Sunday 5 January 2020

Kinh tế thế giới năm 2020: Tăng trưởng khá hơn nhưng rủi ro hơn (Bài đăng trên TBKTSG, 1/6/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/298889/kinh-te-the-gioi-nam-2020-tang-truong-kha-hon-nhung-rui-ro-hon-.html

Thời điểm cuối năm cũng là thời điểm các tổ chức kinh tế trên thế giới đưa ra những nhận định, đánh giá, dự báo hoặc cập nhật mới nhất về nền kinh tế thế giới năm sau. Điểm chung trong nhận định của các tổ chức này là tăng trưởng kinh tế năm sau sẽ khả quan hơn năm 2019 nhưng song hành với đó là sự leo thang của các rủi ro mà nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt, nếu không xử lý ổn thỏa thì không có gì đảm bảo cho sự khả quan hơn này.

Chính sách tiền tệ là vị cứu tinh

Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang kích hoạt các rào cản thương mại, gia tăng căng thẳng địa chính trị, các yếu tố tiêu cực cục bộ ở một số nước đang phát triển, và những yếu tố mang tính cơ cấu ở các nước phát triển như tăng trưởng năng suất yếu, dân số già hóa..., tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tụt giảm xuống quanh quẩn 3% trong năm 2019, là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tăng trưởng yếu này chủ yếu là kết quả của sự tụt giảm mạnh trong tăng trưởng của ngành chế tạo và thương mại toàn cầu khi thuế suất nhập khẩu tăng cao và những bất trắc thương mại kéo dài đã tác động mạnh đến đầu tư và nhu cầu hàng hóa tư bản (thiết bị, máy móc).

Chính sách tiền tệ đã đóng vai trò quan trọng hỗ trợ tăng trưởng trong năm 2019. Với áp lực lạm phát thấp trong khi các hoạt động kinh tế suy yếu, các ngân hàng trung ương chủ chốt trên thế giới đã nới lỏng chính sách tiền tệ một cách thích hợp để vực lại tăng trưởng và ngăn chặn sự hình thành tâm lý rằng lạm phát sẽ tiếp tục ở mức thấp trong tương lai tác động tiêu cực đến tăng trưởng chi tiêu. IMF ước tính rằng nếu không có chính sách tiền tệ nới lỏng hậu thuẫn thì tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm đi 0,5 điểm phần trăm trong năm 2019 và 2020.

Phục hồi tăng trưởng chủ yếu ở các nước đang phát triển, mới nổi

Tăng trưởng trong năm 2020 được dự đoán khả quan hơn năm 2019 (theo IMF thì khoảng 3,4% cho năm 2020 so với 3% năm 2019; các tổ chức khác thì có xu hướng dự báo thấp hơn cho cả 2019 và 2020). Sự cải thiện tăng trưởng này chủ yếu đến từ khu vực các nền kinh tế mới nổi và đang tăng trưởng, là khu vực được IMF dự báo đạt tốc độ tăng trưởng 4,6% trong năm 2020 (so với mức thực tế 4,5% năm 2018 và mức dự báo 3,9% năm 2019).

Khoảng một nửa trong mức tăng trưởng 4,6% này sẽ được đóng góp từ sự phục hồi hay bị suy thoái nhẹ hơn so với năm 2019 tại các nền kinh tế chịu nhiều áp lực, bất ổn như Argentina, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Phần còn lại là kết quả sự hồi phục tại các nước có tăng trưởng tụt giảm mạnh trong năm 2019 so với 2018 như Brazil, Ấn Độ, Mexico, Nga, và Saudi Arabia. Tuy vậy, cần lưu ý rằng sự phục hồi này còn nhiều bất trắc bởi sự phụ thuộc của chúng vào tăng trưởng kinh tế ở các nước lớn như Mỹ, Nhật và Trung Quốc là những nước được dự đoán sẽ tăng trưởng chậm hơn trong năm 2020 so với 2019.

Trong khi đó, tăng trưởng ở khu vực các nước phát triển được dự đoán sẽ “dậm chân tại chỗ”, với mức tăng đạt 1,7% năm 2020, không đổi so với 2019 (2,3% năm 2018). Điều kiện thuận lợi trên thị trường lao động kết hợp với các gói kích thích kinh tế đã và sẽ giúp bù trừ tác động tiêu cực đến từ nhu cầu yếu hơn từ bên ngoài cho hàng hóa và dịch vụ của những nước này.

Rủi ro đang tăng lên

Độ chính xác của những dự đoán tăng trưởng cho năm 2020 như trên phụ thuộc vào diễn biến sẽ xảy ra trên thực tế của những yếu tố như căng thẳng thương mại và địa chính trị leo thang, gồm những rủi ro liên quan đến Brexit. Những yếu tố này sẽ có khả năng gây ra một sự đổ vỡ niềm tin, gián đoạn luồng chảy tài chính và đảo chiều dòng vốn ở các nền kinh tế đang phát triển. Ở các nước phát triển, lạm phát thấp có thể trở nên khó trị, thu hẹp hơn nữa dư địa của chính sách tiền tệ nới lỏng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Các nước cần làm gì?

Để vực lại tăng trưởng, điều kiện tiên quyết là các nước phải cùng nhau rỡ bỏ các rào cản thương mại dựng lên trong thời gian qua trong những thỏa thuận mang tính bền vững hơn, đồng thời kiềm chế các căng thẳng địa chính trị. Ở trong nước, các chính phủ phải giảm thiểu các bất trắc chính sách. Những hành động riêng và chung này sẽ kích thích khôi phục lòng tin, phục hồi tiêu dùng, đầu tư, thương mại và sản xuất. Trên cái nghĩa này, có thể nói không quá lời rằng kết cục của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đóng vai trò quyết định đến triển vọng hồi phục tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 và cả những năm sau đó.

Về phía mình, chính phủ các nước cần có các chính sách mang tính thăng bằng hơn mà không quá dựa vào chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, ở những nước mà chính sách tài khóa vẫn còn dự địa và chưa rơi vào trạng thái nới lỏng quá mức như Đức và Hà Lan thì chi tiêu và đầu tư của chính phủ cho hạ tầng và xã hội cần được đẩy mạnh. Ở những nước khác và nói chung, cần thi hành các cải cách cơ cấu để cải thiện năng suất, tăng cường sức đề kháng và thu hẹp khoảng cách thu nhập. Riêng với các nước đang phát triển thì (cải thiện) sự vận hành hữu hiệu của chính phủ cũng sẽ giúp ích nhiều cho các cuộc cải cách này.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).