Monday 9 December 2019

Nhiều cấm đoán hơn về hoạt động thẻ tín dụng: có khả thi? (Bài đăng trên TBKTSG, 9/12/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/297721/nhieu-cam-doan-hon-ve-hoat-dong-the-tin-dung-co-kha-thi.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến cho dự thảo thông tư sửa đổi một số điều tại Thông tư 19/2016 quy định về hoạt động thẻ ngân hàng. Theo đó, dự thảo sẽ có nhiều cấm đoán hơn về hoạt động của thẻ ATM và thẻ tín dụng do cả ngân hàng và công ty tài chính phát hành.


Cấm để cho có?

Một nội dung cấm đáng lưu ý là cấm sử dụng thẻ để thanh toán ra nước ngoài cho các giao dịch kinh doanh, mua bán ngoại tệ, chứng khoán trên sàn thương mại điện tử nước ngoài; sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Hiển nhiên là những hoạt động thẻ nói trên nên/cần bị cấm vì đều là những hoạt động làm phương hại đến an ninh, an toàn kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, điều đáng nói là ai, và làm thế nào để xác định được các giao dịch thuộc dạng cấm nói trên và xử lý như thế nào? Nếu dự thảo không đưa ra chi tiết các biện pháp xác định và phòng chống hữu hiệu với cơ quan tổ chức thực hiện cụ thể thì có thể nói ngay rằng quy định như vậy trong dự thảo chỉ là để cho có, nói cho hay, cho tròn trách nhiệm mà thôi.

Về phạm vi sử dụng thẻ tín dụng, dự thảo quy định thẻ tín dụng chỉ được sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ; nạp, rút tiền mặt theo thỏa thuận giữa chủ thẻ với tổ chức phát hành thẻ. Thử hỏi, còn có loại hình giao dịch nào liên quan đến thẻ tín dụng ngoài thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ để bị cấm như nêu trong dự thảo? Giả sử chủ thẻ dùng thẻ tín dụng tiến hành một giao dịch phi thanh toán, dưới dạng chuyển tiền cho một người nào đó nhưng dưới vỏ bọc là thanh toán tiền mua dịch vụ của người này thì liệu giao dịch này có bị cấm, và nếu bị cấm thì trước hết ai và làm sao để phát hiện, làm sao để chứng minh đây là giao dịch khống/bị cấm? 


Tự mâu thuẫn, đào thải
Như nêu ở trên, dự thảo cho phép nạp, rút tiền mặt theo thỏa thuận giữa chủ thẻ với tổ chức phát hành thẻ. Nói cách khác, nếu giữa tổ chức phát hành thẻ (ngân hàng) và chủ thẻ có một thỏa thuận (về việc rút tiền, chuyển tiền) thì việc này là hợp pháp, được công nhận bởi dự thảo.

Nhưng mặt khác, dự thảo lại có những quy định cụ thể nhằm ngăn chặn việc rút tiền mặt qua thẻ hoặc ngân hàng chuyển tiền từ thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân (1). Như vậy, cùng một việc rút tiền mặt, dự thảo lúc thì cho phép, lúc thì cấm đoán. Vậy phải hiểu thế nào cho đúng đây?
Ngoài ra, dự thảo quy định các tổ chức cung cấp dịch vụ thẻ triển khai các biện pháp kiểm soát, ngăn chặn (từ chối giao dịch, từ chối thanh toán thẻ, chấm dứt hợp đồng thanh toán), không cho phép lợi dụng thẻ tín dụng để sử dụng vào các mục đích không đúng quy định, nhằm kiểm soát hiện tượng các ngân hàng thương mại chuyển tiền từ thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân, không đúng với quy định hiện hành. Quy định lúng túng, khiên cưỡng kiểu này cho thấy trước sự bất hiệu quả bởi NHNN để cho ngân hàng thương mại tự kiểm soát, ngăn chặn các hành vi chuyển tiền của... chính ngân hàng thương mại đó!

Phải chứng minh sự nguy hại
NHNN đã tỏ ra rất “quan ngại” với việc rút tiền mặt qua thẻ và chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân. Sự lo ngại này được chính thức đề cập đến bằng những điều khoản cụ thể trong dự thảo. Báo chí thì tiếp tục hưởng ứng bằng việc nêu (lại) những trường hợp “người thực việc thực” liên quan đến việc rút tiền khống và chuyển tiền này với “tông” giọng cũng rất “quan ngại”, nhưng lại không chỉ ra được rằng hành vi này đã dẫn đến hậu quả gì.

Trên hết, cho đến nay vẫn chưa thấy có bất cứ diễn giải thuyết phục nào cho thấy việc rút tiền mặt qua thẻ và chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng vào tài khoản cá nhân lại gây ra một mối nguy hại đáng kể cụ thể nào đó cho trật tự kinh tế, xã hội từ phía nhà làm luật, giới chuyên gia cũng như người trong ngành. Như đã được đề cập đến trong một bài viết trên TBKTSG (2), nếu có chăng thì chỉ là một vài diễn giải, quan điểm khá mơ hồ, thiếu thuyết phục để cần thiết phải cấm đoán nghiêm ngặt các hành vi này.
Vì vậy, trước khi muốn đặt ra ngoài vòng pháp luật các hành vi rút tiền khống và chuyển tiền nêu trên như trong dự thảo thì NHNN cần thiết phải có giải trình chính thức, đầy đủ và xác đáng tại sao những hành vi trên cần phải bị cấm. Rất tiếc, cho đến nay, NHNN dường như vẫn chưa có một giải trình chính thức như vậy trước công luận cũng như trước các cơ quan hữu quan.

Nếu không, sự cấm đoán, luật hóa này chỉ phản ánh ý chí một chiều của nhà làm luật mà thiếu đi sự hiểu biết cần thiết, sự tham khảo thực tiễn các nước trên thế giới, và quan trọng hơn là sẽ bị vô hiệu hóa trên thực tế bởi đi ngược lại nhu cầu xác đáng của nhiều người trong xã hội.
(1) http://cafef.vn/siet-the-tin-dung-thong-diep-manh-tay-tu-ngan-hang-nha-nuoc-20191201075622109.chn
(2) https://www.thesaigontimes.vn/td/292460/chi-khong-cho-vay-qua-the-tin-dung-dang-lo-toi-dau.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).