Tuesday 4 February 2020

Tiết kiệm đi vào sản xuất thì không còn được gọi là tiết kiệm (Bài đăng trên TBKTSG, 3/2/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/td/299409/tiet-kiem-di-vao-san-xuat-thi-khong-con-duoc-goi-la-tiet-kiem.html

TBKTSG số 2-2020 có bài viết “Tiết kiệm nhiều, nhưng tiền không ra được khỏi “tủ”!”, theo đó tác giả chỉ ra rằng nguồn lực của nền kinh tế Việt Nam khá mạnh với lượng tiết kiệm nhiều: Tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế trong GDP chiếm tỷ trọng cao hơn đầu tư thực hiện trong GDP. Tuy nhiên, khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư ngày càng bị thu hẹp: Năm 2013 tỷ lệ tiết kiệm so với GDP là 41% trong khi đầu tư so với GDP là 31%, khoảng cách giữa hai tỷ lệ này chênh nhau 10 điểm phần trăm; đến năm 2018 tỷ lệ tiết kiệm so với GDP giảm xuống 36%, trong khi tỷ lệ đầu tư so với GDP tăng lên 33%. Một nghịch lý là nền kinh tế vẫn vay quá nhiều, với tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của cả nền kinh tế tăng từ mức 2,1 lần bình quân giai đoạn 2011-2016 lên 2,5 lần năm 2017...

Do vậy, tác giả kết luận rằng tuy tiết kiệm nhiều nhưng nguồn tiết kiệm này không được chuyển hóa hết vào đầu tư mà còn nằm ở dạng “tiền tệ”. Tác giả lý giải nút thắt của tình trạng này là do “trên nóng dưới lạnh” – trên muốn kiến tạo nhưng ở phía dưới nạn tham nhũng vặt vẫn hoành hành ngày càng công khai.

Trong bài này, trước hết xin bàn về điều “bất thường”, nếu có (hiểu theo ý của tác giả) rằng chênh lệch giữa tiết kiệm/GDP và đầu tư/GDP ngày càng thu hẹp.

Theo lý thuyết, nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng lên (thể hiện qua tỷ lệ đầu tư/GDP tăng lên) chỉ có thể đến từ khoản tiết kiệm trong nước và ngoài nước, dưới dạng vốn chủ sở hữu có được từ tích lũy thặng dư (tức tiết kiệm) trong quá trình sản xuất, kinh doanh và/hoặc vốn vay trong nước và ngoài nước – huy động từ khoản tiết kiệm của người khác trong nước và ngoài nước.

Hiện tượng mà tác giả quan sát thấy rằng chênh lệch tiết kiệm và đầu tư đang giảm đi ở Việt Nam là một diễn biến theo đúng lý thuyết này, theo đó nền kinh tế đang ngày càng huy động một lượng vốn tiết kiệm (trong nước) nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu đầu tư đang ngày càng tăng lên, dẫn đến làm giảm lượng tiết kiệm. Như vậy, không có gì là bất thường ở đây cả.

Điều góp ý thứ hai với tác giả là về “nghịch lý” nền kinh tế vay nợ quá nhiều, với tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu đang tăng lên (trong bối cảnh nền kinh tế đang “dư thừa” vốn, như được thể hiện bằng tỷ lệ tiết kiệm/GDP cao hơn đầu tư/GDP?).

Cần lưu ý là, song hành với sự gia tăng của tỷ lệ vay nợ/vốn chủ sở hữu là sự sụt giảm tỷ lệ tiết kiệm/GDP, như tác giả đã chỉ ra. Điều này có nghĩa là mọi việc vẫn đang diễn ra theo đúng quỹ đạo tự nhiên, cần có: Gia tăng nhu cầu đầu tư à gia tăng nhu cầu vốn đầu tư à gia tăng vay mượn + gia tăng sử dụng vốn tự có/chủ sở hữu (có nguồn gốc từ thặng dư, tiết kiệm). Như vậy, ở đây chẳng có “nghịch lý” nào cả. Nếu có chăng, chỉ là tại sao dù tiết kiệm nhiều hơn đầu tư mà nền kinh tế không sử dụng hết lượng tiết kiệm này để đầu tư mà lại phải đi vay?

Để lý giải “nghịch lý” này, hãy nhìn nhận vấn đề ở cấp độ doanh nghiệp. Chúng ta đã biết đến một hiện tượng là nhiều doanh nghiệp “thích” đi vay hơn là dùng/huy động vốn tự có, vốn chủ sở hữu để đầu tư. Cũng có rất nhiều doanh nghiệp có khoản tiền gửi ngân hàng rất lớn nhưng vẫn đi vay để đầu tư. Nguyên nhân có thể là do vay nợ dễ hơn, rẻ hơn là vốn chủ sở hữu phải bỏ ra (hãy liên hệ với trường hợp nhiều ngân hàng thương mại hiện muốn tăng vốn chủ sở hữu nhưng các cổ đông hiện hữu không thông qua, buộc ngân hàng phải đi huy động qua những kênh khác), hay liên quan đến cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp (được khấu trừ chi phí vay vốn)... Ngoài ra, tiết kiệm luôn cần được duy trì ở một mức độ nào đó với ý nghĩa “tích cốc phòng cơ”, coi như đệm đỡ những cú sốc trong tương lai. Như vậy, có thể nói khoản tiết kiệm không nhất thiết cần được đem ra sử dụng hết vào đầu tư, và vay nợ tăng lên không nhất thiết là một điều tiêu cực.

Điểm góp ý thứ ba là kết luận của tác giả rằng tiết kiệm tuy nhiều nhưng không được chuyển hóa hết vào đầu tư, “đi vào sản xuất”, mà còn nằm ở dưới dạng “tiền tệ”.

Nếu đã gọi là tiết kiệm, thì nó có thể hoàn toàn nằm ở dưới dạng “tiền tệ”, chẳng hạn tiền gửi tiết kiệm trong ngân hàng của người dân từ nguồn tiền nhàn rỗi. Hơn thế, tuy có nguồn gốc từ tiền nhàn rỗi, là “tiền tệ”, nhưng khoản tiết kiệm này vẫn “đi vào sản xuất”, vẫn chuyển hóa thành đầu tư thông qua hoạt động cho vay lại của ngân hàng từ khoản tiền gửi này cho các doanh nghiệp để sản xuất, kinh doanh. Như vậy, tác giả không thể dựa vào con số tỷ lệ tiết kiệm/GDP lớn hơn đầu tư/GDP để kết luận rằng tiền (tiết kiệm) đang dư thừa, không được biến thành đầu tư, đi vào sản xuất.

Và cũng như đã nói ở trên, vốn đầu tư không nhất thiết phải đến hoàn toàn từ vốn tự có/chủ sở hữu mà có một phần là đi vay. Đồng thời, trong nền kinh tế luôn cần phải có/duy trì một mức độ tiết kiệm nào đó để phòng ngừa rủi ro. Bởi vậy, dù tỷ lệ tiết kiệm/GDP lớn hơn đầu tư/GDP thì cũng chưa nói lên được điều gì tiêu cực cả. Và chắc chắn rằng nếu khảo sát các nước khác tác giả cũng sẽ thấy nhiều nước có tỷ lệ tiết kiệm/GDP lớn hơn đầu tư/GDP.

Cuối  cùng, tác giả nêu nguyên nhân làm tỷ lệ tiết kiệm/GDP nhỏ đi là do việc chi trả sở hữu ngày càng lớn khiến kiều hối không thể bù đắp nổi. Lưu ý rằng, như tác giả chỉ ra, tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập quốc gia khả dụng sau khi trừ đi tiêu dùng cuối cùng của dân cư và chi tiêu thường xuyên của Chính phủ. Như vậy, tiết kiệm/GDP nhỏ đi có thể còn do chi tiêu dân cư và/hoặc tiêu dùng thường xuyên của Chính phủ tăng lên, chứ không nhất thiết là do chi trả sở hữu hay kiều hối như tác giả kết luận một cách khá khiên cưỡng.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).