Sunday 1 March 2020

Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Lần gỡ nút thắt (Bài đăng trên TBKTSG, 2/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/300563/uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep-lan-go-nut-that-.html

Mới đây, Tổ công tác của Thủ tướng đã có cuộc họp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban) về kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng giao cho Ủy ban. Trong cuộc họp này, nhiều khó khăn, vướng mắc và hàng loạt kiến nghị đã được Ủy ban đưa ra.

Vụn vặt, không ổn

Theo báo chí đưa tin, Ủy ban đã nêu hàng loạt khó khăn, vướng mắc, trong số đó có vấn đề nguồn nhân lực. Theo Ủy ban, do nhiều nguyên nhân khác nhau, họ gặp khó khăn trong việc thu hút các cán bộ có chuyên môn giỏi, có năng lực, kinh nghiệm từ các bộ và từ khu vực doanh nghiệp về. Một nguyên nhân là việc tuyển chọn, tiếp nhận cán bộ về Ủy ban thực hiện theo các quy định áp dụng với cơ quan quản lý nhà nước, trong khi Ủy ban không phải là cơ quan quản lý nhà nước mà là cơ quan hành chính. (1)

Thực tế, cho đến nay dường như chưa bao giờ Ủy ban đăng tuyển dụng nhân lực một cách công khai, bình đẳng, rộng rãi để thu hút những người có đủ trình độ và phẩm chất như yêu cầu. Cho dù có thể có/viện lý do rằng nhân lực của Ủy ban phải là “người nhà nước” (nên phải tuyển dụng kín, trong nội bộ các bộ), nhưng lưu ý là, cũng theo Ủy ban, nhân lực của Ủy ban còn đến từ khu vực doanh nghiệp. Nên kể cả “khu vực doanh nghiệp” này có được hiểu theo nghĩa chỉ là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thì nhân lực cho Ủy ban không nhất thiết phải là “người nhà nước”, hoàn toàn có thể đăng tuyển công khai để tuyển dụng nhân lực từ các khu vực, thành phần kinh tế khác, miễn là những nhân lực này có chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm chất tương ứng. Chắc chắn sẽ có (nhiều) người đáp ứng được yêu cầu nếu Ủy ban thực tâm tìm kiếm. Mà xét cho cùng, “người nhà nước” trước hết cũng phải là “dân thường” rồi mới được các cơ quan nhà nước tuyển dụng.

Điều đáng chú ý liên quan đến nhân lực là ý kiến của Ủy ban cho rằng họ không phải là cơ quan quản lý nhà nước mà là cơ quan hành chính. Nhiều người chắc chắn sẽ rất “hoang mang” khi nghe phát biểu này. Bởi về khái niệm, cơ quan hành chính là một cấu thành của bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Thêm nữa, Ủy ban là một cơ quan trực thuộc Chính phủ. Nên nếu một khi đã coi các bộ là một cơ quan hành chính/cơ quan quản lý nhà nước thì Ủy ban cũng đương nhiên là một cơ quan tương tự. Vậy sao Ủy ban lại phải tách biệt (một cách sai lầm) như vậy để lấy đó làm lý do biện minh cho bất cập trong hoạt động của mình?     

Do đó, việc Ủy ban nêu khó khăn về tuyển dụng nhân lực (sau cả 2 năm từ khi đi vào hoạt động) thực sự là vụn vặt, “có gì đó sai sai”!

Tương tự như vậy, cũng theo Ủy ban, hiện đội ngũ kiểm soát viên nhà nước tại 13 tập đoàn, tổng công ty do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có 21 người, nhưng theo Nghị định số 10 năm 2019 thì số lượng này chưa đáp ứng quy định, cần bổ sung tối thiểu 25 kiểm soát viên.

Theo Nghị định 10 thì lực lượng kiểm soát viên này là do Ủy ban lựa chọn và bổ nhiệm. Vì vậy, sự thiếu hụt lực lượng kiểm soát viên cho thấy có vấn đề về công tác tuyển dụng nhân lực tại bản thân Ủy ban (có thể liên quan đến chuyện không đăng tuyển dụng công khai như nêu trên), chứ không phải một lý do khách quan, do một bên thứ ba, mà Ủy ban không tự mình khắc phục được.  

Chưa hết, Ủy ban cho biết hiện một số tập đoàn, tổng công ty chưa bảo đảm số lượng cán bộ lãnh đạo quản lý, chậm chí có các doanh nghiệp chưa có Tổng giám đốc, chức danh này do một Phó Tổng giám đốc phụ trách. Nhưng cần biết là cũng theo Nghị định 10, công tác nhân sự với người quản lý DNNN là do Ủy ban chịu trách nhiệm. Do đó, việc Ủy ban nêu “khó khăn” về cán bộ lãnh đạo tại DNNN chỉ càng làm rõ thêm tính vụn vặt và đặc biệt là sự không hoàn thành nhiệm vụ của Ủy ban như được giao phó.

Không “quyết liệt” thực hiện chức năng?

Theo Ủy ban, vướng mắc lớn nhất của Ủy ban là thẩm quyền phê duyệt dự án của cơ quan đại diện chủ sở hữu chưa được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, dẫn đến nhiều cách hiểu không thống nhất trong nội bộ Ủy ban, giữa các bộ, ngành và các doanh nghiệp. Khó khăn kiểu này cũng được một số doanh nghiệp như Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Vietnam Airlines và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước nêu ra tại cuộc họp.

Gác lại chuyện “sinh con rồi mới sinh cha” khi các văn bản luật trước khi thành lập Ủy ban chưa tính tới sự tồn tại của Ủy ban nên phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Và cũng gác qua một bên chuyện “có vấn đề về cách tiếp cận vấn đề của các tập đoàn, tổng công ty” như lời của đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong cuộc họp. (2) Trong số các chức năng và nhiệm vụ được giao cho Ủy ban có những việc như đề xuất, tham mưu, giúp Thủ tướng thực hiện các quyền, trách nhiệm đối với doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; chủ trì phối hợp với các bộ trình Thủ tướng phê duyệt (hoặc tự phê duyệt) chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm và hàng năm của doanh nghiệp...

Như vậy, cho dù có tồn tại sự hiểu khác nhau giữa các bộ nhưng nếu Ủy ban quyết tâm thực thi nghiêm túc quyền hạn và trách nhiệm của mình thì sự khác biệt về cách hiểu, nếu có, giữa các bộ với Ủy ban sẽ được khắc phục bằng cách này hay cách khác, ví dụ như đề xuất và trình Thủ tướng giải pháp xử lý vấn đề. Trừ khi Thủ tướng “quên” không trả lời, không chỉ đạo các bộ thực hiện giải pháp đề xuất, những tồn tại như thẩm quyền phê duyệt dự án cứ bị “treo” ở đó rõ ràng là do lỗi của trước tiên ở phía Ủy ban mà không thể đổ cho một bên thứ ba.

Tóm lại, dù sự ra đời và hoạt động của Ủy ban là chuyện đã rồi với nhiều bất cập đã được dự báo, cảnh báo trước nhưng những khó khăn hiện tại được nêu ra thực sự mang tính chủ quan là nhiều. Do vậy, Ủy ban cần phải nỗ lực thực hiện tốt hơn những gì họ được giao phó, trông cậy.

(1) http://mnews.chinhphu.vn/story.aspx?did=388019
(2) https://vnexpress.net/kinh-doanh/tong-cong-ty-duong-sat-keu-kho-khi-ve-sieu-uy-ban-4058012.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).