Monday 23 March 2020

Công cụ chính sách tiền tệ vẫn cần thiết trong đại dịch (Bài đăng trên TBKTSG, 23/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/301211/cong-cu-chinh-sach-tien-te-van-can-thiet-trong-dai-dich.html

Dịch Covid-19 đã trở thành đại dịch, gây tác động lớn tới nền kinh tế toàn cầu. Trước đại dịch này, chính phủ nhiều nước đã thi hành hàng loạt công cụ chính sách tiền tệ, mặc dù đã có nhiều phân tích chỉ ra rằng chính sách tiền tệ (nới lỏng) không có tác dụng với nền kinh tế giữa cơn dịch bệnh hiện nay.

Các hạn chế của chính sách tiền tệ

Hạn chế đầu tiên của chính sách tiền tệ - cắt giảm lãi suất - là lãi suất ở nhiều nước, khu vực đã ở mức thấp và rất thấp, nên dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ không còn nhiều, trừ khi các nước này chấp nhận biện pháp cực đoan là thi hành lãi suất âm như ở một số nước đã thực hiện trước khi xảy ra đại dịch.

Hạn chế thứ hai của công cụ chính sách tiền tệ là “chữa không đúng bệnh”. Điều làm nhiều chính phủ và giới chuyên gia trên thế giới quan ngại là nới lỏng chính sách tiền tệ không cứu vãn được sự gián đoạn, sụp đổ các chuỗi cung ứng trên thế giới.

Do bệnh dịch lan rộng với tốc độ chóng mặt, sản xuất đột ngột bị đình đốn, nên chính sách tiền tệ dù có nới lỏng cũng không làm sản xuất phục hồi ngay được. Việc Mỹ hạ lãi suất mạnh mới đây cũng không làm nhà máy đang đóng cửa vì cách ly mở cửa trở lại. Tương tự, hạ lãi suất cũng không lôi kéo được người mua sắm trở lại các trung tâm mua sắm hay du khách quay trở lại với các hãng hàng không bởi họ quan tâm, lo ngại về lây nhiễm bệnh nhiều hơn là chi phí.

Hạn chế thứ ba của nới lỏng chính sách tiền tệ là hiệu ứng tích cực của nó sẽ thất thoát ra nước ngoài. Chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm tăng nhập khẩu, tức làm lợi cho nước ngoài. Một phần vì điều này nên nhiều nước vẫn ngần ngại nới lỏng chính sách tiền tệ.

“Không bổ chỗ nọ thì cũng bổ chỗ kia”

Tuy nhiên, không phải là ngẫu nhiên mà nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới vẫn và sẽ tiến hành nới lỏng tiền tệ, cắt giảm lãi suất. Trong bất cứ tình huống nào mà nền kinh tế đối mặt với nguy cơ khủng hoảng, đình trệ, và tiền mặt là vua, điều đáng lo trước hết là sự khô khát thanh khoản do các chủ thể kinh tế đều co cụm cố thủ, rút tiền mặt từ hệ thống ngân hàng về và/hoặc chuyển đổi tài sản ra tiền mặt để nắm giữ.

Trong những tình huống như vậy, chính sách tiền tệ nới lỏng là điều cần thiết để cung cấp thanh khoản, duy trì sự vận hành liên tục thông suốt của hệ thống tài chính, ngân hàng, tránh bị rơi vào tình trạng ngân hàng thiếu hụt thanh khoản, mất khả năng thanh toán, phải “giật gấu vá vai”, đẩy lãi suất trong hệ thống lên mức cao gây đổ vỡ hàng loạt.

Lãi suất hạ thấp còn có tác dụng quan trọng đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp này thường duy trì tiền mặt ở mức tối thiểu, ít hoặc không có các nguồn dự trữ cho các tình huống khó khăn, cấp bách. Khi cú sốc kinh tế nổ ra, dòng tiền âm và không có nguồn lực dự trữ làm cho sự tồn tại của doanh nghiệp nhỏ sẽ chỉ còn được tính theo ngày, tuần. Khi đó, chính sách tiền tệ nới lỏng, và nhất là đi kèm với các gói tín dụng ưu đãi hướng đến đối tượng doanh nghiệp nhỏ của ngân hàng trung ương sẽ là cái phao cứu sinh cho các doanh nghiệp này nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.

Một khi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương được nới lỏng thì hệ thống ngân hàng thương mại cũng được kỳ vọng sẽ tự động điều chỉnh tương ứng, nhất là khí có sự “nhắc nhở” của ngân hàng trung ương. Điển hình là ngay sau khi Ngân hàng Trung ương Anh tuyên bố cắt giảm lãi suất từ 0,75% xuống còn 0,25% hồi tuần trước, hàng loạt ngân hàng thương mại của nước này và mới đây nhất là HSBC tuyên bố cho phép hộ gia đình và doanh nghiệp Anh được chậm trả lãi cho các khoản vay bất động sản hay kinh doanh nếu có yêu cầu. (1)

Song song việc cắt giảm lãi suất, ngân hàng trung ương còn có thể hỗ trợ nền kinh tế thông qua các công cụ và quyền hạn trong tay khác. Bằng việc hạ tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc một cách chọn lọc, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích ngân hàng thương mại cho vay các đối tượng cần hỗ trợ (và với lãi suất ưu đãi). Hoặc ngân hàng trung ương hạ lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc vượt mức để khuyến khích ngân hàng thương mại sử dụng khoản tiền dư thừa này cho vay doanh nghiệp hơn là đem gửi tại ngân hàng trung ương. Đồng thời, ngân hàng trung ương có thể cho vay tái cấp vốn ngân hàng thương mại với lãi suất ưu đãi để/với điều kiện là chúng tiếp tục cho vay khu vực doanh nghiệp ưu tiên, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Một giải pháp phi lãi suất khác mà ngân hàng trung ương có thể sử dụng khi cần là cắt giảm tỷ lệ vốn dự phòng rủi ro dành cho các cú sốc kinh tế để giải phóng một nguồn vốn cần thiết cho ngân hàng thương mại cho vay ra nền kinh tế. Tỷ lệ này ở Anh là 1% trước đây đã được giảm xuống 0% trong tuần trước.

Cuối cùng, ngân hàng  trung ương và bộ tài chính còn có thể dùng quyền của mình để yêu cầu các tổ chức tài chính, ngân hàng không được tăng mức chia cổ tức và các đãi ngộ, chi trả khác cho cổ đông và nhân viên ngân hàng như tăng chi thưởng... nhằm hỗ trợ tối đa khách hàng vay vốn – đối tượng cần hỗ trợ, chứ không phải là cổ đông ngân hàng.

Áp dụng ở Việt Nam  

Trái ngược với thế giới, ở góc độ hạ lãi suất, Việt Nam còn nhiều dư địa, bởi lãi suất cơ bản/điều hành vẫn còn cao đáng kể so với thế giới. Đợt điều chỉnh hạ lãi suất chiều muộn ngày 16/3/2020 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới chỉ thu hẹp một phần chênh lệch lãi suất này giữa Việt Nam và thế giới (ví dụ, lãi suất tái cấp vốn được hạ từ 6%/năm xuống 5%/năm).

Và điều cũng có vẻ như trái ngược với thế giới là thanh khoản trong hệ thống của Việt Nam vẫn tỏ ra dồi dào, mà bằng chứng là lãi suất liên ngân hàng không tăng, thậm chí có xu hướng hạ, và NHNN phải tăng cường phát hành tín phiếu để thu hồi tiền. Trong bối cảnh này thì không khó hiểu khi có nhiều người cho rằng Việt Nam không cần hạ lãi suất.

Dẫu vậy, tuy thanh khoản đang dư thừa, điều cốt yếu là khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, vẫn và sẽ còn khó khăn hơn nhiều khi đại dịch đang diễn ra và kéo dài. Bởi vậy, vai trò và trách nhiệm của NHNN ở đây là phải đảm bảo khả năng tiếp cận vốn, đặc biệt của doanh nghiệp nhỏ bằng cách kiềm chế, làm giảm bớt mức rủi ro tín dụng của hệ thống để các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn tiếp tục cho vay doanh nghiệp (và với lãi suất ưu đãi, thấp hơn) để các doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch bệnh thêm cơ hội cầm cự, tiếp tục tồn tại và phục hồi.

Cuối tuần trước, NHNN cũng ban hành Thông tư 01/2020 để quy định việc TCTD hỗ trợ khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bệnh dịch, gồm giảm lãi, phí. Nhưng những biện pháp hỗ trợ này thực chất là sử dụng nguồn lực của TCTD mà không phải là từ NHNN, và do đó cũng không thể nói là một hành động nới lỏng của NHNN khi so với hành động của các gân hàng trung ương khác trên thế giới đã thực hiện. Mức chịu đựng, san sẻ của các TCTD cũng chỉ có hạn và đến một lúc nào đó thì NHNN phải thực sự “mở hầu bao” để cứu trợ lại chính các TCTD cho vay doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch. Bởi vậy, việc hạ lãi suất vào ngày 16/3 mới đây là một phản ứng chính sách phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay.

Cần lưu ý thêm, điều có lẽ làm nhiều người trước đây còn băn khoăn với việc nới lỏng tiền tệ là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại, và khả năng phục hồi của doanh nghiệp trên cơ sở (hy vọng) là bệnh dịch rồi cũng sẽ nhanh qua đi.

Tuy nhiên, khi nền kinh tế đối mặt với các cú sốc, vẫn có khả năng cao là giá cả giảm đi, như đã từng xảy ra ngay ở Việt Nam, mới trong tháng 2 vừa rồi. Do đó, nếu tháng 3 này và những tháng tới, lạm phát có xu hướng giảm hoặc đứng ở mức thấp, trong khi triển vọng dập dịch ở Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung chưa rõ ràng (kéo theo khó khăn ngày càng chồng chất của khu vực doanh nghiệp), NHNN sẽ càng có thêm dư địa và động lực để tiến hành hạ (thêm) lãi suất.

Song song với việc giảm (thêm) lãi suất và/hoặc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc, NHNN vẫn còn các công cụ chính sách phi lãi suất như đã được áp dụng bởi ngân hàng trung ương như nói ở trên. Do đó, ở giai đoạn hiện nay, nếu quan ngại hạ lãi suất mạnh và cấp tập sẽ gây hiệu ứng tâm lý không tốt, NHNN có thể cân nhắc đồng thời áp dụng ngay các công cụ phi lãi suất này để tích cực hỗ trợ nền kinh tế một cách thực chất và đỡ rủi ro hơn.

(1) https://www.theguardian.com/business/2020/mar/11/coronavirus-bank-of-england-makes-emergency-interest-rate-cut

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).