Tuesday 28 January 2020

Để không bị nhìn nhận là sử dụng tỷ giá để cạnh tranh thương mại (Bài đăng trên CafeF, 29/1/2020)

http://cafef.vn/de-khong-bi-nhin-nhan-la-su-dung-ty-gia-de-canh-tranh-thuong-mai-20200129101559808.chn


Mới đây Mỹ tiếp tục đưa Việt Nam vào trong danh sách mười quốc gia cần giám sát, theo báo cáo về “Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Mỹ” do Bộ Tài chính Mỹ ban hành ngày 14-1-2020. Ngay sau khi có thông tin này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có phản ứng bằng cách phát đi một thông báo giải thích và phân tích nguyên nhân dẫn đến kết luận trên của phía Mỹ, đồng thời khẳng định Việt Nam không sử dụng tỷ giá để cạnh tranh thương mại.

Nhờ “thiên thời, địa lợi”

Một trong những căn cứ để NHNN khẳng định như trên là sự ổn định của tỷ giá. Cụ thể, năm vừa qua trong khi một số đồng tiền khu vực và quốc tế mất giá mạnh, tỷ giá USD/VND tương đối ổn định, phản ánh đúng cung cầu thị trường. Thậm chí có thời điểm tiền đồng còn lên giá so với đô la Mỹ.

Phân tích sâu hơn, yếu tố chủ chốt góp phần giữ ổn định tỷ giá tiền đồng bất chấp áp lực phá giá từ các đồng tiền khác trong khu vực và trên thế giới là dòng vốn FDI dồi dào. Một phần trong số này đổ vào các dự án sản xuất hướng xuất khẩu, tận dụng lợi thế của Việt Nam như một điểm trung chuyển, xóa nguồn gốc, xuất xứ từ một nước thứ ba để xuất khẩu vào thị trường chính là Mỹ với thuế suất thấp trong bối cảnh thương chiến Mỹ-Trung.

Dòng vốn FDI dồi dào tạo ra thặng dư thương mại lớn đến chục tỷ USD cho Việt Nam trên một nền tảng tăng trưởng GDP theo báo cáo đạt trên 7% là mức kỷ lục trong nhiều năm nay trong khi lạm phát đứng ở mức thấp làm cho nhu cầu thúc đẩy, hỗ trợ xuất khẩu trở nên không còn bức thiết như trước đây mỗi khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng trì trệ.

Trên nền tảng như vậy, NHNN quả thật cũng chẳng có mấy lý do để phải duy trì một đồng bản tệ yếu. Ngược lại, một đồng bản tệ yếu thường sẽ tạo áp lực lên lạm phát nhất là khi nền kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ cao (nóng). Đồng thời, tỷ giá tăng sẽ được nhìn nhận như là một dấu hiệu bất ổn vĩ mô. Đây là những điều mà NHNN hoàn toàn không “thích thú” gì khi phải đối mặt.

Đổi lại cho sự ổn định tỷ giá và lạm phát thấp là một mặt bằng lãi suất cao. Tuy nhiên, dường như giới doanh nghiệp đã tỏ ra “thích nghi” với mặt bằng lãi suất này từ hai, ba năm nay và hiện người ta cũng không còn nghe thấy mấy lời kêu ca về lãi suất cao từ phía các doanh nghiệp nói chung nữa. Quan trọng hơn, có lẽ các doanh nghiệp cũng hiểu rõ rằng kêu ca lãi suất cao nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng tốt, chứng tỏ các doanh nghiệp nhìn chung vẫn đang “ăn nên làm ra” thì sự kêu ca, nếu có, cũng không có ích gì.

Bối cảnh vẫn có thể thay đổi nhanh và mạnh

Hãy cân nhắc đến một kịch bản bất lợi đối với Việt Nam. Giả sử thương chiến Mỹ-Trung được giải quyết dứt điểm trong hòa bình, bằng thương lượng song phương. Lúc đó, mọi việc sẽ lại quay trở lại với trật tự gần như cũ, ở trên khía cạnh là áp lực phải di dời cơ sở sản xuất từ Trung Quốc hoặc một nước nào đó có xung đột thương mại với Mỹ sang Việt Nam giảm thiểu. Đi kèm với rủi ro này là sự tụt giảm mạnh của dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam như năm qua do nhà đầu tư nước ngoài không còn mấy nhu cầu và động lực rót vốn vào Việt Nam như một cơ sở trú bão (thương mại) nữa.

Sự thay đổi như trên tất yếu vừa làm nguồn cung USD từ FDI giảm đi, đồng thời còn làm cho thặng dư thương mại (chủ yếu được dẫn dắt bởi khu vực doanh nghiệp FDI) cũng thu hẹp lại, thậm chí có thể đảo chiều. Cả hai điều này sẽ làm khó cho NHNN nếu muốn giữ ổn định tỷ giá ở thế cả chủ động lẫn bị động. Áp lực “điều chỉnh” tỷ giá làm cho VND yếu đi vì thế sẽ có khả năng xuất hiện trở lại.

Bối cảnh này hoàn toàn không phải xa lạ gì với Việt Nam, như đã được chứng kiến trong nhiều giai đoạn từ năm 2018 trở về trước, bất chấp việc NHNN luôn cố gắng tỏ ra nhất quán với chủ trương ổn định (tỷ giá) của mình.

Điều khác biệt cơ bản trong bối cảnh này so với những năm sóng gió của tỷ giá trước đây là dự trữ ngoại hối của Việt Nam theo NHNN cho biết đã đạt gần 80 tỷ USD, tức tương đương gần 4 tháng nhập khẩu, trên mức an toàn theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế là 3 tháng. Đây là mức cao kỷ lục từ trước đến nay ở Việt Nam.

Dự trữ ngoại hối lớn hơn sẽ là tấm đệm đỡ các cơn sốc tỷ giá trong tương lai, nếu có. Tuy nhiên, điều này mới chỉ là xét trên khía cạnh của một chính sách ngoại hối mang tư thế bị động, chống đỡ khi có cơn sốc tỷ giá.

Ở thế chủ động, do vẫn còn đó kịch bản tăng trưởng GDP giảm tốc mạnh do các lợi thế đem lại cho Việt Nam từ thương chiến Mỹ-Trung không còn nữa, nên vẫn cần phải để ngỏ một chính sách tiền đồng yếu, hoặc ít nhất là không lên giá thực so với USD và các ngoại tệ chủ chốt khác, nhằm hỗ trợ xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế (thực tế là phương hướng chính sách tiền tệ của NHNN hiện nay vẫn còn mục tiêu này – hỗ trợ tăng trưởng kinh tế - trong số các mục tiêu được đặt ra), nhất là khi các nước trong khu vực và trên thế giới tiếp tục hạ lãi suất, làm yếu bản tệ của mình.

Phải làm gì?

Phân tích ở trên cho thấy nếu tìm cách “trói” tỷ giá thì có nghĩa là chúng ta đã tự tước đi một công cụ chính sách có tác dụng giảm thiểu các cơn sốc ngoại lai. Trên hết, trong tương lai, khi buộc phải điều chỉnh tỷ giá như những năm trước đây mặc dù thực tâm NHNN cũng có thể không mong muốn như vậy, việc điều chỉnh tỷ giá này chắc chắn sẽ được nhìn nhận một cách tiêu cực như là một hành động phá vỡ cam kết của NHNN.

Để phát huy tác dụng của công cụ tỷ giá khi cần thiết phải sử dụng nhằm hỗ trợ xuất khẩu, đồng thời tránh bị gắn cho nhãn “thao túng tiền tệ”, NHNN có thể xem xét phương án hạ lãi suất, vốn có tác dụng gián tiếp làm yếu VND so với USD. Việc hạ lãi suất sẽ được xem là hợp lý và dễ được chấp nhận hơn bởi nó thường gắn liền với nhu cầu chính đáng kích thích kinh tế nội địa mỗi khi có biến cố bất lợi nào đó cản trở tăng trưởng kinh tế như bình thường, như vẫn được các nước trên thế giới sử dụng thường xuyên. Và thực tế là trong 3 tiêu chí Mỹ đặt ra để theo dõi cũng không có tiêu chí nào về lãi suất.

Hành động hạ lãi suất của NHNN sẽ còn được nhìn nhận một cách tích cực hơn nữa bởi cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp và người dân khi nó vẫn đang neo ở mức cao như hiện nay.
Đương nhiên khi hạ lãi suất phải tính đến rủi ro lạm phát tăng. Tuy vậy, khi nền kinh tế đã giảm đà tăng trưởng (hoặc tệ hơn) thì áp lực lạm phát tạo ra bởi nới lỏng có chừng mực cung tiền thường không phải là một rủi ro lớn, như kinh nghiệm của không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới cho thấy.

Sunday 26 January 2020

Room ngoại: nới hay không? (Bài đăng trên TBKTSG, 26/1/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/299399/room-ngoai-noi-hay-khong.html


Thông tư 41 với các yêu cầu về an toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel 2 có hiệu lực từ đầu năm nay lại một lần nữa đặt ra yêu cầu bức thiết trong việc tăng vốn ở nhiều ngân hàng nhằm đáp ứng được tiêu chuẩn mới về vốn này. Một trong những giải pháp chính được nêu ra là nhà nước cho tăng room ngoại (giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài) ở các ngân hàng thương mại trong nước lên trên 30%.

Cơ sở xem xét

Việc nới room ngoại được đề xuất chủ yếu dựa trên giả định rằng các cổ đông hiện hữu đồng ý với phương án pha loãng cổ phiếu, và/hoặc nhà đầu tư nước ngoài (có thể là cổ đông hiện hữu) sẵn lòng mua (thêm) cổ phiếu của ngân hàng và mua với giá cao. Bằng việc phát hành cổ phiếu với giá cao như vậy cho nhà đầu tư ngoại, người ta kỳ vọng sẽ thu được một lượng vốn lớn hơn lượng vốn có thể thu được qua cùng kênh này nếu là bán cho nhà đầu tư nội địa.

Tuy nhiên, đến đây sẽ cần phải cân nhắc ít nhất hai vấn đề. Thứ nhất, liệu cổ đông hiện hữu có đồng ý với phương án pha loãng cổ phiếu, phát hành riêng biệt cổ phiếu (cho nhà đầu tư, cổ đông nước ngoài)?

Đối với ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân, vấn đề dù sao cũng dễ giải quyết hơn, nếu các cổ đông hiện hữu thấy được lợi ích tăng vốn thông qua hành động này trong khi tự thân họ không có nhu cầu bỏ thêm vốn của mình để làm tăng vốn cho ngân hàng.

Khó khăn là với ba ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước (gọi tắt là ngân hàng có vốn nhà nước) như BIDV, Vietinbank và Vietcombank, và ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước là Agribank. Với các ngân hàng này, nhà nước là cổ đông duy nhất hoặc lớn nhất, chiếm tỷ lệ chi phối, việc pha loãng cổ phiếu, tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài (đồng nghĩa với việc nhà nước phải thu hẹp tỷ lệ sở hữu của mình) trong những ngân hàng có tính “xương sống” của hệ thống ở nhiều khía cạnh như đóng góp cho ngân sách, là công cụ thi hành chính sách tiền tệ và đảm bảo an toàn hệ thống... là một quyết định không hề dễ dàng, không phụ thuộc vào ý chí của một cá nhân hay một cơ quan hành pháp nào đó.  

Vấn đề thứ hai, liệu nhà đầu tư nước ngoài có mặn mà với việc nắm giữ (nhiều hơn) cổ phần ở các ngân hàng thương mại Việt Nam sau khi room ngoại được nới? Nếu sự quan tâm và sẵn lòng mua với giá cao của nhà đầu tư ngoại tỏ ra chỉ là một tin đồn nhiều hơn thì việc nới room vừa không đạt được mục đích tăng vốn vừa tạo những kẽ hở cho một số “nhà đầu tư” nước ngoài thâu tóm một (số) ngân hàng thương mại trong nước với động cơ mờ ám.

Như vậy, nới hay không room cho nhà đầu tư nước ngoài thì trước tiên cần phải xử lý ổn thỏa, làm chắc các vấn đề  nêu trên.

Làm cách nào?

Trước hết, cần phải tiến hành một cuộc khảo sát toàn diện, sâu rộng về sự quan tâm và nhu cầu đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào ngành ngân hàng Việt Nam để nắm được có bao nhiêu nhà đầu tư quan tâm, ngân hàng nào, ở điểm gì, mức giá sẵn lòng mua ước tính bao nhiêu, dự định nắm giữ bao nhiêu phần trăm cổ phần, trong bao lâu và triển vọng nắm giữ trong tương lai...

Câu trả lời cho những câu hỏi trên là cơ sở để hoạch định chương trình hành động “nới room”, nếu có, với các chi tiết về sẽ nới room một cách lựa chọn hay không, cho những đối tượng ngân hàng trong nước nào với đối tượng nhà đầu tư tiềm năng nào, và nên nới bao nhiêu là vừa, theo lộ trình nào, với những điều kiện nào...

Để phục vụ cho mục đích khảo sát này, về phía Việt Nam, cần phối hợp tích cực cung cấp thông tin cần thiết khi được yêu cầu để làm cơ sở cho nhà đầu tư tiềm năng có cái nhìn đầy đủ hơn về sức khỏe và lợi thế của mỗi ngân hàng mục tiêu.

Với các ngân hàng thương mại nhà nước, cần tham khảo kinh nghiệm tư nhân hóa các ngân hàng thương mại nhà nước ở các nước trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt từ góc độ an ninh, an toàn hệ thống và việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Nếu kinh nghiệm quốc tế cho thấy rõ việc tư nhân hóa, thoái vốn nhà nước, tăng vốn nước ngoài tại các ngân hàng này sẽ không gây ra ảnh hưởng tiêu cực đáng kể cho hệ thống, cho ngân sách cũng như cho toàn bộ nền kinh tế thì Chính phủ cần phải lập báo cáo thuyết phục Quốc hội thông qua cho phép nới room ngoại, hạ tối đa tỷ lệ sở hữu nhà nước.

Tất nhiên là việc đề xuất nới room này cũng vẫn phải được cân nhắc trên khía cạnh có bao nhiêu nhà đầu tư nước ngoài quan tâm và ở mức độ nào. Trong trường hợp có những phản ứng tích cực thì việc thoái vốn nhà nước, tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài ở các ngân hàng thương mại là một việc nên làm, cũng tương tự như việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nói chung hiện nay.

Ngược lại, nếu phản hồi từ phía nhà đầu tư nước ngoài không mấy tích cực thì việc nới room ngoại tạm thời nên được sếp sau những biện pháp có tính “chữa cháy” như cho phép các ngân hàng thương mại nhà nước được giữ lại lợi nhuận để tăng vốn, và/hoặc tăng cường phát hành cho các cổ đông hiện hữu (trong nước), giảm thêm tỷ lệ nắm giữ của nhà nước... Về lâu về dài thì chính những biện pháp này sẽ cải thiện tính hấp dẫn của các ngân hàng thương mại nhà nước qua đó sẽ tạo thuận lợi cho việc nới room ngoại nếu cần thiết.  
Với các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân khác chưa đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu mới trong khi chưa/không có nhà đầu tư nước ngoài nào thì cần kiên quyết bắt buộc giữ lại lợi nhuận và/hoặc cắt hạn mức tăng trưởng tín dụng... nhằm buộc cổ đông hiện hữu phải rót thêm vốn nếu muốn tồn tại và tiếp tục phát triển.

Thursday 16 January 2020

"Quy tắc vàng” của E.S. Phelps chỉ đúng trong thế giới không tưởng (Bài đăng trên TBKTSG, 16/1/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/299425/quy-tac-vang-cua-es-phelps-chi-dung-trong-the-gioi-khong-tuong.html

Sau khi tôi góp ý trong bài “So sánh lãi suất giữa các nước là vô nghĩa” cho bài viết “Khi nền kinh tế làm ra 1 năm chưa đủ trả lãi nợ vay” của nhóm gồm 4 tác giả là chuyên gia độc lập trong và ngoài nước (“các tác giả”), các tác giả tiếp tục có bài phản hồi các góp ý này của tôi trong bài “Vì sao cần phân tích và so sánh về lãi suất khi nói về tăng trưởng kinh tế?” đăng trên TBKTSG Online ngày 12/1/2020.

Nhận thấy vẫn có một số bất cập trong lập luận của các tác giả trong bài đăng ngày 12/1 nên trong bài này tôi xin tiếp tục được tranh luận cùng các tác giả để cùng đi đến một cái nhìn thống nhất về các vấn đề liên quan còn đang được tranh luận.
Luận điểm thứ nhất của các tác giả là “lãi suất cao không phải là đặc trưng của các nước đang phát triển”. Các tác giả lấy ví dụ về lãi suất ở Trung Quốc và Lào để chứng minh rằng lãi suất Việt Nam là cao hơn các nước đang phát triển khác (?).
Nhưng do chỉ lấy lãi suất của 2 nước này để so sánh với Việt Nam nên sự so sánh này của các tác giả là không thuyết phục. Để có cái nhìn tổng quát hơn, tôi sử dụng dữ liệu lãi suất của World Bank cho năm 2017 là năm gần đây nhất có chứa tối đa số liệu tương ứng của các nước trên thế giới. Hơn thế, ngoài chỉ số về lãi suất thực (real interest rate), tôi còn so sánh cả lãi suất cho vay (lending interest rate) và lãi suất huy động (deposit interest rate). Kết quả được tổng kết ở bảng dưới đây:
So sánh lãi suất của Việt Nam với các nước trên thế giới, 2017
Chỉ số
Tổng số nước có số liệu
Thứ hạng của Việt Nam (theo thứ tự từ thấp đến cao)
Lãi suất của Việt Nam
Lãi suất thực
129
48
2,9%
Lãi suất tiền gửi
134
87
4,8%
Lãi suất cho vay
130
47
7,1%
Nguồn: https://data.worldbank.org/indicator/FR.INR.RINR

Từ bảng trên, nếu so sánh một cách đơn giản về thứ hạng, có thể thấy rõ: (1) lãi suất tiền gửi của Việt Nam chỉ ở mức trung bình cao (chứ không phải là cao) của thế giới; và, ngược lại, (2) lãi suất thực và kể cả lãi suất cho vay của Việt Nam lại ở mức trung bình thấp của thế giới.   
Do các lập luận trong các bài viết của các tác giả đều dựa trên tiền đề là lãi suất của Việt Nam cao, gây khó khăn và rủi ro cho nền kinh tế, nên kết quả so sánh ở bảng trên làm cho các lập luận của các tác giả dựa trên tiền đề trên trở nên không còn thích hợp nữa. Tuy vậy, tôi vẫn sẽ tiếp tục góp ý cho từng luận điểm của các tác giả như phần dưới đây.
Luận điểm thứ hai của các tác giả về cách tính lãi của các ngân hàng, theo đó các tác giả cho rằng “Tỷ lệ lãi hay lợi nhuận này cũng phải lớn hơn lạm phát thì ngân hàng mới bảo đảm được giá trị đồng tiền của nguồn vốn và như thế mới có thể tồn tại dài lâu”.
Xin lưu ý rằng nguồn vốn cho vay của ngân hàng gồm 2 cấu thành: vốn tự có/vốn chủ sở hữu và vốn huy động. Về nguồn vốn huy động, như tôi đã nói ở bài trước rằng ngân hàng kinh doanh theo kiểu “tay không bắt giặc” nên chênh lệch cho vay và huy động được coi là “lãi thuần” (tất nhiên nếu tính đúng, tính đủ thì còn phải trừ đi chi phí kinh doanh liên quan như nhân lực, trụ sở...), do đó không cần phải lấy lãi thuần này trừ đi lạm phát làm gì nữa.
Đối với phần nguồn vốn tự có/vốn chủ sở hữu, nếu muốn tính xem vốn tự có của ngân hàng khi được sử dụng cho vay/kinh doanh có đem lại một mức lãi ròng lớn hơn lạm phát hay không thì các tác giả nhất thiết phải sử dụng các chỉ tiêu đo lường thích hợp tương ứng, ví dụ như tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE, hay return on equity), chứ không phải tính toán một cách đơn giản và bất tương thích như các tác giả trong bài viết “Khi nền kinh tế làm ra 1 năm chưa đủ trả lãi nợ vay” (cụ thể: “lãi cho vay ưu đãi là 10% trừ đi lãi suất tiền gửi 1 tháng là 4,3% thì ngân hàng lãi 5,7%.  Với lạm phát là 2,8%, ngân hàng thực lãi 2,9%. Tuy nhiên khi chạy đua lãi suất, lãi tiền gửi lên 9% thì ngân hàng chỉ còn lãi 1% và sau khi trừ lạm phát (dù là 3%) thì ngân hàng thực sự lỗ nặng”).
Về ROE, xin được trích dẫn mấy số liệu tìm từ Google. Chẳng hạn, theo Ngân hàng Nhà nước (SBV), ROE của toàn bộ hệ thống ngân hàng nội địa đã tăng 1,42 điểm phần trăm lên 9% vào tháng 11/2018 so với một năm trước đó (nguồn: https://vietnamnews.vn/economy/505844/vietnamese-banks-see-improved-profitability.html ). Nhìn về tương lai, ROE của Việt Nam còn được dự đoán lạc quan hơn nữa, chẳng hạn J.P. Morgan ước tính vào tháng 12/2019 rằng ROE của các ngân hàng trong phạm vi theo dõi của họ có khả năng đạt tới 15-21% trong 2 năm tới (nguồn: https://www.cnbc.com/2019/12/09/vietnam-banks-have-a-rare-mix-high-growth-and-returns-jp-morgan.html ).
Như vậy, các mức ROE hiện tại và tương lai này đều cao hơn nhiều so với lạm phát của Việt Nam hiện nay (quanh quẩn 3-4%), chứng tỏ nỗi lo ngại của các tác giả rằng lạm phát cao làm ngân hàng thua lỗ là hoàn toàn không có cơ sở. Trên hết, như đã biết, (trong mấy năm) hiện nay hàng loạt ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang báo lãi “khủng”, hầu như chẳng có ngân hàng nào báo lỗ cả.
Thứ ba, về ý kiến của các tác giả khi cho rằng tôi “... có vẻ khác lạ khi cho rằng doanh nghiệp có tỷ lệ nợ trên vốn tự có và tương tự, nền kinh tế Việt Nam có tỷ lệ nợ trên GDP cao và đang tăng lên không nhất thiết tạo ra rủi ro cao và tăng lên cho nền kinh tế, cũng như cho chính bản thân các ngân hàng.”
Tôi nói ý này là bởi các tác giả áp dụng lý thuyết của Modigliani-Miller, mà nếu theo lý thuyết này thì thậm chí có thể kết luận như đoạn trên (xin xem lại phần phản biện của tôi trong bài trước để tránh suy diễn sai). Như thế càng chứng tỏ rằng lý thuyết này hoàn toàn không phù hợp, không thể áp dụng vào trong việc giải thích tại sao lãi suất của một nước (chẳng hạn của Việt Nam) lại cao. Hay nói cách khác, sự áp dụng lý thuyết này của các tác giả là vô nghĩa, bất hợp lý.
Và để tránh hiểu nhầm, xin nói luôn là tôi cũng không ủng việc hộ doanh nghiệp hay nền kinh tế có tỷ lệ đòn bẩy cao (vay nợ nhiều), dù việc này không liên quan gì đến cuộc trao đổi này.
Thứ tư, về “quy tắc vàng” của E.S. Phelps mà các tác giả trích dẫn rằng: “Trong nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo thì lãi suất (lãi suất thực, đã trừ lạm phát) bằng với tốc độ phát triển”. Xin hãy chú ý vào giả định/điều kiện tiên quyết mà Phelps đặt ra, đó là “cạnh tranh hoàn hảo”. Bởi điều này chỉ có được trong thế giới không tưởng nên cũng có nghĩa là “quy tắc vàng” này cũng chỉ đúng trong thế giới không tưởng. Đồng nghĩa với điều này là quy tắc này thường không đúng, không có giá trị ứng dụng trên thực tế.
Để minh họa rõ nét hơn về điều trên, tôi cũng dùng số liệu tăng trưởng GDP của các nước có trong nguồn dữ liệu World Bank đã trích dẫn trên để so sánh với lãi suất thực của cùng các nước đó. Kết quả tính toán sự chênh lệch giữa lãi suất thực với tăng trưởng GDP từ công thức: (Lãi suất thực – Tăng trưởng GDP) / Tăng trưởng GDP * 100% cho 128 nước có đồng thời cả số liệu tăng trưởng GDP và lãi suất thực vào năm 2017 cho thấy chỉ có 7 nước (gồm Bờ biển Ngà, Israel, Sri Lanka, Myanmar, Mỹ, Togo, và Panama) là có mức chênh lệch tạm gọi là nhỏ (trong phạm vi +/-10%). 
Với thực tế chỉ có 7/128 nước là có lãi suất thực theo gần sát với tăng trưởng GDP, có thể suy ra rằng: (1) tăng trưởng GDP không phải là mức chuẩn để xây dựng/hướng đến của, hay là cơ sở cho lãi suất thực trên thực tế, trong thế giới thực hiện nay; (2) “quy tắc vàng” của Phelps hầu như không xảy ra trong thế giới thực hiện nay.
Thứ năm, các tác giả nhầm lẫn cơ bản giữa lãi/lợi nhuận của doanh nghiệp với chi phí vay (mà đôi khi còn được các tác giả gọi là “lãi suất cho vay”) của doanh nghiệp. Sự nhầm lẫn này chính là nguyên nhân dẫn đến kết luận sai lầm rằng doanh nghiệp làm ra một năm không đủ để trả lãi nợ vay.
Cụ thể hơn, cần biết rằng, theo nguyên tắc kế toán, lãi/lợi nhuận (thuần) của doanh nghiệp là phần thặng dư còn lại sau khi doanh nghiệp đã chi trả lãi vay và nợ gốc đến kỳ thanh toán cho các chủ nợ. Bởi vậy, dù lãi vay và nợ gốc có lớn đến đâu chăng nữa, nhưng nếu trên báo cáo thu nhập và chi phí cuối kỳ của doanh nghiệp mà hạng mục lợi nhuận ròng (sau thuế) là dương thì có nghĩa là doanh nghiệp đã không những làm ra đủ để trả nợ mà còn có lãi ròng nữa trong kỳ đó. Do đó, như tôi đã nói trong bài trước, so sánh lợi nhuận (ròng) với chi phí vay (tiền lãi vay + nợ gốc) để xem doanh nghiệp làm ra có trả được nợ hay không là vô nghĩa.
Nếu vẫn còn “lăn tăn” với vấn đề trên, hãy đặt câu hỏi ngược lại, nếu doanh nghiệp không trả được lãi vay và nợ gốc thì chủ nợ nào để yên cho doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và hoạt động như đại bộ phận doanh nghiệp hiện nay? Dựa vào số liệu nào để các tác giả cho rằng hàng loạt doanh nghiệp đã và đang đóng cửa ở Việt Nam chỉ vì lãi suất/lạm phát cao?
Tương tự như vậy cho cả nền kinh tế, một khi GDP được thống kê và báo cáo là đã tăng trưởng dương x%, y% thì có nghĩa là nền kinh tế đã tạo ra giá trị thặng dư thừa đủ trả nợ lãi vay và nợ gốc đến kỳ thanh toán và đồng thời vẫn tiếp tục tăng trưởng thêm x%, y%. Và cũng giống như đã nói ở trên, thử hỏi nếu Việt Nam không trả được lãi vay và nợ gốc hàng năm, liệu chúng ta có yên ổn được như bây giờ, hay động một chút là chủ nợ kiện cáo, còn các hãng xếp hạng tín nhiệm như Moody’s lại “lăm le” hạ hạng tín nhiệm?
Thứ sáu, lại nói về trường hợp Cocobay, các tác giả đã suy diễn quá xa, từ việc nó không thực hiện được cam kết (do “trót” cam kết tỷ suất lợi nhuận cao, 12%) thành ra nguy cơ mất thanh khoản cho ngân hàng rồi lan ra cả hệ thống. Chỉ khi nào các tác giả chứng minh được bằng số liệu xác tín rằng có hàng loạt trường hợp như Cocobay, không chỉ không thực hiện được cam kết phân chia lợi nhuận cao mà còn đang đứng trước nguy cơ không trả được nợ cho ngân hàng, với quy mô cộng dồn lên đến, chẳng hạn, 5-10% tổng tài sản của một số ngân hàng lớn trong hệ thống... thì lúc đó các tác giả hãy gióng lên hồi chuông cảnh báo về một cuộc khủng hoảng nợ đang/sẽ diễn ra.
Cuối cùng, về cảnh báo của các tác giả rằng tiếp tục tăng lãi suất khi nền kinh tế vay nợ nhiều sẽ có thể gây sụp đổ hệ thống,. Xin lưu ý trước hết rằng Chính phủ/Thủ tướng không phải là không nhận ra tác hại của việc để lãi suất cao, nên luôn yêu cầu SBV giảm lãi suất từ nhiều năm nay. Vì vậy, trừ khi có dấu hiệu rõ ràng Chính phủ đang làm ngược lại thì việc các tác giả cảnh báo Chính phủ chuyện tăng lãi suất chỉ là nói... vớt!
Quan trọng hơn, việc giảm lãi suất nhiều khi không hoàn toàn đơn giản, nói xong là làm được ngay, bởi việc hạ hay tăng lãi suất luôn phải đi kèm với những đánh đổi khác mà các tác giả chắc đã biết rõ. Bởi vậy, cho dù hiện nay Chính phủ và SBV đều rất nôn nóng hạ lãi suất nhưng lãi suất chưa hoặc chỉ mới giảm một chút là có nguyên nhân của nó. Nên thiết nghĩ hãy tập trung vào phân tích nguyên nhân này và đưa ra các giải pháp để hạ được lãi suất bằng các biện pháp mang tính kinh tế (chứ không phải hành chính) với cái giá phải trả/đánh đổi tối thiểu thì có lẽ sẽ có ý nghĩa thiết thực hơn là chỉ nói chung chung rằng lãi suất cao (quá) đang gây hại cho nền kinh tế vốn vay nợ nhiều nên hãy hạ nó xuống đi!

Saturday 11 January 2020

Hiện thực hóa những “giải pháp của giải pháp” để phát triển bền vững (Bài đăng trên TBKTSG, 11/1/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/299159/hien-thuc-hoa-nhung-giai-phap-cua-giai-phap-de-phat-trien-ben-vung-.html

Việt Nam đã trải qua năm 2019 với những kết quả khả quan, vượt dự tính được công bố trên nhiều mặt về phát triển kinh tế, dù rằng trước đó đã có nhiều bất an được gieo rắc chủ yếu bởi những yếu tố bất ổn trên thế giới, từ thương chiến Mỹ-Trung đến Brexit rồi căng thẳng địa chính trị giữa một số quốc gia, khu vực...

Ngoảnh lại nhìn những nguyên nhân giúp Việt Nam an toàn vượt qua những biến cố thì ngoài những nỗ lực nội tại của các chủ thể kinh tế, của Chính phủ, nếu có, như nói thêm ở dưới đây, còn có thể thấy sự đóng góp đáng kể của yếu tố “địa lợi”. Nhờ là một láng giềng cạnh Trung Quốc và nằm trong khu vực năng động của thế giới nhưng chủ yếu là có những yếu tố thỏa mãn được nhà đầu tư nước ngoài, một phần đáng kể trong đó đến từ các nước có bất đồng/xung đột thương mại với Mỹ như Trung Quốc hoặc với nhau như Nhật, Hàn Quốc nên Việt Nam đã và đang đóng vai trò hoặc như địa điểm sản xuất, chế tạo thay thế cho những nước này, hoặc đơn giản chỉ là trạm trung chuyển để xóa nguồn gốc xuất xứ nhằm lách thuế nhập khẩu khi xuất đi Mỹ và các nước khác có bất đồng thương mại với các nước bản quốc.

Cần lưu ý rằng không chỉ vai trò của Việt Nam là địa điểm sản xuất thay thế nói trên đã đóng góp cho tăng trưởng kinh tế quốc dân mà ngay cả việc là trạm trung chuyển cũng ít nhiều có đóng góp về mặt này dưới dạng như thuế các loại liên quan gồm thuế nhập khẩu (thuế là một cấu thành của GDP) cũng như thu nhập tăng thêm cho những ngành dịch vụ liên đới như logistics.

Do những xung đột, bất đồng thương mại sớm muộn gì cũng sẽ được giải quyết bằng những phương pháp “cứng” hay “mềm” từ các bên liên quan nên có thể nhận định rằng những lợi thế “địa lợi”, vai trò của Việt Nam hiện nay chắc chắn sẽ sớm mai một đi, đưa Việt Nam trở về đúng vị trí của mình trong chuỗi sản xuất toàn cầu được xác lập như trước đây dựa trên những lợi thế hữu hạn (và đang suy giảm như lao động dồi dào, giá rẻ). Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam do đó cũng sẽ suy giảm đi nếu không có những chuyển biến gì khác trong nội tại nền kinh tế, xã hội. Thách thức nhãn tiền này đặt ra vấn đề tăng trưởng bền vững cho Việt Nam trong những năm tới khi các yếu tố thuận lợi đến từ bên ngoài mất đi, còn các yếu tố nội lực thì chưa cho thấy những cải thiện đáng kể và được duy trì trong tương lai.

Phân tích sâu hơn những yếu tố nội tại, điều đáng lo là dường như chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc xác định được nguyên nhân cản trở, hạn chế sự tăng trưởng và phát triển bền vững, còn những giải pháp tháo gỡ, khắc phục thì vẫn chủ yếu chỉ dừng lại ở giải pháp mà chưa được hiện thực hóa một cách thực chất và đáng kể. Đáng lo nữa là tình trạng tồn tại khoảng cách lớn giữa nói và làm đã tồn tại từ nhiều năm nay với chẳng nhiều bằng chứng cho thấy đã được cải thiện.

Minh họa điển hình cho chuyện này là “vấn nạn” trì trệ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; chậm chễ trong giải ngân vốn đầu tư công; thất thoát và lãng phí đầu tư công; hay sự “lề mề”, không thực chất trong cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm biên chế, xóa giấy phép con..., là những vấn nạn đã được nói quá nhiều, bàn quá nhiều, quyết tâm với quyết liệt cũng quá nhiều mà rốt cuộc vẫn còn nguyên đó tình trạng “rùa bò”. Đây là một thực tế mà Chính phủ cũng đã phải nhiều lần thẳng thắn thừa nhận.

Như vậy, muốn đạt được sự phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới, điều cần làm là phải tìm ra và hiện thực hóa những “giải pháp của giải pháp”, tức giải pháp khai thông sự bế tắc của những giải pháp tháo gỡ nút thắt tăng trưởng đã đề ra. Do mọi vấn đề đều bắt nguồn từ con người nên giải pháp gì thì cũng phải bắt nguồn từ những cái đầu nghĩ ra và triển khai thực hiện mọi giải pháp.   

Đến đây thì lại nảy sinh ít nhất hai vấn đề khác. Thứ nhất, trong cơ chế hiện tại ở Việt Nam, nơi thai nghén ra các giải pháp thường không phải, không nhất thiết là nơi hiện thực hóa các giải pháp đó. Ngược lại, nơi hiện thực hóa các giải pháp đề ra lại thường không mấy khi thấy quyền lợi của mình trong việc thực thi các giải pháp này. Rốt cuộc thì giải pháp thì cứ được đề ra nhưng thực hiện thì theo kiểu... được chăng hay chớ, may rủi tùy tâm người thực hiện!

Vấn đề tồn tại thứ hai trong cơ chế hiện nay là sự thiếu vắng tập trung quyền lực đồng thời đi kèm với sự tập trung trách nhiệm của người đứng đầu. Trong cơ chế hiện, người có quyền ra quyết định nhưng không phải chịu trách nhiệm với những quyết định của mình bởi đã có lá bài “trách nhiệm tập thể” gánh đỡ hoặc có sự liên quan, can thiệp của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên không thể hoặc khó quy cho một cá nhân nào đó và do đó cũng khó làm triệt tiêu động lực vụ lợi, làm liều hoặc, ở thái cực ngược lại, khó buộc người đứng đầu tận tụy với chức trách của mình. Hơn nữa, cơ chế hiện tại với sự “lãnh đạo tập thể” (trong việc ra quyết định, làm/thực hiện chính sách...) đã che mờ những yếu kém, khiếm khuyết về năng lực, phẩm chất của người lãnh đạo, người đứng đầu nên càng góp phần làm trì trệ tiến trình thực hiện mọi giải pháp phát triển kinh tế, xã hội thích hợp, đúng đắn.
Nếu sự phân tích hai vấn đề như ở trên là xác đáng thì sẽ rõ hướng đi để đến đích phát triển bền vững, tuy chắc chắn sẽ cần nhiều thời gian, nỗ lực và cả sự dũng cảm của nhiều người.

Sunday 5 January 2020

So sánh lãi suất giữa các nước là vô nghĩa (Bài đăng trên TBKTSG Online, 6/1/2020, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/299073/so-sanh-lai-suat-giua-cac-nuoc-la-vo-nghia.html

Bài viết "Khi nền kinh tế làm ra trong 1 năm chưa đủ trả lãi nợ vay" của nhóm chuyên gia độc lập (“các tác giả”) trong và ngoài nước đăng trên TBKTSG số đầu năm 2020 đã vạch ra nguy cơ về cuộc đua tăng lãi suất sẽ dẫn đến khủng hoảng nợ tại Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, do bài viết có một số điểm chưa chính xác nên khó có thể dựa vào đó để đi đến kết luận như trong bài. Xin được góp ý với các tác giả về những điểm chưa chính xác này.

Trước tiên, cần nói ngay rằng việc so sánh lãi suất giữa các nước như của các tác giả là không có nhiều ý nghĩa, nhất là khi so sánh lãi suất của Việt Nam với lãi suất của một nước đã phát triển như Mỹ. Để minh họa rõ hơn, với sự khác biệt đáng kể về lãi suất của ngay cả các nền kinh tế đã phát triển như Nhật, Singapore, Mỹ, châu Âu..., là những nơi có lãi suất biến thiên trong phạm vi rộng từ mức âm, cận 0, cho đến dương đáng kể, liệu chúng ta có thể kết luận được rằng các nền kinh tế có lãi suất cao là có vấn đề với chuyện nợ nần (của doanh nghiệp)? Ngược lại, lãi suất cao ở Việt Nam không phải là ngoại lệ nếu so sánh với lãi suất của những nước đang phát triển như Ấn Độ, Indonesia.

Thứ hai, về mức lãi của ngân hàng ở Việt Nam, các tác giả lấy lãi suất cho vay cơ bản trừ đi lãi suất tiền gửi không kỳ hạn để tính ra ngân hàng có thể lãi 4,5%. Đồng thời, các tác giả cho rằng trong khi lạm phát là 1,65% thì ngân hàng lãi thật 2,8%.

Tính toán trên chưa chính xác ở chỗ khi tính mức lãi từ hoạt động cho vay của ngân hàng, người ta thường dùng hệ số NIM (Net Interest Margin), là tỷ lệ phần trăm của chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi phải trả chia cho tài sản sinh lãi của ngân hàng (= (Thu nhập lãi – Chi phí lãi)/Tài sản sinh lãi = Thu nhập lãi thuần/Tài sản sinh lãi). Bởi vậy, mức lãi của ngân hàng không được tính đơn giản như các tác giả đã nêu và không nhất thiết là 4,5%.

Ngoài ra, mức lãi của ngân hàng 4,5% (nếu có như trên) không bao giờ được trừ đi mức lạm phát để tính ra “lãi thật”. Bản thân NIM đã là “lãi thật” hiểu theo nghĩa hẹp là chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động cho vay và chi phí nguồn vốn huy động để cho vay (tính trên tài sản sinh lãi). Hoạt động của ngân hàng thương mại thông thường phần lớn là dùng uy tín, tín nhiệm của mình để huy động vốn rồi đem cho vay ngay theo kiểu “tay không bắt giặc” để kiếm chênh lệch thì đâu cần phải xét đến lạm phát như khi tính toán các chỉ số khác, ví dụ, GDP?

Cùng trên ý nghĩa này thì dù lạm phát có lên đến bao nhiêu phần trăm chăng nữa, ngân hàng khó mà lỗ nặng trong hoạt động cho vay (với giả định là ngân hàng vẫn phải xét duyệt cho vay cẩn thận, không làm tăng thêm nợ xấu), trái với kết luận của các tác giả rằng do chạy đua lãi suất, đẩy lãi suất huy động lên 9% trong khi cho vay ưu đãi là 10% và lạm phát dù chỉ là 3% thì ngân hàng lỗ nặng.

Thứ ba, lý giải tại sao lãi suất ở Việt Nam cao, các tác giả viện dẫn lý thuyết của Modigliani-Miller, cho rằng lãi suất tùy thuộc chính vào mức độ rủi ro (của ngân hàng/nền kinh tế?). Tuy nhiên, đây là một diễn giải và áp dụng quá mức/không thích hợp. Bởi lý thuyết Modigliani-Miller chỉ nói rằng giá trị của một doanh nghiệp không phụ thuộc vào cấu trúc vốn của doanh nghiệp đó, bất kể doanh nghiệp này vay nợ nhiều hay ít hay có tỷ trọng nợ trong tổng nguồn vốn cao hay thấp. Nói cách khác, giá trị của một doanh nghiệp có vay nợ là bằng với giá trị của doanh nghiệp không có vay nợ, nếu lợi nhuận hoạt động và triển vọng của doanh nghiệp là như nhau. (1) Như vậy, thậm chí nếu áp dụng lý thuyết này vào chuyện nợ nần của nền kinh tế Việt Nam thì có thể nói ngược lại với kết luận của các tác giả rằng dù nền kinh tế Việt Nam đang có tỷ lệ nợ/GDP cao (và/hoặc đang tăng lên) nhưng “giá trị” của nền kinh tế Việt Nam không nhất thiết vì thế mà bị ảnh hưởng tiêu cực, hay rủi ro của nền kinh tế Việt Nam không nhất thiết vì thế mà (đang tăng) cao.

Thứ tư, việc Moody’s hạ triển vọng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam gần đây (chứ không phải là hạ xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam như các tác giả nói) không liên quan gì đến những rủi ro/bất cập mà các tác giả nêu gồm khả năng cho vay bị hạn chế (nhất là cho vay bất động sản) kèm với việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng tỷ lệ trích lập phòng ngừa rủi ro cho vay bất động sản làm tái hiện cơn sụt giá bất động sản như các năm 2009-2012. Ngoài ra, các tác giả đã không chính xác vì thị trường bất động sản hiện nay đang không hề có “cơn sụt giá” nào cả, nếu không muốn nói là ngược lại.

Thứ năm, không rõ các tác giả lấy nguồn ở đâu, nhưng cứ cho là nợ của khu vực phi tài chính là 13,8 triệu tỷ đồng, và bằng 276% GDP. Dù có tỷ lệ đòn bảy cao như vậy nhưng không thể vì thế mà kết luận rằng GDP tăng 7% trong khi trả lãi 9% (bằng lãi suất danh nghĩa 12% trừ lạm phát 3%) có nghĩa là GDP làm ra một năm không đủ để trả lãi nợ.

Lập luận trên sai vì GDP có thể hiểu là thu nhập thuần cuối cùng của nền kinh tế, sau khi đã trừ đi những chi phí đầu vào, gồm tiền trả nợ lãi và gốc. Bởi vậy, GDP tăng lên 7% thì có nghĩa là quy mô nền kinh tế đã tăng ròng thêm 7% bất kể trả nợ và lãi vay tăng lên bao nhiêu phần trăm. Thêm một điểm bất hợp lý nữa là không thể so sánh mức trả lãi thuần (chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và lạm phát, như cách tính của các tác giả) với GDP, tương tự như không thể so sánh chi phí vay với lợi nhuận của doanh nghiệp.   

Các tác giả còn có một số điểm chưa chính xác khác như cho rằng NHNN chịu trách nhiệm (quản lý) nợ doanh nghiệp nói chung, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, theo Luật quản lý nợ công; hay chuyện Cocobay không trả được lãi theo cam kết là 12% là cảnh báo ban đầu cho sự phá sản của doanh nghiệp. (Thực ra việc không trả được lãi này nên hiểu chủ yếu là hiện tượng riêng lẻ, là kết quả/hậu quả marketing của doanh nghiệp mà thôi).

(1) https://efinancemanagement.com/financial-leverage/capital-structure-theory-modigliani-and-miller-mm-approach

Kinh tế thế giới năm 2020: Tăng trưởng khá hơn nhưng rủi ro hơn (Bài đăng trên TBKTSG, 1/6/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/298889/kinh-te-the-gioi-nam-2020-tang-truong-kha-hon-nhung-rui-ro-hon-.html

Thời điểm cuối năm cũng là thời điểm các tổ chức kinh tế trên thế giới đưa ra những nhận định, đánh giá, dự báo hoặc cập nhật mới nhất về nền kinh tế thế giới năm sau. Điểm chung trong nhận định của các tổ chức này là tăng trưởng kinh tế năm sau sẽ khả quan hơn năm 2019 nhưng song hành với đó là sự leo thang của các rủi ro mà nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt, nếu không xử lý ổn thỏa thì không có gì đảm bảo cho sự khả quan hơn này.

Chính sách tiền tệ là vị cứu tinh

Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang kích hoạt các rào cản thương mại, gia tăng căng thẳng địa chính trị, các yếu tố tiêu cực cục bộ ở một số nước đang phát triển, và những yếu tố mang tính cơ cấu ở các nước phát triển như tăng trưởng năng suất yếu, dân số già hóa..., tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tụt giảm xuống quanh quẩn 3% trong năm 2019, là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tăng trưởng yếu này chủ yếu là kết quả của sự tụt giảm mạnh trong tăng trưởng của ngành chế tạo và thương mại toàn cầu khi thuế suất nhập khẩu tăng cao và những bất trắc thương mại kéo dài đã tác động mạnh đến đầu tư và nhu cầu hàng hóa tư bản (thiết bị, máy móc).

Chính sách tiền tệ đã đóng vai trò quan trọng hỗ trợ tăng trưởng trong năm 2019. Với áp lực lạm phát thấp trong khi các hoạt động kinh tế suy yếu, các ngân hàng trung ương chủ chốt trên thế giới đã nới lỏng chính sách tiền tệ một cách thích hợp để vực lại tăng trưởng và ngăn chặn sự hình thành tâm lý rằng lạm phát sẽ tiếp tục ở mức thấp trong tương lai tác động tiêu cực đến tăng trưởng chi tiêu. IMF ước tính rằng nếu không có chính sách tiền tệ nới lỏng hậu thuẫn thì tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm đi 0,5 điểm phần trăm trong năm 2019 và 2020.

Phục hồi tăng trưởng chủ yếu ở các nước đang phát triển, mới nổi

Tăng trưởng trong năm 2020 được dự đoán khả quan hơn năm 2019 (theo IMF thì khoảng 3,4% cho năm 2020 so với 3% năm 2019; các tổ chức khác thì có xu hướng dự báo thấp hơn cho cả 2019 và 2020). Sự cải thiện tăng trưởng này chủ yếu đến từ khu vực các nền kinh tế mới nổi và đang tăng trưởng, là khu vực được IMF dự báo đạt tốc độ tăng trưởng 4,6% trong năm 2020 (so với mức thực tế 4,5% năm 2018 và mức dự báo 3,9% năm 2019).

Khoảng một nửa trong mức tăng trưởng 4,6% này sẽ được đóng góp từ sự phục hồi hay bị suy thoái nhẹ hơn so với năm 2019 tại các nền kinh tế chịu nhiều áp lực, bất ổn như Argentina, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Phần còn lại là kết quả sự hồi phục tại các nước có tăng trưởng tụt giảm mạnh trong năm 2019 so với 2018 như Brazil, Ấn Độ, Mexico, Nga, và Saudi Arabia. Tuy vậy, cần lưu ý rằng sự phục hồi này còn nhiều bất trắc bởi sự phụ thuộc của chúng vào tăng trưởng kinh tế ở các nước lớn như Mỹ, Nhật và Trung Quốc là những nước được dự đoán sẽ tăng trưởng chậm hơn trong năm 2020 so với 2019.

Trong khi đó, tăng trưởng ở khu vực các nước phát triển được dự đoán sẽ “dậm chân tại chỗ”, với mức tăng đạt 1,7% năm 2020, không đổi so với 2019 (2,3% năm 2018). Điều kiện thuận lợi trên thị trường lao động kết hợp với các gói kích thích kinh tế đã và sẽ giúp bù trừ tác động tiêu cực đến từ nhu cầu yếu hơn từ bên ngoài cho hàng hóa và dịch vụ của những nước này.

Rủi ro đang tăng lên

Độ chính xác của những dự đoán tăng trưởng cho năm 2020 như trên phụ thuộc vào diễn biến sẽ xảy ra trên thực tế của những yếu tố như căng thẳng thương mại và địa chính trị leo thang, gồm những rủi ro liên quan đến Brexit. Những yếu tố này sẽ có khả năng gây ra một sự đổ vỡ niềm tin, gián đoạn luồng chảy tài chính và đảo chiều dòng vốn ở các nền kinh tế đang phát triển. Ở các nước phát triển, lạm phát thấp có thể trở nên khó trị, thu hẹp hơn nữa dư địa của chính sách tiền tệ nới lỏng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Các nước cần làm gì?

Để vực lại tăng trưởng, điều kiện tiên quyết là các nước phải cùng nhau rỡ bỏ các rào cản thương mại dựng lên trong thời gian qua trong những thỏa thuận mang tính bền vững hơn, đồng thời kiềm chế các căng thẳng địa chính trị. Ở trong nước, các chính phủ phải giảm thiểu các bất trắc chính sách. Những hành động riêng và chung này sẽ kích thích khôi phục lòng tin, phục hồi tiêu dùng, đầu tư, thương mại và sản xuất. Trên cái nghĩa này, có thể nói không quá lời rằng kết cục của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đóng vai trò quyết định đến triển vọng hồi phục tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 và cả những năm sau đó.

Về phía mình, chính phủ các nước cần có các chính sách mang tính thăng bằng hơn mà không quá dựa vào chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, ở những nước mà chính sách tài khóa vẫn còn dự địa và chưa rơi vào trạng thái nới lỏng quá mức như Đức và Hà Lan thì chi tiêu và đầu tư của chính phủ cho hạ tầng và xã hội cần được đẩy mạnh. Ở những nước khác và nói chung, cần thi hành các cải cách cơ cấu để cải thiện năng suất, tăng cường sức đề kháng và thu hẹp khoảng cách thu nhập. Riêng với các nước đang phát triển thì (cải thiện) sự vận hành hữu hiệu của chính phủ cũng sẽ giúp ích nhiều cho các cuộc cải cách này.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).