lãi suất đến 4,4%/ngày thông qua app – mọi giao dịch đều được thực
hiện qua Internet và điện thoại di động. Nếu đến hạn không trả được nợ thì nhân
viên thu hồi nợ sẽ liên tục điện thoại cho người nợ để đòi nợ và/hoặc cho tất cả
những người có trong danh bạ điện thoại của người vay để tạo áp lực lên người
vay phải trả nợ (1).
“Tiên trách kỷ”
Hiển nhiên là khi
nghe đến lãi suất cho vay 4,4%/ngày thì không ai không cảm thấy bất bình cho
người “bị hại” và lên án kẻ cho vay nặng lãi theo kiểu “cắt cổ” này và có hướng
suy đến sự lừa đảo, lập lờ thông tin để người vay “chui vào tròng” một khi đã
vướng vào vay nặng lãi kiểu này.
Tuy nhiên, tỉnh
táo mà nhìn lại thì không phải người cho vay qua app (tạm gọi là công ty cho
vay) nào cũng là lừa đảo ở cái nghĩa là hoạt động “chui”, không phép, lãi suất
cho vay vượt quá mức quy định theo luật pháp, cho vay có tính ép buộc, che giấu
thông tin để lừa người vay...
Trong số các công
ty cho vay nặng lãi mà Công an công bố như chủ sở hữu của app “Vaytocdo”,
“Moreloan”, và “VD Online”, thử tra tìm thông tin về chúng trên Google thì hai
cái đầu có website, còn cái thứ ba thì tìm mỏi mắt cũng... chưa thấy. Hai cái
có website thì tuyệt nhiên không thấy có bất cứ một thông tin gì về ai là chủ sở
hữu, chưa nói gì đến những thứ như địa chỉ, đăng ký kinh doanh... Nói tóm lại,
những “công ty” cho vay qua app này đúng là tổ chức “tín dụng đen” ở cái nghĩa
là tiến hành hoạt động cho vay không phép, và chỉ riêng hoạt động này thôi đã xứng
đáng bị pháp luật sờ gáy, truy tố tội danh tương ứng.
Dẫu vậy, không thể
phủ nhận rằng người vay hoàn toàn không bị dụ dỗ theo kiểu bị ép buộc, lừa phỉnh
để vay tiền từ những app này. Họ hoàn toàn là những “nạn nhân” chủ động đi vay.
Hơn nữa, cũng không thể nói khi đi vay, họ không biết gì về những khoản phí và
lãi suất, bởi các mức này được thông báo rõ trước khi người vay ấn nút xác nhận
(2). Do đó, đã để đến mức “vỡ nợ”, bị quấy rối bởi những kẻ đòi nợ (thuê) thì
người vay trước tiên phải tự trách mình vì đã quyết định vay, dù biết vay sẽ phải
trả lãi cao, dễ bị mất khả năng trả nợ, dễ bị đòi nợ qua (ứng dụng trên) điện
thoại di động...
Không thể cấm
Sự hoạt động
không phép thông qua app của những tổ chức tín dụng đen như trên rõ ràng là cần
được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với mọi công ty/hoạt
động cho vay qua app đều là xấu xa, bất hợp pháp, cần bị cấm đoán. Quay trở lại
với những trường hợp người vay vừa là “nạn nhân”, vừa là “tòng phạm” tiếp sức
cho sự tồn tại của những app tín dụng đen nêu trên, câu hỏi đặt ra là nếu họ
không vay từ những app này thì họ sẽ vay ai, ở đâu?
Câu trả lời chung
chung thường thấy là hãy tìm đến các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền địa
phương hoặc trực tiếp đến tổ chức tín dụng, ngân hàng tin cậy để được hỗ trợ
(1). Xin nói luôn là những lời khuyên kiểu này chỉ để cho có. Kể cả có suôn sẻ
đến đâu thì cũng không tổ chức nào có thể cho vay ngay trong 10 phút, bất kể
người vay là ai, ở đâu, làm gì... Cần luôn nhận thức rằng có rất nhiều người chỉ
có thể vay ngay, vay được từ các số điện thoại dán trên cột điện, dù ai cũng tỉnh
táo, có năng lực dân sự, cũng biết nếu được thì phải vay từ các nguồn chính thống
như ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Trong bối cảnh
này, nếu cấm đoán, thì một bộ phận lớn có nhu cầu chính đáng trong số những người
phải vay, chấp nhận vay nặng lãi sẽ rơi vào cảnh còn tuyệt vọng, khốn đốn hơn cả
khi chấp nhận vay nặng lãi. Đó là chưa kể các hoạt động tín dụng đen bằng cách
này hay cách khác vẫn sẽ luôn tồn tại, bất chấp pháp luật có nghiêm minh đến
đâu (xem bài “Tín dụng đen sẽ “trường tồn”!) (3). Bởi vậy, giải pháp phải là
đưa những hoạt động cho vay này vào khuôn khổ điều tiết của pháp luật trong chừng
mực có thể.
Tìm cách quản
Cũng thử tra tìm
trên Google thông tin liên quan sẽ thấy có một số điều “thú vị”. Có một số công
ty chủ sở hữu app cho vay có đủ thông tin tối thiểu như đăng ký kinh doanh, địa
chỉ liên hệ; trên website thậm chí còn có cả mục Điều kiện và Điều khoản quy định
chi tiết về giao dịch cho vay của mình. Như vậy, những thông tin công khai cho
thấy công ty này là một thể nhân kinh doanh hợp pháp với dịch vụ cung ứng là (môi
giới) cho vay trực tiếp qua app (hoặc trên website).
Trong bối cảnh
tín dụng đen không thể dẹp bỏ thì sự tồn tại của những công ty cho vay trực tuyến
này rõ ràng là giải pháp đỡ tệ hơn. Nói đỡ tệ hơn bởi đối tượng này vẫn có một
số điểm không tốt, cần được điều chỉnh bởi pháp luật đặc biệt liên quan đến bảo
mật thông tin và đòi nợ (chứ không phải là về phí và lãi suất, là những điều được
công khai mà người vay được biết trước, biết rõ).
Lấy ví dụ với
Công ty Tư vấn Tài chính X, chủ của ứng dụng “....Đồng”. Trong phần “Điều kiện
và Điều khoản”, đọc thì sẽ thấy là có rất nhiều “cài cắm” tinh vi, có thể nói
không quá lời là rất gian manh; toàn bộ rủi ro, bất lợi được công ty gạt hết
sang người vay.
Chẳng hạn, điều
khoản liên quan đến webstie của công ty quy định công ty có toàn quyền thay đổi
bất kỳ tính năng, điều khoản, điều kiện áp dụng với người sử dụng website vào bất
kỳ lúc nào, không cần báo trước; mọi thay đổi có hiệu lực ngay khi được cập nhật
lên website; mọi dịch vụ hay sản phẩm đang được người dùng sử dụng sẽ phải chấp
nhận các thay đổi, cập nhật đó.
Ngoài chuyện lời
lẽ mơ hồ, hiểu kiểu gì cũng được, có một điều chắc chắn phải được hiểu đúng
(theo ý đồ của công ty) là có một điều khoản nào đó công ty muốn điều chỉnh
theo hướng có lợi cho mình thì chỉ việc “cập nhật” nó lên website. Như thế, một
điều khoản tương ứng trong “hợp đồng” vay tiền hiện hữu của người vay với/thông qua công ty rất có thể là không còn đúng như ban
đầu nữa mà phải theo điều khoản mới theo hướng bất lợi cho người vay.
Những quy định
liên quan đến tính an toàn, chính xác, bảo mật của website và “bất kỳ sản phẩm
dịch vụ nào” do công ty cung cấp cũng rất bất lợi cho người vay; công ty hoàn
toàn không chịu trách nhiệm với bất cứ vấn đề nào phát sinh có thể gây thiệt hại
cho khách hàng, dù rằng có thể lỗi là phía công ty, kể cả khi có virus máy tính
liên quan đến các tài liệu, thông tin trên website...
Tương tự, ngay những
chuyện tưởng như hiển nhiên như điều khoản công ty và các đối tác được phép gửi
thông tin và hình ảnh của người vay cho các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ
liên quan, được phép liên lạc với người vay, điều mà công ty “cài cắm” chính là
câu nèo sau đó rằng: “Vào bất cứ lúc nào bạn không muốn tiếp tục nhận được
thông tin liên lạc từ ... Đồng, bạn có thể gọi điện trực tiếp vào số hotline của
... Đồng để nêu ra yêu cầu của mình”. Khi chấp nhận như thế này thì cầm chắc
người vay sẽ còn tiếp tục “được” nhận thông tin liên lạc (chắc chắn là gồm nhiều
liên lạc không mấy “thú vị” như tin nhắn khủng bố đòi nợ) từ “các đối tác” của
công ty vì trong điều khoản chỉ nói là nếu không muốn nhận thông tin liên lạc từ
công ty chứ không phải là từ “các đối tác” của công ty mà rất có thể trong đó gồm
những kẻ đòi nợ thuê và/hoặc người cho vay thực sự. Hơn nữa, người vay gọi điện
đến hotline để nêu ra yêu cầu nhưng sự nêu ra yêu cầu này không đồng nghĩa với
việc công ty (và các đối tác) sẽ chấm dứt “thông tin liên lạc” với người vay, bởi
đơn giản là chẳng có từ ngữ nào trong điều khoản này nói lên điều này cả!
Như vậy, song
song với việc xử lý theo pháp luật các chủ nhân của website, app cho vay bất hợp
pháp, nhà nước cần một mặt khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp cho
vay trực tuyến/ngang hàng hợp pháp, có đăng ký, nhưng đồng thời phải đưa
ra những quy định và tiêu chuẩn chi tiết
về hình thức cho vay này để bảo vệ, hạn chế rủi ro cho người vay qua kênh này
(xem thêm bài “Cần sớm quản lý cho vay ngang hàng”) (4), cũng như thắt chặt các
quy định về đòi nợ nói chung.
(1) http://vneconomy.vn/canh-bao-vay-tin-dung-den-qua-app-web-lai-suat-1600--nam-20191101152004135.htm
(2) https://tuoitre.vn/vay-tien-qua-app-qua-nhanh-qua-nguy-hiem-20190703082332659.htm
(3) https://www.thesaigontimes.vn/286445/tin-dung-den-se-truong-ton-.html
(4) https://www.thesaigontimes.vn/279602/can-som-quan-ly-cho-vay-ngang-hang.html
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
No comments:
Post a Comment