Wednesday 5 February 2020

Dịch bệnh corona hoành hành, thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung liệu có suôn sẻ? (Bài đăng CafeF, Feb 5, 2020)

http://cafef.vn/dich-benh-corona-hoanh-hanh-thoa-thuan-thuong-mai-my-trung-lieu-co-suon-se-20200205153853558.chn

Mỹ và Trung Quốc đã ký thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 vào ngày 15/1 theo đó Mỹ sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu lên hàng hóa của Trung Quốc đổi lấy việc Trung Quốc cam kết mua thêm nông phẩm và hàng chế tạo của Mỹ (mua ít nhất 200 tỷ USD trong 2 năm 2020-21 từ mức 130 tỷ USD năm 20117), dịch vụ (mua thêm 37,6 tỷ USD dịch vụ từ các công ty Mỹ trong 2 năm so với mức năm 2017), năng lượng (mua thêm ít nhất 52,4 tỷ USD năng lượng trong 2 năm từ mức 9,1 tỷ USD năm 2017)

Trung Quốc cũng cam kết xử lý các khiếu nại của Mỹ về vấn đề bản quyền sở hữu trí tuệ. Trung Quốc sẽ bảo vệ về pháp lý mạnh hơn đối với các sáng chế độc quyền, thương hiệu, bản quyền thông qua các biện pháp hình sự và dân sự để chống lại nạn vi phạm bản quyền online và hàng nhái, hàng giả. Đồng thời, Trung Quốc cam kết thực hiện đúng thỏa thuận trước đây về xóa bỏ mọi áp lực buộc các doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Trung Quốc để được tiếp cận thị trường, cấp phép hoạt động.

Đổi lại, Mỹ sẽ cắt giảm một nửa thuế nhập khẩu áp dụng vào ngày 1/9/2019 lên 110 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ xuống còn 7,5%. Mức thuế 25% đánh lên 250 tỷ USD hàng của Trung Quốc trước đó vẫn được giữ nguyên, nhưng có thể được cắt giảm như một phần thỏa thuận trong giai đoạn 2.

Thuế dự định có hiệu lực ngày 15/12/2019 đánh lên 160 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc gồm điện thoại di động, máy tính xách tay, đồ chơi và quần áo... sẽ được đình hoãn vô thời hạn. Thuế trả đũa của Trung Quốc gồm 25% đánh lên ô tô Mỹ cũng sẽ được đình hoãn.

Về thực thi, Mỹ và Trung Quốc sẽ giải quyết mọi bất đồng liên quan đến thực thi thỏa thuận bằng thương lượng, bắt đầu từ nhóm làm việc rồi lên đến cấp cao nhất. Nếu thương lượng trên-cơ-sở-thành-ý không giải quyết được bất đồng thì sẽ kích hoạt quá trình áp thuế hay các trừng phạt khác. 

Một trong những tác động nhanh và mạnh rõ nét nhất của thỏa thuận được nhìn nhận là nó làm xì hơi căng thẳng tranh chấp thương mại giữa hai nước mà hậu quả là làm chậm lại tăng trưởng toàn cầu, làm tổn thương các nhà chế tạo Mỹ, đồng thời gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế Trung Quốc.

Với thuế áp lên 360 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc vẫn được duy trì, Mỹ coi đây là công cụ để tiếp tục đạt được thỏa thuận với Trung Quốc trong tương lai về các đòi hỏi Trung Quốc phải thay đổi mà Mỹ đã đặt ra. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát hoài nghi Mỹ sẽ đạt được những nhân nhượng mới từ Trung Quốc trước cuộc bầu cử tổng thống diễn ra tháng 11 năm nay. Như vậy, thương lượng cho giai đoạn 2 chỉ có thể diễn ra vào năm 2021.

Trong khi đó, với thuế vẫn áp lên 360 tỷ USD hàng Trung Quốc, người tiêu dùng và nhà sản xuất của cả 2 nước vẫn đang phải gánh chịu hậu quả của thương chiến cho một thời gian không thể xác định tại thời điểm hiện tại. Điều này có nghĩa là kinh tế thế giới và khu vực vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng tiêu cực, dù ở mức độ nhỏ hơn, chừng nào hai bên chưa bắt đầu thương lượng giai đoạn 2 và chưa đạt được thỏa thuận. Liên quan đến thực tế này, có thể nói Việt Nam tiếp tục ở trong tình trạng “ngư ông đắc lợi” như đã được chứng kiến qua sự bùng nổ về FDI vào Việt Nam và xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 2 năm qua, tuy tình trạng này có lẽ không kéo dài quá năm 2021 khi thương chiến Mỹ-Trung sẽ (phải) đi vào hồi kết.

Ngoài ra, cần lưu ý rằng thỏa thuận giai đoạn 1 không có cơ chế phân định độc lập nên rất dễ dẫn đến việc Mỹ áp thuế trở lại với cáo buộc Trung Quốc không (thành tâm) tuân thủ các cam kết của mình (ví dụ như chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Trung Quốc và bảo vệ sở hữu trí tuệ) như đã từng xảy ra nhiều lần với nhiều hình thức tinh vi. Nếu Trung Quốc không đồng ý với việc áp thuế trừng phạt này của Mỹ thì chỉ còn một lối thoát là phá bỏ thỏa thuận song phương này, đồng nghĩa với thương chiến lại tiếp tục được đun nóng trở lại. Vì vậy, tác động có thể có của thỏa thuận này lên Việt Nam nói riêng và các nước thứ ba nói chung trong khu vực vẫn bỏ ngỏ, tùy thuộc vào triển vọng tồn tại của bản thân thỏa thuận này. Thành thật mà nói thì triển vọng này khá mong manh.  

Tình hình thực tế đã diễn biến ngoài dự đoán của tất cả các bên khi bệnh dịch cúm do virus corona gây ra bùng phát ở Trung Quốc và đã lan ra thế giới. Giới quan sát đang đặt câu hỏi, phải chăng nạn nhân tiếp theo của virus corona chính là thỏa thuận thương mại Mỹ-Trung?

Bloomberg gần đây đưa tin Trung Quốc đang kỳ vọng Mỹ sẽ đồng ý với một sự “linh động” đối với những cam kết của Trung Quốc trong thỏa thuận giai đoạn 1, với lý do Trung Quốc đang bận tâm và dành ưu tiên cho việc kiềm chế virus corona và những hậu quả trực tiếp và nhãn tiền lên nền kinh tế nội địa của Trung Quốc. Cũng theo Bloomberg, trong thỏa thuận có điều khoản rằng hai nước sẽ tham khảo nhau trong trường hợp “thảm họa thiên nhiên hay các sự kiện không lường trước được”.

Trên hết, với tư cách là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, Trung Quốc có lý do hết sức thuyết phục để nói rằng họ cần phải bảo vệ nền kinh tế của mình (và, do đó, không thực thi đầy đủ cam kết trong thỏa thuận) để không lôi kéo theo sự suy thoái kinh tế trong khu vực và toàn cầu.

Thỏa thuận giai đoạn 1 và (những) giai đoạn sau đó còn gây ra những hệ lụy không lường trước, bắt nguồn từ nỗi ám ảnh vô cớ của Trump với thâm hụt thương mại của Mỹ. Hiện Mỹ có thâm hụt thương mại với trên 100 nước và Trung Quốc chiếm phần lớn trong thâm hụt này. Thỏa thuận mới đây buộc Trung Quốc phải mua thêm hàng hóa từ Mỹ như đã nói ở trên. Để thực hiện việc mua này, Trung Quốc sẽ phải dựa chủ yếu vào doanh nghiệp nhà nước. Đây là một hành vi vi phạm nguyên tắc thương mại được chấp nhận toàn cầu, theo đó xuất khẩu và nhập khẩu phải được tiến hành bởi doanh nghiệp và người tiêu dùng chủ yếu trên cơ sở thị trường.

Đồng thời, nếu tuân thủ theo thỏa thuận với Mỹ thì Trung Quốc lại vi phạm các thỏa thuận thương mại song phương và đa phương khác. Cụ thể, để mua thêm nông sản từ Mỹ thì Trung Quốc sẽ phải cắt giảm mua nông sản từ các đối tác khác như Brazil. Những hành vi thương mại cố ý như vậy sẽ bóp méo thị trường quốc tế, một mặt tuy làm giảm thâm hụt thương mại của Mỹ nhưng lại làm tăng thâm hụt thương mại của các nước đối tác khác. Sự chuyển hướng thương mại một cách cố ý này là trái với chỉ dẫn của WTO mà cuối cùng sẽ làm nổ ra các vụ kiện cáo, tranh chấp mới có khả năng dẫn đến sự đổ bể của thỏa thuận giai đoạn 1 này. Lúc đó, nếu Trump vẫn tại vị (trúng cử nhiệm kỳ 2) thì có lẽ ông ta buộc phải thay đổi chiến lược của mình với Trung Quốc, hoặc đơn giản là không còn thấy cần phải sử dụng con bài thương chiến với Trung Quốc (và các nước khác) để tạo thành tích cho mình nữa.

Nhưng dù khả năng nào xảy ra chăng nữa đối với thỏa thuận Mỹ-Trung giai đoạn 1, Việt Nam luôn ở tư thế hoặc có lợi hơn hoặc không tổn hại gì thêm đáng kể so với giai đoạn trước thương chiến, nếu các yếu tố khác không thay đổi.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).