Thursday 31 December 2020

Thành công chưa trọn vẹn (Bài đăng trên TBKTSG, 31/12/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/312226/thanh-cong-chua-tron-ven.html

Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ngày 21/12/2020 có đăng bài “Singapore mở sàn giao dịch tiền số và chứng khoán số đầu tiên”. Tôi ấn tượng với bình luận của một bạn đọc cho bài viết này, rằng: “Lúc nào cũng đi đầu và đi trước thiên hạ. Singapore quả là đối thủ không thể vượt qua trên lĩnh vực kinh doanh tài chính tiền tệ”. Rồi trước đó, cũng trên cùng tờ báo là tin về Singapore đã biến thành đầu mối logistics khu vực phân phối vaccine phòng Covid-19. Chắc chắn rồi những bứt phá này sẽ củng cố mạnh mẽ hơn nữa tính cạnh tranh (và tức là lợi nhuận thu về) của Singapore trong tương lai.

Ấn tượng không phải bởi lời bình luận hoặc những tin tức này đã chỉ ra đúng là Singapore đã đi trước và đi xa so với thiên hạ. Một cách gián tiếp, lời bình luận và những tin tức này một lần nữa cho thấy rõ ràng trong nguy luôn có cơ và những ai thành công là những người luôn biết nắm bắt cơ hội kể cả trong lúc nguy khốn để bứt phá.

Nhìn lại kinh tế, xã hội Việt Nam trong năm 2020. Điều không thể phủ nhận là Việt Nam đã có một năm về cơ bản là thành công, ở cái nghĩa là đã kiềm chế đại dịch rất thành công, với số người chết là tối thiểu và tránh được những đợt phong tỏa trên diện rộng. Chính vì kiềm chế đại dịch thành công nên nền kinh tế, xã hội cũng vì thế mà ít bị xáo trộn, tác động hơn một cách tương đối so với nhiều nước trên thế giới, vẫn tăng trưởng dương đáng kể, trong khi phần lớn các nước khác buộc phải chứng kiến nền kinh tế của mình bị co thắt mạnh, thậm chí nạn nghèo đói tăng vọt.

Nhưng... chỉ có thế!?  

Từ câu chuyện của Singapore, điều tôi (và chắc không ít bạn đọc sẽ) chợt nhận ra khi nhìn lại Việt Nam trong một năm qua là chúng ta đã mới chỉ thành công trong việc giữ cho mình ít bị tác động, thiệt hại hơn một cách tương đối so với các nước đối tác. Chúng ta đã không thành công khi không biết, không tạo ra, không nắm bắt được những cơ hội, những tiền đề để gặt hái thành công hơn nữa và có tính bền vững trong tương lai từ thành công hiện tại.

Hãy thử điểm lại những gì mà Việt Nam cần, đã có thể phải làm để bứt tốc bền vững và dài hạn thời hậu đại dịch? Rất tiếc là hầu như không có gì nhiều và đáng kể để đề cập ở đây. Cho đến tận thời điểm này mà chúng ta hầu như mới chỉ đang loay hoay với một số ý tưởng và chiến lược (là chiến thuật thì đúng hơn) kiểu như trợ cấp cho ngành hàng không trong nước để tận dụng cơ hội bứt phá trong thời gian tới khi ngành hàng không thế giới bị ảnh hưởng nặng nề và ít cơ hội phục hồi mạnh mẽ; nên coi thành phần kinh tế tư nhân là cái gì... Thời gian trước đó thì “cái gai” (tức mũi nhọn) của nền kinh tế trong thời đại dịch xem ra hầu như chỉ là... sản xuất và xuất khẩu khẩu trang!

Sau rốt, câu hỏi nền kinh tế Việt Nam sẽ có hình hài như thế nào, có “cái gai” nào, đi về đâu... vẫn bỏ ngỏ ở thời hiện tại. Và quan trọng là chúng ta dường như trên thực tế mới dừng lại ở mức “chờ và xem”, chờ đại dịch đi qua, chờ thế giới được tiêm vaccine để phục hồi trở lại, để nhập khẩu nhiều hơn rồi sẽ nâng đỡ nền kinh tế Việt Nam theo kiểu “nước lên thuyền cũng lên”... mà chưa có mấy động thái được “quy hoạch” và tiến hành một cách nhanh chóng, chủ động và rốt ráo.

Tất nhiên là sẽ có những lời biện hộ rằng so sánh với Singapore thì so sánh làm gì, có mấy nước được như họ đâu... Thực tế đúng là như vậy. Nhưng nếu Việt Nam không vượt qua được thực tế này, cũng chỉ “bình bình” như những nước khác thì cũng khó, đừng mong vượt qua được cái gọi là “bẫy thu nhập trung bình”, đừng mong thu hẹp khoảng cách thu nhập với các nước khác, và cần nghiêm túc xem xét lại sự ưu việt của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã, đang và tiếp tục theo đuổi khi mà nó không là bà đỡ cho những ý tưởng bứt phá và môi trường thuận lợi để hiện thực hóa những ý tưởng này.

Thursday 10 December 2020

Dù có vốn nhà nước cũng không dễ hỗ trợ nếu không muốn... bị kiện! (Bài đăng trên TBKTSG, 10/12/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/311516/du-co-von-nha-nuoc-cung-khong-de-ho-tro-neu-khong-muon-bi-kien.html

 Mới đây, khi được hỏi về chuyện hỗ trợ tài chính cho các hãng hàng  không tư nhân nhân việc Vietnam Airlines (VNA) được nhà nước cho vay ưu đãi, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải nói rằng: "Riêng về hỗ trợ tài chính, bây giờ mới là đề xuất của các hãng tư nhân. Hãng hàng không Vietnam Airlines là hãng hàng không quốc gia, xuất phát là doanh nghiệp nhà nước và có vốn Nhà nước. Do đó việc bảo toàn vốn Nhà nước cũng là một khía cạnh để chúng ta xem xét việc hỗ trợ. Còn về các hãng tư nhân, chúng tôi cho là phải đối xử bình đẳng nhưng phải xem xét yếu tố vốn xuất phát từ đâu, và hỗ trợ là hỗ trợ cho hoạt động hàng không bình đẳng" (1).

Theo phát biểu trên, có thể hiểu rằng VNA (từng) là doanh nghiệp nhà nước (DNNN), có vốn nhà nước nên nhà nước (đương nhiên) phải cứu trợ, cho vay ưu đãi. Bởi điểm khác biệt này nên các hãng hàng không tư nhân rất có thể không được hưởng những cứu trợ tài chính tương tự.

Phát biểu trên nếu xét từ góc độ đảm bảo sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong nước và với nước ngoài trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết thì có thể đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản liên quan đến vấn đề này.

Thứ nhất là nguyên tắc không được hỗ trợ bằng các điều khoản phi thương mại (tái cấp vốn, cho vay ưu đãi với lãi suất 0% như trong trường hợp của VNA là một dạng hỗ trợ này), vốn có thể làm tổn thương đến doanh nghiệp/quốc gia thành viên khác trong FTA.

Cụ thể, theo điều khoản về DNNN trong Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam là thành viên thì không một nước thành viên CPTPP nào được có những hành động làm tổn thương các nước thành viên CPTPP khác thông qua việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ phi thương mại dành cho các DNNN của nước thành viên đó.

Hãy dự liệu đến trường hợp một hãng hàng không ABC nào đó của một nước thành viên CPTPP cũng có đường bay đến Việt Nam hoặc cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, và/hoặc là đối thủ cạnh tranh của VNA trên một số đường bay nội địa/quốc tế nào đó cũng đang gặp khó khăn trong và sau đại dịch Covid-19 như VNA. Tuy nhiên, việc VNA được Nhà nước Việt Nam hỗ trợ tài chính (trong khi nước sở tại của ABC thì không) bằng những điều khoản phi thương mại đã làm cho VNA trở nên có lợi thế cạnh tranh một cách bất bình đẳng hơn so với ABC, gây thiệt hại cho ABC về doanh thu và thị phần. ĐIều tiếp theo rất có thể sẽ là ABC sẽ kiện cáo Nhà nước Việt Nam trong khuôn khổ CPTPP, chắc chắn sẽ kéo theo những hậu quả cho VNA nói riêng và Việt Nam nói chung vì đã vi phạm một trong những nguyên tắc cơ bản của CPTPP.

Ngược lại, cũng với kịch bản trên ở cùng nước thành viên CPTPP nơi các hãng hàng không không được hỗ trợ và bị cạnh tranh bởi VNA qua các đường bay đến hoặc cung cấp dịch vụ ở nước thành viên này. Việc VNA nhận được hỗ trợ của nhà nước và trở nên cạnh tranh hơn, gây thiệt hại cho các hãng hàng không của nước sở tại sẽ châm ngòi cho việc các hãng hàng không này khiếu kiện VNA và Chính phủ Việt Nam. Kết quả thì chắc sẽ là những thiệt hại cho phía Việt Nam.

Thứ hai là nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp phi nhà nước (tư nhân, nước ngoài). Theo Chỉ dẫn của OECD về quản trị DNNN – một tiêu chuẩn quốc tế về cách các Chính phủ quản lý DNNN mà Việt Nam cũng là một bên được tham vấn, thì các Chính phủ phải đảm bảo một sân chơi bình đẳng trên thị trường nơi mà DNNN và doanh nghiệp phi nhà nước cùng cạnh tranh để “tránh làm méo mó thị trường”. Như vậy, “DNNN phải được đối mặt với những điều kiện cạnh tranh trong tiếp cận tài chính”, và “Quan hệ của DNNN với các ngân hàng có vốn nhà nước và các DNNN khác “phải dựa trên cơ sở thương mại thuần túy” (2). Vì nhiều FTA đã và sẽ được xây dựng trên nguyên tắc này nên nếu Việt Nam công khai cứu trợ về tài chính, cho vay ưu đãi VNA mà ít nhất là không cứu trợ các hãng hàng không tư nhân trong nước, cho dù với cái lý do tưởng không thể hợp lý hơn là nhà nước có vốn trong VNA nên phải cứu trợ, thì Chính phủ Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã và đang vi phạm những nguyên tắc thương mại, đầu tư cơ bản được thế giới và chính mình công nhận.    

Lại giả sử tiếp rằng nếu sau này có một doanh nghiệp hàng không EU nào đó muốn thành lập một công ty con, chi nhánh tại Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do giữa EU và Việt Nam (VEFTA) vừa được ký kết, và công ty này phải đối mặt với sự phân biệt đối xử của Việt Nam (ưu đãi dành riêng cho VNA) gây thiệt hại cho hoạt động công ty tại Việt Nam thì khả năng Việt Nam bị kiện bởi công ty này là không thể loại bỏ.  

Ngoài ra, có lẽ trong quan niệm của giới làm chính sách ở Việt Nam thì các doanh nghiệp tư nhân, gồm các hãng hàng không ngoài VNA, vẫn là “thấp cổ bé họng” nên chính sách ban hành ra dù có mang tính phân biệt đối xử thế nào thì cứ ráng chịu chứ không phản kháng được. Cho dù có đúng như vậy nhưng cũng cần lưu ý rằng trong cơ cấu cổ đông của những doanh nghiệp tư nhân này có một tỷ lệ đáng kể là nhà đầu tư nước ngoài – là những nhà đầu tư được hậu thuẫn bởi Chính phủ nước xuất xứ mà rất có thể Việt Nam đã ký kết FTA với họ, ví dụ như VEFTA. Như vậy, họ hoàn toàn có quyền và năng lực kiện cáo Chính phủ Việt Nam đã phân biệt đối xử làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của họ ở Việt Nam. 

Tóm lại, hành động cứu trợ tài chính dành cho VNA dù vì lý do nào chăng nữa cũng là một hành động dễ gây phản kháng nếu những bị hại tiềm năng có thể chứng minh được họ bị ảnh hưởng đáng kể. Nói cách khác, trong thời buổi hiện nay với các ràng buộc từ các FTA đã và sắp ký kết thì Việt Nam cần sớm từ bỏ các quan niệm sai lầm một thời về và chấm dứt các hành động cứu trợ dành cho DNNN mang tính phân biệt đối xử.

(1)    https://cafef.vn/bo-gtvt-noi-ve-viec-hang-bay-tu-nhan-xin-uu-dai-doi-xu-binh-dang-nhung-phai-xem-xet-yeu-to-von-xuat-phat-tu-dau-20201202194223838.chn

(2)    https://www.uscc.gov/sites/default/files/2.15.12drake_testimony.pdf

Friday 27 November 2020

Tránh việc đổ gánh nặng của ngành thuế lên người dân (Bài đăng trên TBKTSG Online, 26/11/2020)

 https://www.thesaigontimes.vn/311097/tranh-viec-do-ganh-nang-cua-nganh-thue-len-nguoi-dan.html

Nghị định số 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế sẽ chính thức có hiệu lực từ đầu tháng 12 này và đang tạo ra nhiều dư luận trái chiều. Phần lớn dư luận trái chiều tập trung vào góc độ sợ lộ thông tin khách hàng của ngân hàng, là lo ngại phần nào có lý, bởi càng nhiều người được “chia sẻ” thông tin, dù là các công chức nhà nước, thì càng có nhiều dư địa để lộ thông tin.

Tuy nhiên, điều mà dư luận hầu như chưa đề cập đến và ít người để ý đến liên quan đến nghị định trên là những bất cập của nó sẽ tạo ra những gánh nặng cho xã hội mà rốt cuộc khách hàng của ngân hàng, tức người dân và doanh nghiệp, sẽ phải gánh chịu.

Cụ thể, theo đề nghị của cơ quan thuế, ngân hàng thương mại (NHTM) có trách nhiệm cung cấp và cập nhật hàng tháng các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế (Điều 30). Nếu cơ quan thuế chỉ “đề nghị” NHTM cung cấp thông tin tài khoản của một số lượng ít khách hàng của NHTM thì cũng có thể coi là không ảnh hưởng gì lắm đến NHTM.

Nhưng nếu số lượng bị “đề nghị” này là một con số lên đến hàng trăm ngàn, hàng triệu tài khoản thì chắc chắn NHTM sẽ phải dành riêng một nguồn lực đáng kể để chuyên trách đảm nhiệm công việc được “đề nghị” này. Như thế, chắc chắn cái giá của nguồn lực tiêu phí này sẽ cuối cùng đổ lên khách hàng của ngân hàng và nền kinh tế.

Nói cách khác, sự tiện lợi cho ngành thuế có thể sẽ được trả giá bởi người dân và doanh nghiệp.

Tiếp đó, nghị định cũng quy định NHTM khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam.

Cần lưu ý rằng NHTM chỉ là trung gian thực hiện các giao dịch, nếu có, giữa người nộp thuế và cơ quan thuế, chẳng hạn như thực hiện lệnh chuyển tiền (để nộp thuế) của chủ tài khoản đến một tài khoản chỉ định bởi cơ quan thuế. NHTM không phải, không thể, không có thẩm quyền và tư cách pháp lý đại diện cho cơ quan thuế để làm những công việc của cơ quan thuế. Nên những việc như tự động khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế,... là những công việc không phải của NHTM, trừ khi được cơ quan thuế yêu cầu bằng văn bản cho từng đối tượng cụ thể mà ngành thuế giám sát, theo dõi. 

Nếu cứ “bắt” NHTM phải tự động khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế... như quy định thì sẽ lại dẫn đến hậu quả là gây tốn phí thêm cho NHTM, mà cuối cùng là cho người dân và doanh nghiệp, vì phải dành thêm một nguồn lực thực hiện, theo dõi, xử lý công việc này (trên diện rộng, bao quát hầu như mọi khách hàng ngân hàng). Hậu quả tai hại khác là NHTM hoặc do không có đủ “nghiệp vụ”, hoặc vì một lý do nào đó khác sẽ khấu trừ, nộp thay thuế sai đối tượng, sai mức độ, sai cái này cái kia, để rồi người phải gánh chịu hậu quả như phải đi khiếu nại, kiện tụng vẫn là người dân, doanh nghiệp.

Tất nhiên, nói như trên không có nghĩa là phản đối sự hợp tác của NHTM với ngành thuế trong việc phòng tránh trốn, tránh, gian lận thuế. Nhưng tinh thần hợp tác này phải được xây dựng trên nguyên tắc ngành thuế chỉ yêu cầu NHTM hợp tác với một số đối tượng có chọn lọc, ví dụ; diện đang nghi ngờ, theo dõi… NHTM (chỉ) có trách nhiệm báo cáo cho ngành thuế và cơ quan chủ quản, như Ngân hàng Nhà nước các giao dịch đáng ngờ, bất thường chẳng hạn số tiền lớn không phù hợp với thu nhập định kỳ của khách hàng...

Nói cách khác, nếu ngành thuế có yêu cầu hợp tác của NHTM thì không được có những yêu cầu tạo ra thêm những gánh nặng và phí tổn cho xã hội, nhất là chỉ bởi lý do ngành thuế không “quản” được nên phải buộc NHTM làm thay, đảm nhiệm hộ mình.

Saturday 21 November 2020

Tính hai mặt của bảo hộ sản xuất (Bài đăng trên TBKTSG, 19/11/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/310775/tinh-hai-mat-cua-bao-ho-san-xuat.html

Chính phủ đang dự định nghiên cứu và áp dụng các chính sách thuế và tín dụng để thúc đẩy ngành lắp ráp, sản xuất ô tô trong nước phát triển. Cụ thể, nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng không tính giá trị linh kiện sản xuất trong nước vào giá trị tính thuế đối với ô tô hay hình thành gói tín dụng ưu đãi cho ngành công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ.

Có khả năng bị kiện không?

Một trong những điều làm dư luận quan tâm với dự định này là tính khả thi của các giải pháp hỗ trợ sẽ được đưa ra, mà cụ thể là liệu chúng có bị các nước đối tác thương mại của Việt Nam có xuất khẩu ô tô và linh kiện vào thị trường Việt Nam phản đối, kiện cáo vì lý do vi phạm các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các thỏa thuận thương mại song phương/đa phương hay không.

Để trả lời câu hỏi này, xin điểm lại những trường hợp ít nhiều tương đồng được mang ra xét xử bởi WTO.

Tháng 10-1996, Cộng đồng châu Âu (EC), Nhật Bản, Mỹ... cùng yêu cầu tham vấn với Indonesia liên quan đến “Chương trình 1993” và “Chương trình Ô tô quốc gia 1996” của nước này. “Chương trình 1993” sẽ giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu với linh kiện/phụ tùng ô tô dựa vào tỷ lệ nội địa hóa. Trong khi đó, chương trình còn lại thì cung cấp nhiều lợi ích cho doanh nghiệp ô tô nội địa như miễn thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế nhập khẩu nếu đáp ứng được tỷ lệ nội địa hóa. Mục đích cuối cùng của chúng là làm cho ô tô nhập khẩu đắt hơn ô tô tương tự sản xuất, lắp ráp trong nước.

Tháng 3 và tháng 4-2006, EC, Mỹ và Canada khiếu nại lên WTO về việc Trung Quốc áp đặt các biện pháp ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu ô tô của những nước này vào Trung Quốc. Những biện pháp này dẫn đến phụ tùng ô tô được sử dụng để lắp ráp ô tô bán ở Trung Quốc bị đánh thuế ngang với ô tô nhập khẩu, nếu các phụ tùng này được nhập khẩu trên một ngưỡng tối đa nào đó. Mục đích cuối cùng cũng là khuyến khích người tiêu dùng mua ô tô nội địa nếu chúng sử dụng nhiều linh kiện nội địa. Một số nước khác gồm Nhật Bản, Úc và Mexico sau đó cũng tham gia vụ khiếu nại này.Các nước khiếu kiện cho rằng, hai chương trình này của Indonesia đã vi phạm các điều khoản của WTO về trợ cấp và thuế đối kháng, phân biệt đối xử nghiêm trọng giữa sản phẩm trong nước và nhập khẩu. WTO đã ra phán quyết ủng hộ phần lớn các khiếu kiện của các nước chống lại Indonesia. Indonesia đã phải chấp nhận phán quyết này và đến tháng 7-1999 thì thông báo đã ban hành chính sách ô tô mới thực hiện đầy đủ theo các phán quyết và khuyến nghị của WTO.

Tháng 9-2008, Trung Quốc kháng nghị phán quyết của WTO về những vi phạm của nước này. Tuy nhiên, phán quyết cuối cùng của WTO vào tháng 12-2008 vẫn duy trì phần lớn những phán quyết trước đó. Vào tháng 8-2009, Trung Quốc thông báo họ đã ban hành nghị định mới chấm dứt thực thi các điều khoản về nhập khẩu phụ tùng ô tô liên quan trước đó, và tuân thủ các phán quyết và khuyến nghị của WTO.

Chuyển sang Việt Nam. Việc không tính giá trị linh kiện sản xuất trong nước vào giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt với ô tô, hoặc việc cung cấp gói tín dụng ưu đãi, chẳng qua chỉ là một dạng bảo hộ khác so với các biện pháp nêu trên, đều có mục đích cuối cùng là phân biệt đối xử, làm cho ô tô nhập khẩu trở nên đắt hơn, hoặc làm cho ô tô sản xuất trong nước trở nên có giá thành rẻ hơn so với ô tô nhập khẩu.

Về nguyên tắc, mọi vi phạm nguyên tắc đối xử công bằng của WTO như vậy sẽ bị các nước có quyền lợi liên quan khiếu kiện. Có chăng chỉ nên hy vọng rằng, quy mô và tác động của những chính sách của Việt Nam trên thực tế là không đáng kể, không “đáng” để các nước bị ảnh hưởng bỏ công khiếu kiện.

Có nên tiếp tục bảo hộ không?

Trên thực tế, dù vi phạm rõ ràng các nguyên tắc của WTO, các chính sách bảo hộ như yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, vẫn được không ít quốc gia trên thế giới sử dụng, kể cả những nước phát triển như Úc, Canada, và một số nước châu Âu (mà vẫn “bình an”!).

Câu hỏi đặt ra là các chính sách tiếp tục bảo hộ cho ngành ô tô trong nước như vậy có nên được duy trì, “đổi mới”? Lưu ý rằng dự định bảo hộ ngành ô tô đang được nghiên cứu lần này hoàn toàn không phải là chuyện mới, vì rất nhiều chính sách, giải pháp đã được đề xuất và thực thi ở Việt Nam trong suốt gần 30 năm qua, gồm chính sách tỷ lệ nội địa hóa... Nhưng kết quả như thế nào thì đã rõ.

Nên, thay vì trả lời câu hỏi có nên tiếp tục bảo hộ ngành ô tô nội địa không, câu hỏi có ý nghĩa thiết thực và sát sườn hơn là tại sao không rút kinh nghiệm từ những thất bại của bao nhiêu giải pháp trong quá khứ để đi đến quyết định sáng suốt là chấm dứt bảo hộ, hạ thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường trong nước cho cạnh tranh tự do?

Xin bổ sung thêm một số kết quả nghiên cứu thực chứng trên thế giới để củng cố khuyến nghị chấm dứt bảo hộ. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy sự thất bại của chính sách quy định tỷ lệ nội địa hóa lên sự phát triển của công nghiệp phụ trợ trong nước, hoặc làm giảm sản lượng sản xuất và xuất khẩu thành phẩm, cũng như giảm sự phụ thuộc của doanh nghiệp nội địa vào linh kiện/phụ tùng nhập khẩu(1). Kết luận này cũng đúng ngay cả với Indonesia, nước “nổi tiếng” về chính sách kinh tế hướng nội, trong đó có việc bảo hộ ngành ô tô nội địa. Lý do là bởi sự thực thi pháp luật yếu kém; các doanh nghiệp sản xuất linh kiện nội địa không có động cơ đổi mới, cải thiện chất lượng sản phẩm vì thiếu vắng cạnh tranh; nhà sản xuất nội địa vẫn buộc phải dựa vào nguồn linh kiện nhập khẩu có chất lượng cao (nhưng giá đắt hơn) nên sản phẩm làm ra không cạnh tranh về giá, làm suy giảm sản lượng tiêu thụ trong nước và xuất khẩu...

Ngược lại, nếu sớm tự do hóa thị trường ô tô trong nước, hạ thấp các rào cản phi thuế quan (gồm thuế tiêu thụ đặc biệt) vốn vẫn đang có xu hướng phát triển thì các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng được ước tính là sẽ tăng được đáng kể đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu, việc làm và GDP vào năm 2025(2).

(1) https://www.iseas.edu.sg/images/pdf/ISEASEWP2016-04Negara.pdf

(2) https://www.oxfordeconomics.com/my-oxford/projects/321360



Thursday 19 November 2020

RCEP - những điểm nhấn và khác biệt (Bài đăng trên TBKTSG, 19/11/2020)

 https://www.thesaigontimes.vn/310769/rcep--nhung-diem-nhan-va-khac-biet.html

Ngày 15-11 vừa qua, 15 nước châu Á - Thái Bình Dương đã ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) - hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới (về tổng GDP của các nước thành viên). Đây được coi là một động thái thúc đẩy triển vọng kinh tế của khu vực trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang hoành hành toàn cầu.

Dù đã ký kết nhưng RCEP vẫn chưa được phê chuẩn ở các nước thành viên. Sự phê chuẩn này được kỳ vọng sẽ hoàn tất trong vòng 12 tháng tới, nhưng chưa có mốc thời gian chắc chắn.

Việc Trung Quốc là thành viên RCEP có nghĩa là Trung Quốc - nước cạnh tranh vị thế siêu cường kinh tế với Mỹ trong khu vực - bây giờ có thêm ảnh hưởng về luật lệ thương mại ở khu vực này. Khi các nước thành viên đang đàm phán về RCEP thì một thỏa thuận thương mại lớn khác, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cũng đang được đặt trên bàn nghị sự. Trung Quốc không có mặt trong số 12 nước thành viên khi đó.

Năm 2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump rút Mỹ ra khỏi TPP. Đây được xem là việc đã làm tăng cơ hội thành công cho RCEP. TPP sau đó được đổi tên thành Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP và bao gồm bảy thành viên hiện tại của RCEP.

Quy mô thị trường của RCEP lớn gần gấp 5 lần của CPTPP, với kim ngạch thương mại và tổng GDP lớn gần gấp đôi, tất cả nhờ một phần đáng kể sự tham gia của Trung Quốc. Dẫu vậy, CPTPP được coi là toàn diện hơn RCEP, vốn không có các quy định về tiêu chuẩn môi trường và nhân quyền, gồm lao động. Ngược lại, RCEP tạo ra một khuôn khổ tự do thương mại được dựa trên và củng cố thêm nữa thông qua các vòng đàm phán thương mại trong tương lai. Các nước khác trên thế giới cũng có thể gia nhập RCEP trong tương lai, mở rộng hơn nữa phạm vi ảnh hưởng kinh tế của các thỏa thuận tự do hóa thương mại và đầu tư của RCEP.

RCEP đã trải qua một quá trình đàm phán dài suốt từ năm 2012, vì các nước  với các nền kinh tế rất đa dạng đã không thể thỏa thuận được với nhau trong một số điều khoản gồm sự dịch chuyển lao động, đối xử về dịch vụ và tiếp cận thị trường. Chưa hết, lẽ ra đàm phán đã kết thúc trong năm 2019 nhưng Ấn Độ vào phút chót đã quyết định rút bởi quan ngại RCEP sẽ làm thương tổn các doanh nghiệp nội địa, nhất là bởi sự tràn ngập hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các nước thành viên đã để ngỏ cửa cho Ấn Độ tham gia lại sau này.

Với một số thành viên như Việt Nam và các nước ASEAN khác, do các nước này đa phần đã có thỏa thuận thương mại song phương/đa phương với các thành viên còn lại (trừ Trung Quốc) nên lợi ích trực tiếp từ RCEP sẽ không phải là quá nhiều. Nếu có thì có lẽ chủ yếu dưới dạng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng. Ngược lại, điều đáng ngạc nhiên là hầu như không có nước nào quá quan ngại đến sự cạnh tranh, lấn lướt của Trung Quốc như Ấn Độ. Có lẽ một phần là do các nước ASEAN kỳ vọng sự lớn mạnh hơn của khối trong tương lai sẽ (gián tiếp) làm lợi cho toàn khối và từng thành viên thông qua hiệu ứng lan tỏa, làm tăng công ăn việc làm và thu nhập cho người tiêu dùng, bù đắp cho tác động tiêu cực của sự cạnh tranh từ Trung Quốc.

Lợi ích của RCEP có lẽ sẽ rõ ràng hơn sau khi đại dịch Covid-19 được chế ngự. Xu hướng di chuyển chuỗi cung ứng đến các nước khu vực được định hình từ thời điểm nổ ra thương chiến Mỹ - Trung ba năm trước sẽ càng trở nên mạnh mẽ hơn khi RCEP có hiệu lực, bởi các công ty và nhà đầu tư nước ngoài càng có thêm lý do để đầu tư vào không chỉ là Trung Quốc như trước mà còn vào các nước trong khu vực.

Đầu tư nước ngoài được kỳ vọng gia tăng trong khuôn khổ RCEP, đặc biệt với các nền kinh tế đang phát triển của ASEAN như Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar, một phần cũng nhờ quy định về xuất xứ. Ngoài những quy định chung thường có ở các hiệp định thương mại tự do khác, RCEP lần đầu tiên đã thống nhất các khái niệm về xác nhận xuất xứ và hạn ngạch giữa các nước thành viên. Nay chỉ cần một giấy xác nhận xuất xứ là đủ để áp dụng cho toàn khối. Vì vậy, RCEP sẽ thúc đẩy dòng đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất thâm dụng lao động như dệt may, giày dép... ở những nước đang phát triển từ các nước phát triển hơn trong khối. Chi phí sản xuất được cắt giảm trong toàn khối sẽ làm lợi cho người tiêu dùng và các quốc gia thành viên, đồng thời cũng lan tỏa đến các phần còn lại của thế giới, gồm Mỹ và châu Âu thông qua xuất khẩu.

Ngoài tự do hóa dòng chảy đầu tư và thương mại, RCEP cũng đạt được thỏa thuận về công nhận lẫn nhau về bằng cấp, chứng chỉ hành nghề, là một cánh cửa tiềm năng mở ra các cơ hội nghề nghiệp dành cho luật sư, nha sĩ, bác sĩ và các ngành chuyên môn khác. 

Một điểm nhấn khác biệt khác là RCEP, như đã nói, không toàn diện, bao quát bằng CPTPP. Ngoài chuyện bỏ ngỏ lĩnh vực môi trường và nhân quyền, lao động, RCEP còn bỏ qua khu vực nông nghiệp. Tất cả các thành viên RCEP đều muốn bảo vệ thị trường nông nghiệp của mình, và RCEP không đặt ra các tiêu chuẩn chung cho các sản phẩm nông nghiệp.

Ngoài ra, RCEP tại giai đoạn này cũng không đạt được thỏa thuận về quy chế thương mại điện tử, do các nước thành viên bất đồng với bất cứ luật lệ nào về lưu chuyển số liệu xuyên biên giới hay miễn trừ thuế quan cho truyền dẫn số liệu. Lĩnh vực này sẽ là chủ đề chính yếu cho đàm phán trong tương lai. 

Saturday 14 November 2020

Priority banking – dịch vụ ngân hàng dành cho tầng lớp "có tiền" và những đặc quyền đáng mơ ước (Bài đăng trên CafeF, 13/11/2020)

https://cafef.vn/priority-banking-dich-vu-ngan-hang-danh-cho-tang-lop-co-tien-va-nhung-dac-quyen-dang-mo-uoc-20201111224021225.chn

Kỳ 2: Priority banking – dịch vụ ngân hàng dành cho tầng lớp có tiền

Ở những nơi như Singapore, bạn có nhiều cách làm giả cho mình trông giàu có hơn. Bạn có thể mua một chiếc ô tô đẹp để rồi tối đến lái Grab kiếm tiền trả nợ vay mua xe, hoặc tiêu tốn tiền tiết kiệm cả năm để du lịch một chuyến ở châu Âu rồi khoe ảnh trên Instagram.

Nhưng nếu bạn là khách hàng priority banking của một ngân hàng ở Singapore thì chắc chắn bạn là một người có tiền. Lưu ý ở đây từ "có tiền" được dùng thay cho từ "giàu có" bởi những người thật sự giàu có thì nằm ở một bậc trên (về độ... "có tiền", có hàng triệu USD) và thường là khách hàng private banking của ngân hàng mà chúng ta đã đề cập đến trong bài trước. Nói chính xác thì priority banking là dành cho tầng lớp trung lưu ở Singapore. Để so sánh thì khách hàng priority banking được ví với khách hàng hạng Business Class của các hãng bay, còn khách hàng private banking thì như khách hàng First Class vậy.

Để được gọi là khách hàng priority banking thì cần phải gửi tiền và/hoặc các tài sản khác (có thể gồm tài khoản tiền gửi tiết  kiệm, gửi có kỳ hạn, và các công cụ đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu, quỹ đầu tư ủy thác, quỹ phòng hộ v.v...) tối thiểu ở một ngưỡng nào đó tùy theo từng ngân hàng. Nhưng ngưỡng tối thiểu này thường thấp hơn rất nhiều so với khách hàng private banking.

Cũng ở Singapore chẳng hạn, bạn chỉ cần có 70.000 SGD (khoảng hơn 1,2 tỷ VND) – mức mà nhiều người Singapore bình thường có – là đã có thể trở thành khách hàng priority banking của ngân hàng Citi, so với nếu là khách hàng priority banking thì cần có tài sản ít nhất là 6 chữ số (đơn vị USD). Tuy nhiên, với hàng chục ngân hàng còn lại thì mức tối thiểu này cao hơn nhiều, từ 200.000 SGD trở lên đến 350.000 SGD. Khi đã có mức tài sản sở hữu ở mức tối thiểu trở lên như vậy thì bạn sẽ được các ngân hàng cấp cho thẻ tín dụng với những tên gọi không nhất thiết chỉ có từ "priority" mà còn có thể là "priviledge",  "premier", "prestige", "treasures" hoặc "Infinite" v.v...

Khi đã trở thành khách hàng priority banking thì bạn sẽ được hưởng một số đặc quyền, thường là: (1) không phải xếp hàng tại quầy như với khách hàng thông thường mà không ít khi mất đến cả nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ mới đến lượt được phục vụ tại nhiều ngân hàng Singapore. Tại các chi nhánh ngân hàng, thường sẽ có một cửa/quầy phục vụ dành riêng cho priority banking; (2) được cắt cử một nhân viên phụ trách quan hệ (RM) riêng trợ giúp các yêu cầu và hỗ trợ đầu tư tài sản; (3) hưởng lãi suất ưu đãi hơn (cả đi vay lẫn gửi tiền) và tỷ giá tốt hơn một chút so với khách hàng thông thường; (4) được giảm các phí và lệ phí ngân hàng; và (5) các quyền lợi khác, có thể là chiết khấu du lịch, sử dụng phòng VIP tại sân bay, chiết khấu chơi golf, được phục vụ miễn phí đồ uống như cà phê, nước quả, chè (thậm chí cả rượu vang) tại các chi nhánh vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, được nhận phong bì lì xì vào dịp tết, được mời tham dự các buổi nói chuyện về đầu tư và sự kiện khác v.v...

Nguồn khách hàng priority banking càng trở nên quan trọng với các ngân hàng trên thế giới trong bối cảnh có khủng hoảng, bất ổn trong và ngoài nước, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động bình thường của ngân hàng. Trong và sau khủng hoảng, các ngân hàng trong nỗ lực thu hút nhà đầu tư nước ngoài phải tung ra các dịch vụ đặc biệt để thu hút vốn bù đắp cho sự sụt giảm vốn đầu tư và/hoặc tiền gửi của người cư trú hoặc không cư trú. Đổi lại, khách hàng priority banking được thương lượng với các ngân hàng về lãi suất, tỷ giá, phí và lệ phí v.v... là những thứ mà thông thường thì ngân hàng sẽ áp đặt một chiều đối với các khách hàng "bình dân" khác.

Do khách hàng private banking cũng được hưởng các đặc quyền trên nên đôi khi có sự khó hiểu về bản chất của hai loại dịch vụ ngân hàng này. Để cho dễ hiểu hơn, cần biết rằng để được là khách hàng private banking thì thường bạn phải được ngân hàng gửi giấy mời, chứ không đơn giản chỉ là việc bạn tự nộp đơn như khi bạn xin trở thành khách hàng priority banking của một ngân hàng nào đó.

Ngoài ra, tuy cũng được hưởng các đặc quyền như với priority banking nhưng những đặc quyền này của private banking nằm ở một cấp độ khách hẳn so với của khách hàng priority banking, đặc biệt về chiến lược đầu tư, chiến lược tài chính và né thuế. Nói cách khác, mức độ chăm sóc tài chính dành cho khách hàng private banking sẽ cao hơn nhiều, chuyên nghiệp và giá trị hơn nhiều so với cho khách hàng priority banking.

Một khác biệt lớn khác giữa hai loại dịch vụ ngân hàng này là mức độ bảo mật riêng tư. Đây có thể là một sự hấp dẫn rất lớn, đặc biệt đối với những người (siêu) giàu và/hoặc nổi tiếng là những người không muốn thông tin tài chính cá nhân rò rỉ từ bất cứ nơi đâu, thời điểm nào.

 (Còn nữa...)

Thursday 12 November 2020

Giới nhà giàu ở Singapore và Thụy Sĩ đang được quản lý tài sản thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 12/11/2020)

https://cafef.vn/gioi-nha-giau-o-singapore-va-thuy-si-dang-duoc-quan-ly-tai-san-the-nao-20201111093208381.chn

 Bài 1: Dịch vụ Private banking

Private banking liên quan đến các tổ chức tài chính (TCTC) cung cấp dịch vụ quản lý tài chính cho khách hàng VIP, được hiểu là khách hàng có tài sản có thể đầu tư vượt trên một ngưỡng tối thiểu nào đó, theo quy định hoặc thông lệ từng quốc gia (thường là khoảng 1 triệu USD). Private banking thường được thiết kế riêng cho những khách hàng có nhiều tiền mặt và tài sản khác gửi vào tài khoản để đầu tư.

Private banking cung cấp các tư vấn liên quan đến đầu tư căn cứ vào hoàn cảnh tài chính của từng khách hàng. Dịch vụ này thông thường trợ giúp khách hàng trong việc bảo vệ và duy trì tài sản của khách hàng. Nhân viên ngân hàng đảm nhiệm dịch vụ này được phân công phụ trách khách hàng sẽ làm việc với khách hàng để đưa ra từng giải pháp tài chính chuyên biệt cho từng khách hàng. Những nhân viên này cũng sẽ giúp khách hàng lập kế hoạch và gửi tiền tiết kiệm chuẩn bị cho nghỉ hưu của họ và cơ cấu các tài sản của khách hàng để cho thừa kế, chuyển giao lại cho các thành viên trong gia đình họ hoặc những người thụ hưởng khác.

Đối với các TCTC, càng tìm kiếm và giữ chân được nhiều khách hàng VIP giàu có thì TCTC càng được lợi, thể hiện ở số dư lớn trong tài khoản vãng lai khách hàng mở tại TCTC và TCTC có thể sử dụng cho đầu tư và thanh toán. TCTC cũng thu được các khoản lãi lớn phát sinh từ các món vay bất động sản hoặc kinh doanh của khách hàng VIP với số dư cho vay lớn dù lãi suất cho vay có thể là rất thấp, mang tính ưu đãi.

Còn ở khía cạnh khách hàng, để thu hút và giữ chân khách hàng tiềm năng giàu có thì các TCTC có dịch vụ private banking phải chào mời, cung cấp cho các khách hàng tiềm năng này một số lợi ích và đặc quyền. Đó là: (i) hưởng lãi suất, phí và chi phí ưu đãi; (ii) các dịch vụ chăm sóc khách hàng cá nhân, bảo đảm cho họ luôn tiếp cận tức khắc với nhân viên phụ trách tài khoản của mình hoặc cấp trên để thực hiện mọi giao dịch, từ việc thanh toán séc đến việc chuyển một số tiền lớn từ tài khoản này đến tài khoản khác, hoặc được tư vấn từ các nhà chuyên môn về thuế, các vấn đề về luật pháp và tài chính; (iii) không bao giờ phải xếp hàng đợi để được phục vụ tại quầy; (iv) quyền tiếp cận những sản phẩm và dịch vụ đầu tư đặc biệt chỉ dành riêng cho khách hàng VIP như các quỹ phòng hộ riêng biệt hay các đợt phát hành cổ phiếu riêng.

Private banking trên thế giới

Singapore là một trong những trung tâm của ngành quản lý tài sản và private banking ở châu Á và thế giới, và được gọi là "Thụy Sĩ của châu Á" nhờ thanh thế là một quốc gia có hệ thống tài chính quy củ được điều tiết chặt chẽ, minh bạch bởi pháp luật và có tính an toàn cũng như bảo mật cao, trên nền tảng một nền kinh tế và chính trị ổn định. Các TCTC cung cấp dịch vụ private banking toàn diện, đáng ứng mọi yêu cầu của khách hàng VIP với chất lượng và chi phí cực kỳ cạnh tranh. Singapore còn có lợi thế rất đáng kể khác như không công nhận Chỉ dẫn Thuế châu Âu 2005 là quy định theo đó các nước thành viên có thể trao đổi thông tin cá nhân của người gửi tiền và đầu tư ở các nước đó. Và Singapore cũng không đánh thuế lên lãi vốn và lãi tiền gửi thu bên ngoài Singapore.

Khách hàng của dịch vụ private banking ở Singapore được quy định theo luật là những khách hàng có tài sản trị giá ít nhất là 1 triệu SGD (742.000 USD) hoặc tương đương bằng ngoại tệ khác. Trên thực tế, một số NHTM chính của Singapore quy định ngưỡng này ở mức cao hơn, chẳng hạn như ở DBS, Citibank và Standard Chartered là 1,5 triệu SGD, 2 triệu SGD ở UOB... Các tài sản này có thể bao gồm tiền gửi tại ngân hàng, các sản phẩm của thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu), bảo hiểm nhân thọ hay các sản phẩm đầu tư khác được luật quy định.

Ngoài những đặc quyền và lợi ích chung nêu trên, khách hàng VIP ở Singapore còn có thêm một số đặc quyền khác, tùy vào ngân hàng. Chẳng hạn, khách hàng của DBS được kết nối trong một mạng lưới chuyên biệt cho phép họ kết nối với các đối tác và các cơ hội trên toàn thế giới. Trong khi đó, khách VIP của UOB được sử dụng dịch vụ chăm sóc khách hàng về y tế và du lịch, được hoàn tiền trong chi tiêu cho khách sạn, du thuyền và các sản phẩm xa hoa khác. Ngân hàng khác như OCBC và HSBC thì cung cấp cho khách hàng các giải pháp quản lý tài sản may đo riêng theo nhu cầu.

Dịch vụ private banking và quản lý tài sản đã đóng góp một phần rất quan trọng trong thu nhập của hệ thống ngân hàng Singapore, chiếm đến 40% trong tổng thu nhập từ phí trong 9 tháng đầu năm 2019.

Đáng chú ý là dịch Covid 19 và bất ổn chính trị làm cho Hong Kong, một trung tâm tài chính khác của khu vực đang đánh mất dần sự hấp dẫn như là một điểm đến cho dòng vốn của giới giàu có trong khu vực và trên thế giới vào tay Singapore, được thể hiện qua việc khách hàng VIP của ngân hàng UBS đã chủ yếu yêu cầu ngân hàng này chuyển dòng tiền mới của họ sang Singapore thay vì tiếp tục đổ vào Hong Kong như trước.

Ở tầm thế giới, Thụy Sĩ được coi là đứng đầu thế giới về dịch vụ quản lý tài sản xuyên quốc gia cho giới giàu có trên toàn cầu, với tỷ trọng đạt được là 25% của tổng tài sản thế giới được quản lý trên toàn cầu năm 2019. 47% khách hàng cá nhân không cư trú chiếm 47,6% tổng số khách hàng cá nhân của các ngân hàng Thụy Sĩ.

Uy tín của Thụy Sĩ như một trung tâm quản lý tài sản đến từ những lợi thế truyền thống như sự bảo mật khách hàng, thuế thấp, và sự ổn định về kinh tế và chính trị.Tuy nhiên, hiện nay ngành private banking của Thụy Sĩ đang đối mặt với 3 thách thức chính: Tăng trưởng chậm, thu nhập giảm sút, và cơ sở chi phí khó thay đổi (khó cắt giảm chi phí).

Một vài con số cụ thể minh họa về tình hình hoạt động của ngành này ở Thụy Sĩ năm 2019: Dòng tiền mới được quản lý giảm 1% năm so với năm trước; biên độ thu nhập giảm còn 80 điểm cơ bản từ mức 97 (tuy vẫn cao hơn mức trung bình của châu Âu là 73); trong khi đó, biên độ chi phí trên thu nhập vẫn tương đối ổn định ở mức 58 điểm cơ bản.

Nguyên nhân của sự trì trệ này được cho là bởi sự cạnh tranh của các trung tâm quản lý tài sản trên thế giới, cũng như sự tụt hậu của giới quản lý tài sản nước này trong lĩnh vực số hóa. Chất lượng dịch vụ cũng là một tồn tại khi mà có đến 1/3 khách hàng không được các nhân viên tư vấn phụ trách liên lạc trong những tháng kinh doanh trồi sụt mạnh là tháng 3 và tháng 4...

(Còn nữa...)

Monday 2 November 2020

Ý tưởng thành lập "tổ hợp tín dụng" liệu có khả thi? (Bài đăng trên CafeF, 2/11/2020)

 https://cafef.vn/y-tuong-thanh-lap-to-hop-tin-dung-khong-kha-thi-20201102143115084.chn

Mới đây có đề xuất thành lập tổ hợp tín dụng với quy mô 3-3,5% tổng dư nợ cho vay hiện nay, tức khoảng 300.000 tỉ đồng, để cho các danh nghiệp vừa và nhỏ (SME) có cơ hội tiếp cận tín dụng. Theo đó, tổ hợp cung cấp các khoản vay tín chấp (không cần tài sản đảm bảo) với lãi suất 3-5%/năm, năm đầu ân hạn nợ gốc và chỉ trả lãi. Khoản vay có kỳ hạn khoảng năm năm.

Để được vay vốn thì vốn chủ sở hữu doanh nghiệp phải còn thực dương. Doanh nghiệp SME có thể vay tối đa số tiền không vượt quá ba lần giá trị thực dương của vốn điều lệ, hay vốn chủ sở hữu hoặc tùy điều kiện khác do “tổ hợp tín dụng” quy định. Tuy nhiên, để tổ hợp này hoạt động được thì Chính phủ cần phải lập quỹ bảo lãnh tín dụng quốc gia với quy mô khoảng 30.000 tỉ đồng, để bảo lãnh cho tổ hợp tín dụng quy mô 300.000 tỉ đồng.

Điểm thuận lợi của hình thức như đề xuất là Chính phủ không phải bỏ tiền ra trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp, mà là tiền của các ngân hàng cho vay. Trong khi đó, thanh khoản hệ thống hiện nay đang rất tốt, đặc biệt là nguồn tiền gửi và tiết kiệm không kỳ hạn đang chiếm khoảng 20% trên tổng vốn huy động. Các ngân hàng thương mại có thể lấy nguồn đó tham gia vào tổ hợp tín dụng, từ đó có cho thể cho vay với lãi suất thấp từ 3-5%/năm.

Đề xuất trên không khả thi vì những lý do như nêu dưới đây.

Thứ nhất, có một số điều kiện làm cho NHTM (tích cực) cho vay SME với lãi suất thấp và, quan trọng hơn, không có tài sản bảo đảm. Đó là: (i) NHTM bị bắt buộc phải cho vay SME; (ii) Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và/hoặc Chính phủ (và các tổ chức được ủy quyền) cấp vốn/cho vay ưu đãi/bù lãi suất cho NHTM với lãi suất thấp để đảm bảo NHTM cho vay lại SME với lãi suất nào cũng vẫn có lãi; (iii) đồng thời NHNN/Chính phủ vẫn phải bảo lãnh toàn bộ các khoản cho vay SME. Nếu không có bảo lãnh thì dù cho vay SME có lãi đến mấy nhưng khả năng không thu hồi được nợ là cao nên cũng không mấy NHTM dám cho SME vay.

So sánh với cơ chế hoạt động theo đề xuất của tổ hợp tín dụng nói trên thì trước tiên có thể thấy điều kiện (i) nêu ở đoạn trên đã bị vi phạm. Thậm chí ngược lại, NHNN luôn khẳng định không hạ tiêu chuẩn và điều kiện cho vay để tránh nợ xấu.

Điều kiện thứ hai – cấp vốn giá rẻ cho NHTM để cho vay lại SME – cũng bị vi phạm bởi theo cơ chế đề xuất của tổ hợp tín dụng thì Chính phủ chỉ bảo lãnh chứ không cấp vốn giá rẻ cho NHTM để cho vay lại SME.

Sẽ có người lập luận rằng, theo diễn giải trong đề xuất trên thì NHTM đang có nguồn vốn “giá rẻ” ở ngân hàng (tiền gửi/tiền tiết kiệm không kỳ hạn) chiếm đến 20% trong tổng vốn huy động của NHTM nên đây chính là nguồn vốn để NHTM dùng để cho vay SME với lãi suất thấp.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây là nguồn vốn riêng, và là lợi thế của từng NHTM, có được là nhờ nỗ lực của từng ngân hàng chứ không phải tự nhiên trên trời rơi xuống (hoặc của Chính phủ/NHNN cấp phát). Nếu NHTM vẫn có khách hàng vay vốn với các điều kiện thương mại bình thường, có tài sản thế chấp, và lãi suất cao hơn cho vay SME thì NHTM, về nguyên tắc, sẽ không cho vay SME cho đến khi nào không còn khách hàng vay thương mại nào khác “tốt” (có chất lượng) hơn SME (thể hiện ở lãi suất cho vay, tài sản đảm bảo, khả năng thu hồi nợ v.v...). Nói cách khác, nguồn vốn rẻ có được từ nguồn tiền gửi/tiết kiệm không kỳ hạn hoàn toàn không đảm bảo được rằng NHTM sẽ tích cực cho SME vay.

Với điều kiện thứ ba – có bảo lãnh của Chính phủ – đây là điều kiện duy nhất mà cơ chế của tổ hợp tín dụng theo đề xuất có thể thỏa mãn nhưng...

Thứ hai, vì cho vay SME không có tài sản đảm bảo nên có nhiều khoản vay dễ dàng biến thành nợ xấu không thể thu hồi. Tuy theo đề xuất thì Chính phủ chỉ bảo lãnh chứ không đứng ra cho vay, và nguồn tiền cho vay là của NHTM chứ không phải từ ngân sách, nhưng một khi khoản cho vay SME biến thành nợ xấu thì gánh nặng bồi thường của Chính phủ sẽ tăng lên tương ứng.

Vậy, với quy mô cho vay tới 300.000 tỷ đồng trong bối cảnh nhiều khoản vay có thể biến thành nợ xấu thì quỹ bảo lãnh 30.000 tỷ đồng của Chính phủ, tương đương 10% quy mô cho vay, là quá nhỏ. Nói cách khác, người thiết kế gói cho vay, quỹ bảo lãnh không được phép “tính non”, lạc quan quá đà, mà cần phải đủ thận trọng để, ví dụ, tăng quy mô quỹ bảo lãnh lên tương đương 100% quy mô cho vay, như cách mà nhiều NHTM đang trích lập dự phòng. Nhưng...

Thứ ba, giả sử chỉ một nửa trong quỹ bảo lãnh 300.000 tỷ đồng của  Chính phủ bốc hơi thì nó cũng đã tương đương với việc ngân sách Chính phủ mất đi 150.000 tỷ đồng/6 tỷ USD, tương đương 2-3% GDP của Việt Nam để bồi thường cho NHTM. Vậy nguồn tiền quy mô lớn này lấy ở đâu ra và sẽ được bù đắp lại bằng cách nào? Sẽ có bao nhiều khoản chi công khác bị ảnh hưởng, bị cắt giảm bởi khoản mất mát này và tác động thế nào đến nền kinh tế nói chung? Xin đừng lạc quan nói rằng nợ xấu cho vay SME không có tài sản bảo đảm nếu có thì sẽ... không đáng kể! Không cần phải nói lại rằng chính vì rủi ro này mà cho vay SME luôn là một vấn đề thời sự ở mọi nơi trên thế giới.

Thứ tư, trong khi đồng ý rằng việc Chính phủ thu xếp được nguồn bảo lãnh 300.000 tỷ đồng này là khó khăn nhưng có thể vẫn có người “phát hiện” ra một nguồn vốn giá cực rẻ, cực sẵn mà không tốn một đồng chi phí nào – đó là nguồn “in tiền” từ NHNN! Trong quá khứ cũng đã từng có nhiều đề xuất tương tự, và thậm chí đã được thực hiện, chẳng hạn như việc cho vay bù lãi suất trước đây.

Nhưng cũng chính hậu quả nặng nề và tai hại của việc cho vay bù lãi suất này đã làm cho Chính phủ và bản thân NHNN đã rất ý thức được cái giá phải trả cho chủ trương sai lầm biến tiền của NHNN thành ngân sách cho Chính phủ. Nên tóm lại là nguồn vốn cho quỹ bảo lãnh 300.000 tỷ đồng này vẫn... chưa biết lấy từ đâu. Điều này cũng có nghĩa là đề xuất tổ hợp tín dụng này sẽ có thêm một yếu tố nữa để... chết yểu.

Saturday 31 October 2020

Một mũi tên không thể bắn hai con chim (Bài đăng trên TBKTSG, 31/10/2020, tiêu đề do báo đặt lại)

 https://www.thesaigontimes.vn/309966/mot-mui-ten-khong-the-ban-hai-con-chim.html

Mới đây, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã cho biết về kế hoạch chuyển đổi mô hình hoạt động từ Tổng công ty sang Quỹ đầu tư Chính phủ. Theo đó, trong dự thảo Chiến lược phát triển SCCI giai đoạn 2020-2030 và tầm nhìn đến 2035, trong giai đoạn 2020-2025, SCCI sẽ dần chuyển hướng từ hoạt động tiếp nhận, quản trị doanh nghiệp và bán vốn sang tập trung đầu tư vào ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả và ngành, lĩnh vực Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ chi phối để thực hiện vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Từ sau 2025, SCCI sẽ chuyển trọng tâm từ quản trị doanh nghiệp sang đầu tư, kinh doanh vốn một cách tích cực và chủ động, thực hiện đầy đủ và rõ nét hơn vai trò là nhà đầu tư của Chính phủ. Mục tiêu là tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế hoặc Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp (1).

Về mô hình hoạt động, SCCI cho rằng hình thức công ty đầu tư (giống Temasek của Singapore) là phù hợp hơn (với SCCI), so với mô hình công ty quản lý quỹ.

Vẫn lấn cấn về sứ mệnh, nhiệm vụ

Theo nội dung nêu trên, trong cả hai giai đoạn, 2020-2025 và sau 2025, SCCI vẫn được/bị ôm nhiệm vụ đầu tư vào ngành, lĩnh vực mà “Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ” (để “thực hiện vai trò then chốt của DNNN” như trong giai đoạn 2020-2025, hoặc để “nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp” như trong giai đoạn từ sau 2025).

Như đã được chỉ ra nhiều lần, hầu như bất cứ DNNN nào nếu cứ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ là kính doanh theo đuổi lợi nhuận thương mại và nhiệm vụ chính trị của nhà nước, do nhà nước giao thì không thể nào có kết quả tốt cho cả hai nhiệm vụ này. Nếu vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận thì DNNN sẽ phải xem nhẹ nhiệm vụ chính trị như đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp tư nhân khác không muốn làm (vì không có lợi nhuận), và ngược lại.

Kể cả đầu tư vào trong những lĩnh vực mà nhà nước cho rằng doanh nghiệp tư nhân không thể làm được (vì khó) thì mục tiêu lợi nhuận cũng sẽ phải xếp lại sau, bởi không có những sản phẩm và dịch vụ tương tự do doanh nghiệp tư nhân tạo ra để so sánh. Tiện đây xin nói thêm, bản thân cái suy nghĩ rằng doanh nghiệp tư nhân không thể làm được, mà chỉ có DNNN mới có thể làm, cũng chỉ là một sự quy chụp dễ dãi, bởi ngay ở Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân đã cung cấp được nhiều sản phẩm và dịch vụ mà đối với DNNN thì... vẫn mãi là thách thức! Trên thế giới, ngay cả những lĩnh vực khó như công nghiệp vũ trụ, đôi khi các Chính phủ phương Tây vẫn cứ phải dựa vào doanh nghiệp tư nhân.

Nói như vậy để thấy rằng nếu SCCI tiếp tục theo đuổi con đường vừa đầu tư (để tối đa hóa lợi nhuận), vừa giúp củng cố, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại DNNN thì kết cục nhìn thấy trước là không khả quan/khả thi.

Nếu lập luận rằng SCCI đầu tư vào DNNN nhưng đồng thời SCCI sẽ giúp DNNN nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ đạt được cả hai mục đích là lợi nhuận và chính trị thì vẫn là bao biện. Trước hết, do DNNN, như đã nói, phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ xung đột về lợi ích với nhau nên DNNN nhìn chung là nơi đầu tư không mang lại hiệu quả (lợi nhuận) cao so với đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân khác, trừ khi DNNN đó được độc quyền – là thứ mà càng ngày càng khó tồn tại, hoặc DNNN đó đã không làm tốt “nhiệm vụ chính trị”. Nên SCCI đầu tư vào dù là DNNN “tốt” chăng nữa cũng sẽ khó có thể tối đa hóa lợi nhuận từ đồng vốn nhà nước mà nó quản lý.

Quan trọng không kém, SCCI không thể, không bao giờ là nhà quản trị chuyên nghiệp, có đủ điều kiện để xoay chuyển tình hình tại từng và tất cả DNNN ở nhiều ngành/lĩnh vực mà nó đang và sẽ đầu tư vào. Những gì mà SCCI đã làm được trên phương diện này trong thực tế là minh chứng rõ nét nhất.

Ngay đến “công ty mẹ” của SCCI là Ủy ban Quản lý vốn nhà nước (Ủy ban) với đầy quyền năng mà cũng đã và đang bế tắc ở, trong việc vực dậy nhiều DNNN. Và cũng cần nói thêm là Ủy ban cũng có chức năng, nhiệm vụ “hao hao” SCCI trước và sau chuyển đổi (lưu ý là cả Ủy ban lẫn SCCI đều được đề xuất xây dựng/thực hiện dựa trên mô hình Temasek), nên có lẽ Ủy ban mới là tổ chức cần (và đủ tầm để) chuyển đổi mô hình hoạt động. Do vậy, việc chuyển đổi mô hình hoạt động của SCCI chỉ làm rối thêm tình hình, mà trước mắt là sẽ phải sửa đổi mô hình hoạt động của Ủy ban – vốn đã rất rắc rối và nhiều tồn tại, chỉ để cho phù hợp với mô hình mới của công ty con SCCI.

Vẫn hiểu sai về mô hình Temasek

Có một điều lạ là rất nhiều chuyên gia, học giả và quan chức hay trích dẫn mô hình Temasek để làm cơ sở đề xuất hay biện minh cho SCCI, và cao hơn là Ủy ban nhưng bản chất của Temasek là gì thì xem ra lại không rõ hoặc hiểu không đúng.

Temasek Holdings là cỗ máy đầu tư cho Chính phủ Singapore, với Chính phủ là cổ đông chi phối (nhưng không phải là cổ đông duy nhất như với SCCI hiện tại và sau này). Nó còn có chức năng như một công ty mẹ của nhiều công ty có ít nhất 20% cổ phần nắm giữ bởi Chính phủ.

Thuộc tính sở hữu nhà nước của Temasek được thể hiện dưới ba khía cạnh: (1) Tổng thống phê chuẩn bổ nhiệm các vị trí chủ chốt như thành viên Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc; (2) ngân quỹ cho hoạt động và các giao dịch không được lấy từ nguồn dự trữ có từ trước khi thành lập Chính phủ nhiệm kỳ hiện tại, trừ trường hợp được Tổng thống phê duyệt; và (3) các công ty và tổ chức Chính phủ phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản.

Tuy nhiên, Temasek về bản chất vẫn là một công ty đầu tư tư nhân trách nhiệm hữu hạn, xét về cơ cấu chủ sở hữu và mục đích kinh tế kể từ khi thành lập vào năm 1974. Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Temasek gồm nhiều thành viên độc lập, không mang quốc tịch Singapore, nhiều người trong số đó vốn là những nhà quản lý cấp cao của nhiều công ty lớn. Họ có toàn quyền và chịu trách nhiệm hoàn toàn trong quyết định đầu tư và kinh doanh để đảm bảo việc quản lý vốn nhà nước tại các công ty thuần túy dựa trên góc độ thương mại, chỉ theo đuổi lợi nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông, trong đó có Chính phủ, mà không kiêm nhiệm các “nhiệm vụ chính trị” nào khác như kiểu của SCCI hay Ủy ban hiện tại và trong tương lai.

Yêu cầu Temasek phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản cũng có nghĩa là sẽ không có chỗ cho các hoạt động “nhập nhèm” giữa theo đuổi lợi nhuận và mục tiêu chính trị.


Sunday 25 October 2020

Một số bất cập trong dự thảo Thông tư quy định việc TCTD mua, bán trái phiếu doanh nghiệp (Bài đăng trên CafeF, 25/10/2020)

 https://cafef.vn/mot-so-bat-cap-trong-du-thao-thong-tu-quy-dinh-viec-tctd-mua-ban-trai-phieu-doanh-nghiep-20201025084928037.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang đưa ra lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Thông tư quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Trong dự thảo này, có một số bất cập chính như nêu dưới đây mà NHNN cần xem xét thấu đáo hơn.

Thứ nhất, dự thảo quy định doanh nghiệp phát hành trái phiếu là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Vì trên thực tế còn có nhiều loại hình doanh nghiệp khác, trong đó có doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là loại hình doanh nghiệp được phép phát hành TPDN theo các Nghị định 120/1994/NĐ-CP và các nghị định sửa đổi, thay thế sau này như Nghị định 52/2006/NĐ-CP và Nghị định 90/2011/NĐ-CP... nên NHNN cần giải thích tại sao lại giới hạn phạm vi điều chỉnh của dự thảo nghị định với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mà không gồm các loại hình công ty khác.

Thứ hai, dự thảo quy định TCTD không được vay vốn của TCTD khác để mua TPDN. Trên nguyên tắc, quy định này là hợp lý. Nhưng thực tế, do không thể “đánh dấu” đồng tiền huy động nào của TCTD là tiền vay của TCTD khác theo kiểu “đồng này mua mắm, đồng này mua muối” nên khó có thể biết tiền vay của TCTD khác liệu có được dùng vào mua TPDN hay không.

Kể cả bằng cách nào đó có thể “đánh dấu” được tiền vay từ TCTD khác thì TCTD vẫn “lách” bằng cách dùng tiền vay từ TCTD khác để thực hiện nghĩa vụ thanh toán/đầu tư khác của mình, và dùng nguồn vốn lẽ ra dùng để thanh toán các nghĩa vụ khác này để mua TPDN. Do vậy, NHNN cần quy định chi tiết hơn về việc TCTD không được vay vốn của TCTD khác để mua TPDN nhằm tránh tình trạng quy định chỉ để cho có mà khó hoặc không thể có cách nào thanh tra và phát hiện vi phạm sau khi TCTD đã mua TPDN.

Thứ ba, dự thảo quy định TCTD chỉ được mua TPDN khi có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán tại năm liền kề trước năm mua TPDN. Căn cứ của quy định này có thể là việc NHNN cho rằng TCTD càng mua nhiều TPDN thì càng chịu thêm nhiều rủi ro tín dụng. Nên nếu TCTD đã, đang có sức khỏe yếu, phải đối mặt với rủi ro cao, như được thể hiện ở tỷ lệ nợ xấu trên 3%, thì việc mua TPDN chỉ làm suy yếu thêm TCTD (tăng thêm nợ xấu). Do đó, cần thiết phải khống chế TCTD chỉ được mua TPDN khi tỷ lệ nợ xấu của nó thấp.

Tuy nhiên, nếu quả là NHNN có quan điểm như vậy thì quan điểm này chỉ đúng khi mọi TPDN mà TCD sắp mua vào đều là loại TPDN có rủi ro cao, doanh nghiệp phát hành dễ mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn – là điều không luôn đúng trên thực tế. Do đó, có lẽ NHNN cần quy định thêm rằng với TCTD có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên thì chỉ được mua TPDN có mức xếp hạng tín nhiệm tối thiểu là an toàn cho đầu tư bởi cơ quan xếp hạng tín nhiệm độc lập được công nhận (ví dụ như mức BBB của Fitch), hoặc bởi hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ của TCTD đối với doanh nghiệp phát hành TPDN hoặc đối với bản thân TPDN đó.

Cùng một logic như vậy, nếu NHNN cấm TCTD có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên được mua TPDN thì NHNN cũng cần phải cấm TCTD cho vay khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân bởi càng cho vay thì càng chịu thêm rủi ro. Nhưng đương nhiên không phải khách hàng vay vốn nào cũng sẽ là khách hàng phát sinh nợ xấu nên TCTD vẫn cần được tiếp tục cho vay khách hàng một cách có chọn lọc, dựa theo xếp hạng tín nhiệm của họ, cũng tương tự như việc TCTD cần được tiếp tục mua TPDN một cách có chọn lọc.

Thứ tư, một trong số những điều kiện mà dự thảo quy định cho TCTD khi mua trái phiếu doanh nghiệp là doanh nghiệp phát hành trái phiếu có khả năng tài chính để đảm bảo thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đúng hạn. Điều này tưởng cũng là hợp lý bởi TCTD phải thấy được khả năng trả nợ gốc và lãi thì mới nên/được mua trái phiếu. Nhưng thế nào là “có khả năng tài chính” là một khái niệm mang tính chủ quan. Tại thời điểm xem xét mua TPDN, doanh nghiệp phát hành có phương án tài chính hợp lý, chẳng hạn như phát hành mới TPDN để trả một phần gốc và lãi của đợt huy động trước (một hành động rất bình thường trong giới doanh nghiệp, cũng tương tự như một quốc gia phải đi vay/phát hành trái phiếu mới để trả nợ cũ như trường hợp của Việt Nam). Nhưng vì một lý do (bất khả kháng) nào đó mà không một ai, từ TCTD và ngay cả doanh nghiệp phát hành có thể lường trước được, phương án tài chính này đổ bể, ảnh hưởng đến việc trả gốc và lãi của TPDN. Lúc đó, người có trách nhiệm của TCTD mua TPDN có vấn đề này có khả năng phải đối mặt với cáo buộc “cố ý làm trái”, đại loại như mặc dù biết rằng phương án tài chính dựa vào đi vay để trả nợ của doanh nghiệp phát hành là rất rủi ro (mà thực tế đã xảy ra đúng như vậy) nhưng vẫn cố ý mua trái phiếu của doanh nghiệp đó.

Do vậy, NHNN cần xem xét, sửa đổi hoặc bỏ quy định này, tạo điều kiện cho TCTD quyết định mua trái phiếu hay không chỉ cần dựa vào những quy định liên quan còn lại trong dự thảo, nhất là quy định về công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành, bao gồm báo cáo tài chính có kiểm toán v.v... để biết được tình trạng sức khỏe của nó thời hiện tại (thể hiện ở mức tín nhiệm) là đủ. Còn nếu cứ yêu cầu TCTD phải đảm bảo được rằng doanh nghiệp phát hành sẽ trả được nợ gốc và lãi trong tương lai thì mới được mua trái phiếu của doanh nghiệp đó thì yêu cầu này cũng chỉ là để cho có, chỉ có thể đáp ứng được trong thế giới không tưởng, đơn giản bởi chẳng có ai có thể làm được như vậy.

Thursday 15 October 2020

Mua lại có kỳ hạn trái phiếu chính phủ, thì sao? (Bài đăng trên TBKTSG, 15/10/2020)

 https://www.thesaigontimes.vn/309394/mua-lai-co-ky-han-trai-phieu-chinh-phu-thi-sao.html

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch mua lại có kỳ hạn trái phiếu Chính phủ (TPCP) của Kho bạc Nhà nước (KBNN) từ nguồn ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi. Theo đó, KBNN sử dụng ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi để mua TPCP và nhận quyền sở hữu TPCP từ bên bán – là các ngân hàng thương mại (NHTM) đáp ứng được các điều kiện như quy định trong dự thảo thông tư, đồng thời cam kết sẽ bán lại và chuyển quyền sở hữu khối lượng TPCP đó cho bên bán (NHTM) sau một thời gian xác định với một mức giá xác định.

Về sự cần thiết ban hành thông tư này, Bộ Tài chính chỉ giải thích rất ngắn gọn là để có cơ sở thực hiện nghiệp vụ mua lại có kỳ hạn TPCP chưa được triển khai. Trong khi đó, những nghiệp vụ sử dụng ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi khác được quy định trong Nghị định số 24/2016/NĐ-CP đã được triển khai từ năm 2017. Lý do chậm triển khai này, cũng theo Bộ Tài chính, là do đây là nghiệp vụ mới, khá phức tạp.

Do nghiệp vụ mua lại có kỳ hạn TPCP có ý nghĩa thiết thực, như nói thêm ở dưới đây, việc Bộ Tài chính mất đến 4 năm mới đưa ra được bản dự thảo thông tư là khó hiểu, khó chấp nhận. Lưu ý thêm là từ dự thảo đến thông tư thật còn cần thêm một khoảng thời gian đáng kể nữa.

Viện lý do nghiệp vụ này là “mới, khá phức tạp” nên chậm triển khai cũng là khó chấp nhận bởi cũng chính Bộ Tài chính là nơi xây dựng và đệ trình Chính phủ ban hành Nghị định 24/2016 quy định về các nghiệp vụ sử dụng ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi. Nên có “mới, khá phức tạp” thì là với ai đó, có lẽ là người dân thường, chứ không phải là Bộ Tài chính.

Về mục đích và ý nghĩa của việc mua lại có kỳ hạn TPCP, Bộ Tài chính chỉ đề cập một cách gián tiếp thông qua giải thích vắn tắt về sự cần thiết của Thông tư trên, gồm “giúp quản lý ngân quỹ Nhà nước an toàn, hiệu quả và hỗ trợ phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ”.

Như vậy, có thể hiểu nghiệp vụ mua lại có kỳ hạn TPCP chủ yếu là để phục vụ, đáp ứng nhu cầu của (ngân quỹ) Nhà nước. Điều này là trái ngược với luồng ý kiến hiện nay cho rằng nghiệp vụ này là một kênh bơm vốn từ ngân quỹ Nhà nước cho các NHTM, ngoài nghiệp vụ bơm vốn trên thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Xem xét kỹ hơn về bản chất của nghiệp vụ mua lại này thì cũng sẽ thấy nó phục vụ chủ yếu cho nhu cầu của Nhà nước (Bộ Tài chính, KBNN).

Thứ nhất, KBNN có mua lại TPCP hay không, nói cách khác, có bơm vốn cho NHTM hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào việc ngân quỹ Nhà nước có tạm thời nhàn rỗi hay không, có còn hạn mức để mua lại TPCP hay không. Điều này không phụ thuộc vào ý chí và nhu cầu của NHTM. Nói cách khác, NHTM có bí, khát thanh khoản đến đâu thì cũng không thể trông chờ, hy vọng vào Bộ Tài chính (KBNN) để bơm vốn như cách mà NHTM trông chờ vào NHNN như người cho vay cuối cùng (và thường thì sẽ cho vay).

Thứ hai, KBNN có mua lại TPCP thì cũng không có nghĩa là NHTM có nhu cầu về thanh khoản là sẽ tiếp cận được với nguồn vốn mà KBNN tung ra thị trường này. Bởi NHTM còn phải đấu thầu với nhau để được KBNN lựa chọn. Điều này cũng khác với việc NHTM khi có nhu cầu thanh khoản chỉ cần cầm cố TPCP là hầu như sẽ vay được tiền từ NHNN với lãi suất quy định trước, hoặc vay trên thị trường.

Thứ ba, KBNN có tung ra một lượng tiền từ ngân quỹ Nhà nước để mua lại (có kỳ hạn) TPCP thì điều này không có nghĩa là thị trường/hệ thống ngân hàng được bơm thêm một lượng tiền tương ứng như cách mà NHNN bơm thêm tiền cho hệ thống thông qua các nghiệp vụ của nó. Thực chất thì KBNN chỉ tạm thời bơm trả lại cho thị trường/hệ thống ngân hàng một lượng tiền mà trước đó họ đã gom về cho ngân quỹ Nhà nước thông qua việc phát hành TPCP để NHTM mua vào và nắm giữ. Ngay cả lượng tiền mà KBNN gom về ngân quỹ Nhà nước từ phát hành TPCP cũng không nằm im đó mà sẽ được Nhà nước trả lại cho thị trường thông qua các hoạt động chi tiêu, đầu tư và gửi vào hệ thống ngân hàng. Nói cách khác, thanh khoản trên thị trường, trong hệ thống sẽ không thay đổi nếu KBNN phát hành hay mua lại (có kỳ hạn) TPCP. Người quyết định thanh khoản trên thị trường, trong hệ thống ngân hàng luôn và duy nhất chỉ là NHNN chứ không phải là ai khác, kể cả Bộ Tài chính (KBNN).

Thứ tư, và quan trọng nhất, nghiệp vụ mua lại (có kỳ hạn) TPCP từ nguồn ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi, như tên gọi của nó, cũng như trong giải thích của Bộ Tài chính đính kèm dự thảo, là để phục vụ lợi ích của chính (ngân quỹ) Nhà nước. Cụ thể, sử dụng nguồn tiền được xác định là tạm thời nhàn rỗi mà nếu để không thì không sinh ra đồng lời lãi nào, KBNN mua lại TPCP từ NHTM. Việc mua này về bản chất cũng tương tự như cho NHTM vay, với TPCP mà NHTM đang nắm giữ là tài sản thế chấp. Nó trên hết sẽ giúp cho ngân sách Nhà nước không phải trả lãi (định kỳ) cho TPCP mà NHTM đang nắm giữ (nay tạm thời chuyển giao quyền sở hữu cho KBNN), hoặc trả lãi ít hơn cho cùng TPCP đó về tổng thể. Nói cách khác, nhờ sử dụng/đầu tư nguồn ngân quỹ Nhà nước tạm thời nhàn rỗi không sinh lãi, nghiệp vụ mua lại (có kỳ hạn) TPCP sẽ tiết kiệm chi cho ngân sách ở mức độ tương ứng với quy mô mua lại của KBNN.

Thứ năm, qua việc bán có kỳ hạn TPCP cho KBNN, các NHTM cũng được hưởng lợi nhờ chủ động tính toán, quản lý, kiểm soát được tình trạng thanh khoản và khả năng gia tăng lợi nhuận từ tài sản nắm giữ (là TPCP) của mình. Ví dụ, nếu thấy thanh khoản sẽ thiếu hụt trong kỳ tới trong khi đang nắm giữ TPCP thì NHTM thay vì đem cầm cố để vay trên thị trường hay tại NHNN, có thể cầm cố/bán có kỳ hạn số TPCP này cho KBNN, với chi phí/lãi suất có thể thấp hơn trên thị trường hoặc thấp hơn lãi suất cho vay tái chiết khấu ấn định trước và áp dụng đại trà của NHNN. Như vậy, ở đây có thể nói việc mua lại này của KBNN mang lại lợi ích song phương, nếu được tiến hành thành công.

Tất nhiên, xin nhắc lại là việc vay cầm cố này của NHTM có thành công hay không còn phụ thuộc vào nhu cầu (cho vay) của KBNN từng thời kỳ, cũng như tình hình lãi suất thị trường hiện tại dự đoán cho đầu và cuối kỳ tới được xác định thông qua đấu thầu giữa các NHTM.

Thứ sáu, cũng đúng như Bộ Tài chính giải thích, việc mua lại có kỳ hạn này hỗ trợ phát triển thị trường TPCP. Bởi nó là một kênh bổ sung cho việc sử dụng TPCP, làm cho TPCP trở nên hữu dụng hơn và, do đó, hấp dẫn hơn cho việc nắm giữ, trao đổi, kinh doanh bởi các NHTM và tổ chức tài chính. Rốt cuộc, ngân sách Nhà nước sẽ được hưởng lợi khi thị trường tích cực đón nhận hơn các đợt phát hành TPCP mới, với chi phí phát hành cạnh tranh hơn (giảm đi).   

Wednesday 14 October 2020

Nới lỏng định lượng khó xảy ra ở Việt Nam (Bài đăng trên CafeF, 14/10/2020)

 https://cafef.vn/noi-long-dinh-luong-kho-xay-ra-o-viet-nam-20201014102510897.chn

Để hỗ trợ nền kinh tế bị ảnh hưởng của Covid-19, từ đầu năm đến nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần giảm các mức lãi suất điều hành từ 1,5 đến 2 điểm %/năm. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đã và vẫn phàn nàn khó tiếp cận với vốn vay ngân hàng và lãi suất cho vay vẫn còn cao nên không giúp ích gì mấy cho doanh nghiệp.

Trong bối cảnh lãi suất Việt Nam vẫn còn cao, đặc biệt so với thế giới, nơi các ngân hàng trung ương đã tích cực nới lỏng tiền tệ, hạ lãi suất, thậm chí kết hợp cả nới lỏng định lượng, đã có luồng ý kiến cho rằng NHNN cũng nên nới lỏng định lượng. Việc này sẽ giúp Chính phủ có thêm nguồn vốn giá rẻ để tăng cường chi tiêu, hỗ trợ cho doanh nghiệp và nền kinh tế nhanh chóng phục hồi.

Tuy vậy, thực hiện nới lỏng định lượng cần những hoàn cảnh đặc biệt và có những điều kiện nhất định. Nới lỏng định lượng cũng không phải là phương thuốc nhiệm mầu, “thập toàn đại bổ” mà nếu được triển khai thì sẽ luôn đạt được mục đích như đặt ra.

Trước hết, hãy hiểu tại sao ngân hàng trung ương của một số nước phát triển như Mỹ, Nhật, châu Âu lại áp dụng nới lỏng định lượng. Điểm chung của những nước này khi áp dụng nới lỏng định lượng là lãi suất thường đang ở mức rất thấp, tiệm cận 0 nên hành động nới lỏng tiền tệ (để hạ lãi suất) của ngân hàng trung ương nước sở tại thông qua các nghiệp vụ truyền thống như cho vay trên thị trường mở OMO không còn hiệu quả nữa. Lúc này ngân hàng trung ương các nước không còn mấy công cụ chính sách hữu hiệu khác có trong tay để khuyến khích ngân hàng thương mại tăng cường cho vay nền kinh tế với lãi suất thấp nên cần phải có những hành động chính sách phi truyền thống/bất thường như nới lỏng định lượng, theo đó ngân hàng trung ương mua trái phiếu, thậm chí là nợ dài hạn hoặc cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường (từ Chính phủ và/hoặc doanh nghiệp).

Hành động mua các tài sản như trên của ngân hàng trung ương sẽ có tác dụng tăng cung tiền, tăng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng thương mại, mà cuối cùng sẽ biến thành dự trữ của ngân hàng thương mại (gửi tại ngân hàng trung ương) hoặc thành nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại, qua đó khuyến khích ngân hàng thương mại cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp.

So sánh với các nước phát triển thì điều khác biệt rõ ràng nhất ở Việt Nam là lãi suất của Việt Nam còn ở mức khá cao, NHNN vẫn còn nhiều dư địa để hạ lãi suất, nếu muốn hay bị bắt buộc phải thực hiện. Bởi vậy, về nguyên tắc thì nới lỏng định lượng là không cần thiết ở Việt Nam.

Vậy điều gì làm NHNN ngần ngại, thận trọng hạ thêm, hạ mạnh lãi suất như các ngân hàng trung ương khác trên thế giới đã làm? Như người viết đã đề cập đến trước đây, điều “trói chân” NHNN hạ mạnh lãi suất ở Việt Nam là lạm phát ở Việt Nam vẫn còn cao, cũng như nhu cầu ổn định tỷ giá VND/USD.

Có một số người lập luận rằng nếu NHNN không (muốn) hạ lãi suất điều hành (thêm) thì NHNN vẫn có thể tiến hành nới lỏng định lượng, trực tiếp bơm tiền với giá rẻ cho ngân sách Nhà nước, cho Chính phủ (và doanh nghiệp).

Nhưng lưu ý rằng hành động trên của NHNN cũng chính là hành động nới lỏng tiền tệ, tăng cung tiền, vốn có tác dụng tương tự như nghiệp vụ OMO của NHNN. Mà như thế sẽ chắc chắn dẫn đến những hậu quả mà NHNN lo ngại, gồm tăng áp lực lạm phát và bất ổn định tỷ giá. Tệ hại hơn, các nghiệp vụ nới lỏng tiền tệ truyền thống hay nới lỏng định lượng có thể sẽ dẫn đến kết cục không ai mong muốn là vừa lạm phát vừa trì trệ trong tăng trưởng (stagflation, đình lạm).

Có rất nhiều ví dụ thực tế đặt ra nghi ngờ về hiệu quả của nới lỏng định lượng lên tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng trung ương Nhật từ năm 2001 đã thực hiện chương trình mua trái phiếu Chính phủ quy mô lớn rồi sau đó chuyển sang mua cả nợ và cổ phiếu khu vực tư nhân để chống giảm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế. Nhưng kết cục là GDP của Nhật lại giảm đi trong giai đoạn 1995-2007.

Tương tự, Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ đã tích cực thực hiện nới lỏng định lượng từ năm 2008, đẩy lãi suất nước này xuống mức âm. Tuy nhiên, dù tăng trưởng của Thụy Sĩ là dương nhưng người ta không rõ có bao nhiêu phần trong mức tăng trưởng dương này là công của nới lỏng định lượng, và, quan trọng hơn, mức tăng trưởng dương này vẫn thấp hơn mức kỳ vọng của ngân hàng trung ương nước này.

Ngân hàng trung ương Anh cũng tiến hành nới lỏng định lượng bổ sung vào tháng 8/2016 để giảm thiểu thiệt hại của chủ trương Brexit. Tuy nhiên, mức tăng trưởng đầu tư của nền kinh tế chỉ đạt trung bình 0,4%/quý trong giai đoạn từ tháng 8/2016 đến tháng 6/2018, còn thấp hơn trong giai đoạn 2009-2018.

Gần đây nhất là Mỹ với nới lỏng định lượng bắt đầu từ tháng 3 năm nay trên quy mô lớn để khắc phục hậu quả của đại dịch. Nhưng điều rõ ràng là Mỹ vẫn và sẽ phải tiếp tục mở rộng nới lỏng thêm trong một thời gian không xác định, trước khi có thể thấy được kết quả tích cực của nó.

Như vậy, nới lỏng (thêm) hay không, nới lỏng như thế nào không thể cứ đơn giản làm theo cảm tính theo kiểu “đau đâu thuốc đấy” là được. Cần hiểu thấu đáo bản chất vấn đề và thận trọng, cân nhắc toàn diện các điều kiện, hiện trạng của nền kinh tế và dự tính các hậu quả lên các biến số vĩ mô để có các giải pháp chính sách phù hợp, hữu hiệu.

Thursday 8 October 2020

Nên 'biện hộ' thế nào về chuyện tiền đồng bị định giá thấp? (Bài đăng trên TBKTSG, 8/10/2020)

 https://www.thesaigontimes.vn/309109/nen-bien-ho-the-nao-ve-chuyen-tien-dong-bi-dinh-gia-thap.html

Mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tuyên bố tái khẳng định rằng chưa và sẽ không bao giờ sử dụng công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá để tạo lợi thế cạnh tranh không công bằng trong giao dịch thương mại và quốc tế. Lời tái khẳng định này có lẽ được đưa ra trong bối cảnh Mỹ gần đây đã xác quyết rằng VND đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019.

Theo cáo buộc của Mỹ, việc định giá thấp này là kết quả của “hành động của Chính phủ Việt Nam lên tỷ giá” bằng việc đã mua 22 tỷ USD gồm cả phần mua bởi NHNN. Phía Mỹ tính toán rằng hành động này của Việt Nam đã làm cho tỷ giá VND, ở mức danh nghĩa là 23.224 đồng/USD năm 2019, thấp hơn khoảng 1.090 đồng so với tỷ giá hối đoái thực cân bằng.

Tuyên bố trên của NHNN là một hành động cần thiết để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước lời cáo buộc của Mỹ (và của những đối tác khác, nếu có “hùa” theo). Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự khẳng định này, dù là tái khẳng định, dù có cương quyết, mạnh mẽ đến đâu mà không đưa ra những bằng chứng và thực tế khách quan thì hiệu quả của tuyên bố này có lẽ sẽ không có nhiều.

Để biện hộ có hiệu quả thì, trong khi phải thừa nhận việc mua vào 22 tỷ USD năm 2019 theo cáo buộc của Mỹ là một thực tế mà không thể, không nên phủ nhận, NHNN có thể làm nhẹ thực tế này bằng cách gắn kết nó với những nhu cầu, quyền lợi chính đáng của quốc gia.

Trước hết, nếu có thể được thì cần đưa ra những số liệu thống kê để chứng minh về sự tăng mạnh nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là vốn ngắn hạn (không phải là FDI), mang tính đầu cơ mà còn thường được biết đến dưới tên gọi “hot money” chảy vào nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019, vốn có thể là kết quả trực tiếp và gián tiếp của thương chiến Mỹ-Trung.

Khi luồng tiền nóng dồn dập đổ vào một nền kinh tế thì hậu quả tất yếu thường là sự lên giá mạnh của bản tệ mà nếu không kịp thời được can thiệp và kiểm soát thì sẽ tạo ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế bản địa như sự lên giá mạnh của bản tệ làm suy giảm trầm trọng tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước, đi kèm với sự căng phồng các bong bóng tài sản như chứng khoán và bất động sản mà sớm muộn cũng sẽ nổ vỡ.

Trước hậu quả nhãn tiền trên, phản ứng chính sách chính đáng, tiêu chuẩn sẽ là can thiệp và kiểm soát lưu chuyển vốn, không để cả tỷ giá thực lẫn tỷ giá danh nghĩa tăng quá mức có thể chấp nhận. Trên khía cạnh này, việc NHNN mua vào USD cần được chỉ ra rằng đây là một hành động tự vệ cần thiết. Hơn nữa, việc mua vào USD này của NHNN thực ra vẫn có thể biện luận là đã “rất thận trọng”, rất chừng mực, khi nó không làm tỷ giá VND/USD suy yếu đáng kể, mà hầu như là ổn định/đứng yên (thực tế, vào cuối năm 2019 tỷ giá danh nghĩa mới chỉ giảm có 0,11% so với đầu năm 2019).

Song song đó, Việt Nam cũng có thể biện hộ thêm rằng với lịch sử nhiều năm phải trải qua những thăng trầm lớn về bất ổn vĩ mô gắn với sự mất giá của VND (so với USD) nên ưu tiên chính sách hàng đầu – rất chính đáng và có ý nghĩa ở/của Việt Nam – là ổn định tỷ giá (danh nghĩa). Hướng đến mục tiêu này, năm 2019 là một năm có thể được coi là thành công khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không biến động/suy giảm, nhờ đó lạm phát của Việt Nam trong năm 2019 cũng được kiềm chế ở mức 2,8%.

Mục đích chính đáng bổ sung dự trữ ngoại hối vốn vẫn ở mức dưới chuẩn trước đó cũng là một yếu tố mà Việt Nam có thể sử dụng để bảo vệ mình trước cáo buộc của Mỹ. Trên thực tế, dù Chính phủ Việt Nam có mua vào 22 tỷ USD nhưng phần lớn lượng USD mua vào này chảy vào quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN. Theo NHNN công bố, dự trữ ngoại hối đã tăng thêm 20 tỷ USD trong năm 2019, đạt 79 tỷ USD. Như vậy, nếu không mua bổ sung USD trong năm 2019 thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tụt thấp hơn mức tối thiểu cần có cho dự trữ ngoại hối quốc gia theo khuyến cáo là 3 tháng nhập khẩu (tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam năm 2019 theo công bố là 253,5 tỷ USD). Và tuy có mua vào thêm 20 tỷ USD thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2019 cũng mới chỉ tương đương 3,7 tháng nhập khẩu. Đây không phải là một con số quá lớn đến mức bất thường, không thể chấp nhận được.

Nhưng bên cạnh vấn đề tỷ giá, có lẽ điều mà Mỹ cũng rất xem trọng trong cáo buộc của họ là con số thâm hụt thương mại lớn (và tăng lên) của Mỹ với Việt Nam. Điều này tất yếu có một phần nguyên nhân không nhỏ là do nhiều doanh nghiệp nước ngoài gian lận xuất xứ hàng hóa của Việt Nam, nhưng suy cho cùng cũng bắt nguồn từ thương chiến Mỹ-Trung và các bất đồng thương mại giữa Mỹ với các đối tác khác. Điều này tất nhiên là chẳng mấy có lợi gì cho Việt Nam, kể cả không xét đến cáo buộc của Mỹ. Vì vậy, cần nhìn nhận thẳng thắn vấn đề này với Mỹ và thể hiện những hành động cho thấy chúng ta đang và sẽ quyết liệt xử lý, ngăn ngừa, đồng thời qua đó chứng tỏ cho phía Mỹ thấy tỷ giá VND không phải nguồn cơn chính của tình trạng nhập siêu lớn của Mỹ với Việt Nam.

Sau cùng, việc Mỹ tính toán tỷ giá VND/USD lẽ ra phải yếu đi thêm 1.090 đồng/USD có một phần là do chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam làm cho VND lên giá thực so với USD. Tuy nhiên, với mức chênh lệch lạm phát tương đối nhỏ giữa Việt Nam và Mỹ, tương ứng là 2,8% và 2,3% năm 2019, trong khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không thay đổi, thì tính toán của Mỹ rằng rằng VND đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019 là một điều khá bất ngờ và khó hiểu. Việt Nam cần yêu cầu phía Mỹ giải thích cụ thể tính toán của họ để có cơ sở phản biện một cách hữu hiệu, chuẩn xác hơn.

Tuesday 29 September 2020

Thẳng thắn đương đầu với nợ xấu (Bài đăng trên CafeF, 29/9/2020, bản gốc)

https://cafef.vn/thang-than-duong-dau-voi-no-xau-20200929071059443.chn

Bất chấp đại dịch, kết quả kinh doanh nửa đầu năm của nhiều ngân hàng thương mại vẫn rất khả quan, với nhiều ngân hàng thậm chí báo cáo mức tăng trưởng lợi nhuận hai con số. Tuy vậy, điều này là không đáng ngạc nhiên bởi nó có được là một phần quan trọng nhờ vào Thông tư 01 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành giữa tháng 2 cho phép các ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng của dịch.

Do dịch bệnh đã quay lại hồi tháng 7 và nền kinh tế tiếp tục khó khăn, nợ xấu thực tế được dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh. Trước tình hình này, Thông tư 01 đang được xem xét sửa đổi để  cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đủ tiêu chuẩn đối với các khoản giải ngân từ ngày 23-1-2020 đến ngày 24-4-2020.

Nếu được thông qua, thông tư sửa đổi của Thông tư 01 sẽ tiếp tục làm nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng đỡ xấu, lợi nhuận ngành ngân hàng tiếp tục đẹp hơn thực tế. Quan trọng hơn, nhờ giải pháp kỹ thuật này mà ngân hàng vẫn tiếp tục được phép  đẩy mạnh cho vay mà không bị trói buộc quá chặt bởi nợ xấu và những yếu tố liên quan như trích lập dự phòng, tỷ lệ vốn tối thiểu v.v... vốn đã trở nên xấu đi nhiều nếu nợ xấu không được (gia hạn) cơ cấu. Điều này được kỳ vọng sẽ giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế nói chung và làm lợi cho ngành ngân hàng nói riêng.

Tuy nhiên, cuộc vui nào rồi cũng sẽ đến lúc tàn. Thông tư 01 dù có được sửa đổi thêm một hoặc vài lần nữa thì chắc chắn sẽ phải đến lúc không thể, không còn lý do để sửa đổi nó, để nó hết hiệu lực. Lúc đó, nợ xấu sẽ buộc phải nổi lên với quy mô vượt xa so với con số “đẹp” báo cáo trước đó. Các ngân hàng lúc này sẽ đột ngột phải đối mặt với khối nợ xấu đồ sộ này để rồi rơi vào tình trạng xấu không kém gì khi phải đương đầu ngay với các khoản nợ xấu tăng đột ngột do hậu quả của đại dịch trước đó.

Nói cách khác, việc cho phép che giấu nợ xấu chỉ giúp trì hoãn thời điểm chịu đau đớn, chứ không chữa được cơn đau chắc chắn sẽ xảy ra. Dẫu cũng có ngân hàng chủ động trích lập dự phòng, tích cực xử lý nợ xấu ngay cả trong thời gian được phép giấu nợ xấu, nhưng đây chỉ là thiểu số. Điều này một phần bởi quy mô và tiềm lực xử lý nợ xấu là khác nhau, chênh lệch đáng kể giữa các ngân hàng và nhóm ngân hàng. Mặt khác, vì phải (chạy theo) bảo đảm thành tích kinh doanh (chịu ảnh hưởng cửa tính nhiệm kỳ) nên các ngân hàng theo lẽ thường sẽ có xu hướng giấu nợ nhiều nhất có thể, nhất là khi được phép, nên dù có chủ động và tích cực đến mấy thì vẫn sẽ có một phần lớn nợ xấu được giấu đi, cả hợp pháp và bất hợp pháp (bằng các thủ thuật). 

Do vậy, nếu cân nhắc thiệt hơn, câu hỏi đặt ra là có nên tiếp tục sửa đổi Thông tư 01 để cho phép nợ xấu – vốn chắc chắn sẽ tiếp tục tăng mạnh bởi sự quay lại của dịch – được che giấu theo kiểu “giấu bụi dưới thảm”?

Nếu ngân hàng tiếp tục giấu nợ để tăng cường cho vay doanh nghiệp và nền kinh tế thì không thể phủ định được khả năng doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ phục hồi nhanh hơn và nợ xấu ngân hàng nhờ đó cũng sẽ được xử lý nhanh hơn. Nhưng quá trình theo lý thuyết này có thể sẽ tốn rất nhiều thời gian.

Công cuộc xử lý nợ xấu tích tụ từ những năm đầu thập kỷ này đã chật vật diễn ra trong nhiều năm cho đến khi có các giải pháp xử lý mạnh tay hơn như theo Nghị quyết 42 của Quốc hội và Đề án 1058 của Chính phủ, chưa kể sự ra đời trước đó của VAMC thì tình hình mới phần nào được cải thiện nhanh chóng hơn cho đến khi một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khó khăn do đại dịch năm nay.

Vấn đề là việc thực hiện Nghị quyết 42 ngay trong thời bình thường đã và đang gặp nhiều trở ngại, nhất là những vướng mắc pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm, bất chấp nhiều trong số những trở ngại này đã được xác định để có hướng giải quyết. Trên thực tế, để xử lý được những vướng mắc pháp lý này thì phải sửa đổi đồng bộ nhiều luật như Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Nghị quyết 42 v.v... Điều chắc chắn là để cho đến khi không còn vướng mắc nữa thì bản thân những luật sửa đổi này cũng sẽ phải được sửa đổi thêm một đôi lần nữa như một thực tế thường thấy ở Việt Nam, tức là sẽ cần thêm không ít năm nữa.

Với thời gian dự kiến kéo dài để xử lý đống nợ xấu dồn lại sau đại dịch, triển vọng xử lý nợ xấu sẽ trở nên bất trắc hơn nếu đột nhiên nền kinh tế trong nước và thế giới lại phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng mới, là điều không thể nói trước được, tương tự như việc đột ngột xảy ra dịch Covid-19 giữa lúc Việt Nam đang quyết tâm đạt mục tiêu xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém trong giai đoạn 2016-2020 như đã đề ra. Lúc đó, sẽ lại có trì hoãn, gia hạn, và sửa đổi, cũng như các biện pháp mua thời gian giống và khác trong quá khứ và hiện tại, để rồi ngành ngân hàng tiếp tục ngụp lặn trong mớ rối ren không lối thoát.

Trên hết, việc giấu, làm đẹp nợ xấu cần được đi kèm với những giải pháp không được khuyến khích như chậm/trì hoãn áp dụng các chuẩn mực mới của quốc tế đã được nhiều nước áp dụng, ví dụ như tiêu chuẩn kế toán quốc tế IFRS 9 (trong khi Việt Nam vẫn áp dụng chuẩn kế toán VAS của riêng mình). Việc chậm chễ này sẽ để lại những hậu quả tương tự như việc chậm chễ áp dụng các chuẩn mực an toàn của Basel II và cao hơn.

Vì vậy, với triển vọng bất trắc trong xử lý nợ xấu khi được che giấu như trên, cần xem lại chủ trương sửa đổi, gia hạn Thông tư 01 hay những giải pháp tương tự trong tương lai mỗi khi nền kinh tế đối mặt với một cú số nào đó. Sự (bắt buộc phải) thẳng thắn đối mặt với nợ xấu ngay khi chúng phát sinh sẽ không chỉ tăng thêm tính minh bạch, lành mạnh của hệ thống mà còn giúp cho các ngân hàng có thêm động lực để xử lý nợ xấu sớm trong khả năng có thể.

Quá trình xử lý sớm và triệt để nợ xấu tất nhiên sẽ gây ra những hậu quả lập tức cho doanh nghiệp, ngân hàng và cả nền kinh tế. Nhưng điều này cũng là điều không thể tránh khỏi bởi hậu quả này không xảy ra sớm thì cũng xảy ra muộn mà hầu như không có phép màu nào giúp chúng ta tránh được.

Và trên hết, không nên đánh đổi sự lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế trong dài hạn lấy một vài điểm phần trăm tăng trưởng trong ngắn hạn. 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).