Sunday 8 March 2020

Nhiều câu hỏi 'đau đầu' cho đề án phát triển DNNN quy mô lớn (Bài đăng trên TBKTSG, 9/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/td/300766/nhieu-cau-hoi-dau-dau-cho-de-an-phat-trien-dnnn-quy-mo-lon.html

Chính phủ vừa giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng đề án phát triển doanh nghiệp nhà nước  (DNNN) quy mô lớn, đặc biệt là tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) đa sở hữu với ba nhiệm vụ chính, gồm vai trò dẫn dắt của DNNN trong xây dựng và mở rộng chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới; phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu; và rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về DNNN. (1) Ngoài ra, Chính phủ cũng yêu cầu Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban.

DNNN “quy mô lớn” có phải là tập đoàn?

Điểm cần làm rõ đầu tiên liên quan đến đề án nói trên là khái niệm DNNN “quy mô lớn” và sự phân biệt nó với TĐKTNN đa sở hữu. Theo cách viết trong đề án thì có thể hiểu DNNN “quy mô lớn” bao gồm TĐKTNN đa sở hữu. Đến đây thì lại nảy sinh ra ba vấn đề liên quan dưới đây:

1. Ngoài TĐKTNN ra, những DNNN nào thuộc phạm vi điều chỉnh của đề án này? Nếu nói là “quy mô lớn”, thì ở quy mô (vốn?) gì và cụ thể thế nào? Cần nói thêm ở đây là thực tế thì có thể coi các TĐKTNN là các DNNN quy mô lớn rồi, bao trùm hầu hết các DNNN có quy mô đáng kể khác ở hầu khắp mọi lĩnh vực rồi nên khó mà hình dung vẫn còn DNNN “quy mô lớn” nào đó còn sót lại, chưa được đề cập đến.

2. Khái niệm TĐKTNN “đa sở hữu” dường như mới xuất hiện từ năm 2017 trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII. Đây là một khái niệm mới, chưa được định nghĩa rõ ràng, cụ thể gồm, ví dụ, để được gọ là TĐKTNN đa sở hữu thì nhà nước phải sở hữu tối thiểu bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp, ở cấp độ nào (công ty mẹ, công ty con, công ty liên kết..). Nói rộng ra nữa, vậy DNNN “quy mô lớn” được đề cập trong đề án có được phép gồm cả những DNNN “đa sở hữu”?

Điểm liên quan nữa là cho dù nhà nước có sở hữu đa số trong các TĐKTNN thì về bản chất chúng không phải là sở hữu nhà nước nữa nên không thể gọi là TĐKTNN được, mà phải là cái gì đó đại loại như TĐKT (liên doanh, cổ phần). Do đó, các TĐKT này nói riêng và DNNN “quy mô lớn” đa sở hữu nói chung sẽ không còn/không nên được gọi là DNNN đúng nghĩa nữa. Mà như thế thì liệu chúng có nên chịu chế tài theo hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về DNNN được đề cập đến trong đề án hay không?

3. Vì đã có sự đồng sở hữu bởi thành phần kinh tế tư nhân và nước ngoài nên TĐKTNN đa sở hữu nếu cứ độc đoán theo định hướng sản xuất kinh doanh của nhà nước, là định hướng thường không nhất thiết trùng hợp với định hướng của chủ sở hữu thuộc các thành phần khác, thì sẽ dễ dẫn đến khả năng là mô hình TĐKTNN đa sở hữu sẽ không hấp dẫn được các nhà đầu tư phi nhà nước. Nói cách khác, một khi đã (muốn) thành lập mô hình sở hữu đa thành phần trong các TĐKT thì cần phải để các TĐKT này vận hành theo nguyên lý thị trường, tức cũng có nghĩa là tính định hướng nhà nước với chúng, được thể hiện ở trên các khía cạnh ví dụ như công cụ bình ổn kinh tế vĩ mô... hoặc sẽ không còn nữa, hoặc nó sẽ trở thành nguyên nhân cho những xung đột pháp lý một khi cứ áp đặt ý chí của nhà nước trong định hướng hoạt động của TĐKT “cổ phần” này.

Tóm lại, nếu ngay cả các khái niệm, định nghĩa không được làm rõ ngay từ đầu thì mọi kế hoạch, đề án chắc chắn sẽ vấp phải tình trạng dò dẫm, lúng túng, mâu thuẫn, bất đồng, bất nhất trong việc xác định mục tiêu, thực thi, vận hành và tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện.

Cái cũ còn chưa rõ, sao phải làm cái mới?



Đề án có nhiệm vụ phát triển DNNN quy mô lớn và/gồm các TĐKTNN đa sở hữu. Vì các DNNN quy mô lớn và TĐKTNN đa sở hữu này chắc chắn gồm 11 TĐKT được thí điểm thành lập trong giai đoạn 2005-2009 nên việc phát triển DNNN quy mô lớn và/gồm các TĐKTNN đa sở hữu cũng có nghĩa là (bao gồm việc) phát triển các TĐKT được thành lập thí điểm này.

Điểm mấu chốt ở đây là việc thí điểm thành lập 11 TĐKTNN dường như chưa bao giờ được đánh giá và tổng kết một cách đầy đủ, tổng quá và chính thức. Tuy Thủ tướng Chính phủ có ban hành Quyết định 1428 năm 2012 về kết thúc thí điểm hình thành Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam và Tập đoàn Phát triển nhà và Đô thị Việt Nam (đây là hai trong số 11 TĐKT được thành lập thí điểm), nhưng việc này không có nghĩa là (mô hình) 9 TĐKTNN còn lại là đã thành công, cần được tiếp tục phát triển và nhân rộng, hay khuôn khổ, cơ chế, chính sách pháp luật về các TĐKTNN đã rõ ràng. Lưu ý thêm rằng tuy cũng đã có một vài đánh giá về những vấn đề này nhưng đó chỉ là những đánh giá mang tính cá nhân, và vẫn chỉ dừng lại ở mức rất chung chung, định tính (xem, ví dụ, (2), (3)).

Nêu những chi tiết như trên để chỉ ra những vấn đề bất ổn, bất hợp lý liên quan. Trong khi những vấn đề cơ bản về TĐKTNN chưa được làm rõ (như thế nào là TĐKTNN, nó có phải là một mô hình thành công, xứng đáng tồn tại và cần tiếp tục phát triển, nhân rộng hay không, và nếu là mô hình thành công thì đâu là những yếu kém hiện hữu cụ thể cần khắc phục của mô hình này...) thì việc tiếp tục cho xây dựng đề án phát triển DNNN quy mô lớn và/gồm TĐKTNN đa sở hữu cho thấy hoặc là dường như người ta quan niệm rằng TĐKTNN được thành lập thí điểm trước đây không phải là/chẳng có gì chung với “DNNN quy mô lớn” và “TĐKTNN đa sở hữu” được nêu trong đề án, hoặc là, đơn giản hơn, người ta đã quên mất sự hiện diện của 11 TĐKTNN thí điểm này. Điều nào trong hai khả năng này đều là điều không thể chấp nhận được!

Và lại chồng chéo

Trong khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ) được giao nhiệm vụ xây dựng đề án phát triển DNNN quy mô lớn và TĐKTNN đa sở hữu thì Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban) cũng lại được giao nhiệm vụ xây dựng chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là sự phân tách nhiệm vụ như trên có tạo ra sự chồng chéo, mâu thuẫn, dẫm chân lên nhau giữa Bộ và Ủy ban hay không?

Như đã phân tích, DNNN quy mô lớn và TĐKTNN đa sở hữu rất có thể là gồm các TĐKTNN đã được bàn giao cho Ủy ban. Nếu để Bộ xây dựng đề án phát triển (mà chắc chắn sẽ phải gồm chiến lược tổng thể đầu tư, phát triển doanh nghiệp) cho các doanh nghiệp/TĐKT này thì sẽ dẫn đến khả năng đề án phát triển của Bộ sẽ không tương thích, phù hợp với cái của Ủy ban. Ngược lại, Ủy ban hoạch định chiến lược phát triển cho các doanh nghiệp thuộc quản lý của mình cũng có khả năng sẽ mâu thuẫn với định hướng của Bộ cho các DNNN và TĐKTNNN nói chung.

Để khắc phục tình trạng trên thì buộc phải có thêm một yêu cầu nữa, đại loại là Bộ/Ủy ban chủ trì phối hợp (với bên kia) xây dựng chiến lược đầu tư phát triển... Nhưng đến đây thì câu hỏi tiếp theo sẽ là vậy thì thành lập ra Ủy ban để làm gì? Chẳng phải là Ủy ban ra đời chỉ làm rối/khó thêm tình hình hay sao?

---------------

(1) https://ndh.vn/thoi-su/xay-dung-de-an-phat-trien-doanh-nghiep-nha-nuoc-quy-mo-lon-1263963.html

(2) https://vnexpress.net/kinh-doanh/thi-diem-tap-doan-thanh-cong-8-11-2722942.html
(3) http://pvc.vn/tinchitiet/tabid/93/id/1205/Mo-hinh-tap-doan-kinh-te-–-thuc-tien-va-giai-phap.aspx

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).