Wednesday 22 April 2020

Không dễ xác nhận Covid-19 là sự kiện bất khả kháng; dù có được xác nhận cũng không dễ thực thi (Bài đăng trên CafeF, 23/4/2020)

https://cafef.vn/chuyen-gia-khong-de-xac-nhan-covid-19-la-su-kien-bat-kha-khang-du-co-duoc-xac-nhan-cung-khong-de-thuc-thi-20200423114341797.chn

Một số chuỗi bán lẻ và dịch vụ lớn tại Việt Nam mới đây đã cùng nhau nộp đơn kiến nghị lên Thủ tướng và các bộ đề nghị xác nhận đại dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng. Theo họ, dịch Covid-19 thỏa mãn các điều kiện của sự kiện bất khả kháng quy định trong Bộ Luật Dân sự 2015: là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Mục đích của kiến nghị này là để các doanh nghiệp này có căn cứ pháp lý buộc các đối tác cho thuê mặt bằng điều chỉnh giá thuê mặt bằng, giãn tiến độ thanh toán, vì nhiều đối tác này không xác định Covid-19 là sự bất khả kháng và vẫn yêu cầu các doanh nghiệp này thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền thuê và phí dịch vụ đầy đủ cho thời gian tạm dừng kinh doanh do dịch.

Liệu kiến nghị trên có xác đáng, hợp lý, và khả thi?

Hoàn toàn phụ thuộc vào các điều khoản hợp đồng

Trước hết, cần nhận thức rằng sự kiện bất khả kháng là một điều khoản của hợp đồng mà các bên ký kết đồng ý thực thi với nhau.

Như vậy, nếu trong hợp đồng, ví dụ, thuê mặt bằng giữa doanh nghiệp bán lẻ và đối tác cho thuê mặt bằng không có bất cứ điều khoản nào đề cập đến sự kiện bất khả kháng thì, trừ những trường hợp cực đoan như chiến tranh nổ ra (và Chính phủ cấm làm việc và tịch thu hay trưng thu các thiết bị cần thiết), không bên nào trong hợp đồng được viện dẫn sự kiện bất khả kháng (kể cả đó là sự kiện bất khả kháng được định nghĩa, xác nhận bởi Chính phủ), để được miễn trừ nghĩa vụ thực thi một (số) điều khoản trong hợp đồng, gồm có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê và phí đầy đủ và đúng hạn.

Tương tự, kể cả nếu trong hợp đồng có điều khoản nào đó đề cập đến sự kiện bất khả kháng nhưng nội dung lại khác với sự kiện bất khả kháng được định nghĩa, xác định bởi một bên khác không có trong hợp đồng, kể cả đó là Chính phủ, thì không một bên nào trong hợp đồng được phép viện dẫn sự kiện bất khả kháng được định nghĩa, xác nhận bởi bên khác không có trong hợp đồng này (tất nhiên là vẫn loại trừ các trường hợp cực đoan như chiến tranh nói trên).  

Đó là chưa kể, sự kiện bất khả kháng là sản phẩm quy định trong hợp đồng chứ không phải là của luật áp dụng chung (general common law) (1), và các quy định về sự kiện bất khả kháng không phải là quy định của chính sách công cộng (public policy provisions) (2), tức là không do Chính phủ quy định, nên điều này có nghĩa là Chính phủ cũng không định nghĩa, xác nhận thay, hoặc buộc được các bên trong hợp đồng tuân thủ điều khoản về sự kiện bất khả kháng nào đó do Chính phủ định nghĩa, xác nhận.

Bởi vậy, các doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ cần xem xét lại hợp đồng thuê mặt bằng của mình xem có các điều khoản về sự kiện bất khả kháng hay không, và nếu có thì cụ thể như thế nào, có bao gồm cả trường hợp dịch bệnh như Covid-19 hay không... Tùy thuộc hợp đồng không có những điều khoản như vậy, hoặc nếu có thì lại không bao gồm dịch như Covid-19, không có gì để có thể diễn giải được thành những sự kiện như Covid-19, hoặc chỉ có trong hợp đồng đối với một số địa điểm thuê cụ thể, doanh nghiệp sẽ biết liệu có áp dụng điều khoản miễn trừ nghĩa vụ trong trường hợp dịch Covid-19 hay không.

“Doanh thu sụt giảm” có thể là chưa đủ để áp dụng

Trong trường hợp hợp đồng thuê mặt bằng có điều khoản về sự kiện bất khả kháng, và Covid-19 được coi là sự kiện bất khả kháng bởi tất cả các bên, dựa vào đó mà các doanh nghiệp thuê mặt bằng chứng minh rằng doanh thu của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, kể cả khi họ đã đẩy mạnh bán hàng trực tuyến, thì sự sụt giảm doanh thu này không thôi là chưa đủ để họ áp dụng sự kiện bất khả kháng để miễn trừ nghĩa vụ của mình.

Thông thường, điều khoản sự kiện bất khả kháng trong hợp đồng sẽ quy định cụ thể mức độ tác động của một sự kiện bất khả kháng lên hoạt động của doanh nghiệp để điều khoản này có thể được kích hoạt. Có một số mức độ hay được dùng xếp theo thứ tự nghiêm trọng từ cao đến thấp như “làm ngăn cản”, “gây cản trở”, và “gây trì hoãn”.

Ví dụ, với quy định mức độ ảnh hưởng “làm ngăn cản” thì có nghĩa là doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động được bởi sự kiện bất khả kháng. Nhưng các doanh nghiệp bán lẻ vẫn có cách xoay xở để hoạt động như bán hàng trực tuyến. Do vậy, dù doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến khó khăn hơn, chi phí nhiều hơn, hay doanh thu hoặc lợi nhuận ít hơn..., những tác động này là chưa đủ để kích hoạt quyền miễn trừ theo điều khoản sự kiện bất khả kháng.

Thực tế thì như đã nêu trong đơn kiến nghị, nhiều doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ vẫn đẩy mạnh bán hàng trực tuyến. Do đó, dù doanh thu có thể bị ảnh hưởng một phần nào đó, kể cả có là trầm trọng, nhưng rõ ràng là Covid-19 đã không “làm ngăn cản” họ kinh doanh hoàn toàn. Do đó, doanh nghiệp sẽ không được vận dụng sự kiện bất khả kháng nếu trong hợp đồng có quy định mức độ ảnh hưởng phải là “làm ngăn cản”.

Đối với doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ không thực hiện bán hàng trực tuyến, rõ ràng đây là một biểu hiện cho việc không “thực hiện mọi biện pháp cần thiết” nên càng không thể áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng.

Lưu ý rằng các doanh nghiệp nộp đơn kiến nghị còn viện dẫn chuyện “một số cơ quan địa phương không xác định việc kinh doanh trực tuyến này là hoạt động được phép thực hiện trong khoảng thời gian cách ly” vì Covid-19 để chứng tỏ họ không thể hoạt động được, dù đã tích cực thực hiện “mọi biện pháp cần thiết”.

Tuy nhiên, hãy chú ý tới cụm từ “một số cơ quan địa phương”. Điều này có nghĩa là kể cả có vận dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng vì Covid-19 thì ít nhất ở những địa phương mà cơ quan chức năng không cấm kinh doanh trực tuyến, các hợp đồng thuê mặt bằng có phục vụ kinh doanh trực tuyến ở những địa phương đó sẽ không được kích hoạt điều khoản sự kiện bất khả kháng.

Ngoài ra, còn một số quy định khác có thể có trong hợp đồng làm cho việc áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng trở nên không thể nếu doanh nghiệp thuê mặt bằng không tuân thủ, ví dụ như quy định về thông báo về ý định áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng cho bên đối tác của hợp đồng trong một khung thời gian cụ thể, cũng như hình thức thông báo...

(1) https://www.pinsentmasons.com/out-law/guides/covid-19-force-majeure-clause
(2) https://www.morganlewis.com/pubs/covid-19-and-force-majeure-under-french-law-cv19-lf

Cần cụ thể, nhất quán, đơn giản trong hỗ trợ tín dụng (Bài đăng trên TBKTSG, 23/4/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/302748/can-cu-the-nhat-quan-don-gian-trong-ho-tro-tin-dung.html

Ngày 13/3/2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 01/2020 về việc tổ chức tín dụng (TCTD) cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19.

Có thể nói, đây là một hành động kịp thời của NHNN nhằm triển khai chỉ đạo của Thủ tướng kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch. Tuy nhiên, trên thực tế đã có nhiều ý kiến phản hồi của doanh nghiệp về khó khăn khi yêu cầu TCTD áp dụng các quy định của thông tư này, dẫn đến sự hỗ trợ cần thiết đã không đến được tay khách hàng gặp khó khăn (dịch một cách kịp thời).

Quả thật, từ những quy định có trong thông tư có thể thấy khó khăn mà khách hàng phải đối mặt đầu tiên và quan trọng nhất là sự thiếu vắng một định nghĩa và/hoặc hướng dẫn (rõ ràng) về “khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19”.

Vì đây là tiền đề để khách hàng vay vốn TCTD được TCTD xét duyệt và thực thi các giải pháp hỗ trợ như trong thông tư, sự thiếu vắng một định nghĩa/hướng dẫn rõ ràng như vậy sẽ gây ra nhiều tình huống không mong muốn, gồm: (i) TCTD dù thực tâm muốn đồng hành cùng khách hàng vay vốn nhưng không rõ khách hàng có thực sự bị ảnh hưởng của Covid hay không, và có đến mức độ phải hỗ trợ như quy định hay không. Để ra quyết định, TCTD buộc phải dựa vào sự tự chứng minh của khách hàng về những thiệt hại do Covid. Sự thể này sẽ dẫn đến tình trạng kéo dài trong việc xét duyệt hỗ trợ trong khi khách hàng thì có thể đang “ngắc ngoải”; (ii) TCTD “tham lam”, lấy cớ là khách hàng không/chưa chứng minh được mình là nạn nhân của Covid để từ chối hỗ trợ theo yêu cầu của NHNN; (iii) khách hàng dù bị thiệt hại thật sự bởi Covid nhưng không biết cách, không có điều kiện (về giấy tờ, tài liệu...) để chứng minh thiệt hại nên không được TCTD hỗ trợ; (iv) và khách hàng của TCTD lợi dụng Covid-19 để khai rằng mình bị thiệt hại bởi Covid-19 để trục lợi chính sách...

Những tình huống như trên sẽ làm cho một chính sách cần thiết và có ý nghĩa như Thông tư 01 trở nên kém hiệu quả. Do đó, điều cần làm hiện nay là nhanh chóng bổ sung sự khiếm khuyết này. Để sự bổ sung được chặt chẽ, nhất quán và quan trọng không kém là đơn giản, NHNN cần phối hợp chặt chẽ với các bộ khác xác định các ngành nghề bị ảnh hưởng trầm trọng bởi dịch. Những doanh nghiệp trong các nhóm ngành nghề này sẽ tự động được coi là doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Covid và là đối tượng được hưởng các động thái hỗ trợ của TCTD theo Thông tư 01 mà không cần phải chứng minh sự thiệt hại gây ra bởi Covid.

Khó khăn khác liên quan quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Theo Thông tư 01, trong số các điều kiện để được cơ cấu lại thời hạn trả nợ có điều kiện khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn gốc và/hoặc lãi theo thỏa thuận do ảnh hưởng của dịch. Tương tự như trên, nếu không sửa đổi, bổ sung quy định thì khách hàng thực sự khó khăn vì dịch có thể không được TCTD hỗ trợ. Do đó, cần quy định lại khách hàng trong các ngành bị ảnh hưởng trầm trọng bởi dịch thì sẽ tự động được cơ cấu lại thời hạn trả nợ nếu có yêu cầu, và TCTD không được phép từ chối.

Để tăng thêm phần thực chất, minh bạch và nhất quán, cũng cần xem xét quy định thêm rằng thời hạn cơ cấu lại nợ là đến ngày cụ thể x/y/202z (tất nhiên là không nên dài quá 1 năm), tùy thuộc yêu cầu của khách hàng, để tránh tình trạng TCTD tuy có cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhưng chỉ làm cho có, ví dụ như gia hạn thêm 1 tháng, vì Thông tư 01 không có quy định nào ngăn ngừa tình trạng này xảy ra. 

Về phần TCTD, do họ cũng là một doanh nghiệp nên việc dồn trách nhiệm và gánh nặng hỗ trợ cho TCTD là điều không thỏa đáng. Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng cần có những động thái hỗ trợ cho chính những TCTD nào có các động thái hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch. Một trong những động thái đó là NHNN cho vay ưu đãi cho TCTD như vậy. Tuy nhiên, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, ví dụ như Singapore, NHNN cần bổ sung yêu cầu rằng TCTD có thể vay vốn ưu đãi từ NHNN nhưng phải chuyển toàn bộ sự ưu đãi về lãi suất này cho doanh nghiệp vay vốn từ TCTD. Ví dụ, TCTD có giá vốn là 4%/năm, đang cho vay doanh nghiệp là 7%/năm. Trong đại dịch, TCTD có thể nộp đơn vay NHNN với lãi suất ưu đãi chẳng hạn là 2%/năm, tiết kiệm được 2%/năm giá vốn. Nhưng TCTD không được phép hưởng lợi từ sự ưu đãi này mà phải chuyển phần tiết kiệm giá vốn 2%/năm này cho doanh nghiệp thông qua việc như giảm lãi suất cho vay khoản vay hiện hành từ 7%/năm xuống còn 5%/năm. Làm như vậy thì TCTD vẫn có lợi là giúp cho khách hàng tăng thêm khả năng sống còn để có thể trả nợ đầy đủ cho TCTD sau này.

Nhân đây xin nói thêm về quy định miễn, giảm lãi, phí, theo đó, TCTD quyết định việc miễn, giảm lãi, phí theo quy định nội bộ. Hiểu theo quy định này thì TCTD có quyền không miễn, giảm lãi, phí cho khách hàng. Đây là một quy định hợp lý, vì như đã nói, TCTD cũng là một doanh nghiệp, phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh trước cổ đông. Trừ khi được NHNN hỗ trợ bằng những hình thức như cho vay ưu đãi như nói ở trên, TCTD có quyền từ chối không miễn, giảm lãi, phí cho (nhiều) khách hàng nếu xét thấy cần thiết. Do vậy, các khách hàng vay vốn của TCTD cần hiểu rõ điều này để không quá kỳ vọng, tin tưởng chắc chắn mình sẽ được miễn, giảm lãi, phí nếu yêu cầu, hoặc thắc mắc, khiếu nại một cách không cần thiết rằng tại sao nhà nước đã ra quy định hỗ trợ doanh nghiệp, và doanh nghiệp A, B, C được miễn, giảm lãi, phí mà doanh nghiệp của tôi lại không được...


Saturday 18 April 2020

Nhiều giải pháp để kiềm chế nợ xấu thời đại dịch (Bài đăng trên TBKTSG, 18/4/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/302511/-nhieu-giai-phap-de-kiem-che-no-xau-thoi-dai-dich.html

Nợ xấu gia tăng do, ví dụ, các khoản cho vay bị xếp hạng thành nợ khó đòi, không có khả năng thu hồi, sẽ không chỉ trực tiếp làm thiệt hại về lợi nhuận cho ngân hàng mà còn gây ra những tác động dây chuyền nghiêm trọng khác. Phải kể đến trong đó là việc ngân hàng phải để dành thêm vốn trên bảng cân đối tài sản để bù đắp tổn thất nợ xấu này.

Nếu ngân hàng không thu xếp đủ vốn dự trữ bù đắp cho nợ xấu thì ngân hàng buộc phải cắt giảm, thậm chí đóng băng việc cho vay, cấp tín dụng (cho doanh nghiệp và cá nhân khác). Sức khỏe tài chính của những ngân hàng này sẽ là nguyên nhân để ngân hàng trung ương và các cơ quan giám sát tiền tệ quốc gia “để mắt” chặt chẽ, giám sát từng hoạt động và đặt ra các điều kiện nghiêm ngặt để được phép hoạt động bình thường trở lại.

Về phía con nợ, khi có nợ thành nợ xấu thì họ sẽ gặp khó khi huy động vốn hoặc vay nợ mới, và chi phí vay nợ cũng sẽ tăng lên tương ứng với hạng tín nhiệm đi xuống của mình.

Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 hiện nay tất yếu sẽ dẫn đến một kết cục không tránh khỏi là nhiều món nợ sẽ trở thành nợ xấu, chất lượng tài sản của mọi ngân hàng đi xuống còn nợ xấu sẽ tăng lên cho hệ thống ngân hàng khắp thế giới. Để kiềm chế và giảm thiểu hậu quả của những xu hướng tiêu cực này thì cần sự “vào cuộc” của cả hai phía, nhà quản lý nhà nước và bản thân các ngân hàng thương mại.

Giải pháp từ phía nhà quản lý

Thế nào là nợ xấu là một vấn đề mang tính chủ quan, phụ thuộc vào định nghĩa của nhà quản lý nhà nước. Bởi vậy, giải pháp đơn giản và trực tiếp nhất là nới lỏng hoặc sửa lại định nghĩa và các quy định phân loại nợ xấu để nợ xấu vẫn là... “đẹp” trên sổ sách các ngân hàng thương mại. Hành động kiểu “đà điểu vùi đầu trong cát” để tránh nguy hiểm như thế này được dựa trên niềm hy vọng là các con nợ của ngân hàng thương mại sẽ phục hồi và hoạt động lành mạnh như cũ, khi đại dịch qua đi.

Giải pháp thứ hai là nhà quản lý cần ban bố lệnh đình trả nợ (gốc và lãi) cho những con nợ “đối mặt với khó khăn liên quan đến Covid”, trong một thời hạn nhất định, thường là 6 tháng, như hàng loạt ngân hàng trung ương trên thế giới đã và sắp thực hiện. Mục đích là không đẩy con nợ lún sâu thêm vào khó khăn do thâm hụt dòng tiền, biến họ từ có khả năng vỡ nợ thành vỡ nợ thật. Điều này còn cho phép ngân hàng thương mại cơ cấu lại nợ cho con nợ mà không làm phương hại đến việc đánh giá đúng mực khách hàng, cũng như tránh cho ngân hàng phải ghi nhận tổn thất tín dụng này vào chi phí hoạt động của mình.

Thứ ba, nhà quản lý cần nới lỏng các quy định về an toàn vốn tối thiểu, vốn dự trữ để ngân hàng thương mại có thêm vốn cho vay doanh nghiệp và cá nhân bị ảnh hưởng bởi dịch mà mục đích cuối cùng vẫn là giữ cho các doanh nghiệp này sống sót để có khả năng trả nợ. Tuy nhiên, đi kèm đó, cần làm ngân hàng thương mại hiểu rõ rằng phần vốn được nới lỏng này cần phải được sử dụng để hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân bị ảnh hưởng bởi dịch chứ không phải là để hỗ trợ chi trả... thưởng hay cổ tức!  

Thứ tư, một số ngân hàng trung ương như của Indonesia còn ra lệnh cho các ngân hàng thương mại nước này dừng ngày việc dùng dịch vụ đòi nợ để thu hồi nợ từ những con nợ bị ảnh hưởng của dịch, ít nhất là trong thời điểm hiện tại, như là một phần trong các biện pháp giúp doanh nghiệp thêm cơ hội tồn tại trong cơn đại dịch.

Ngoài ra, ngân hàng trung ương của Indonesia còn giảm số lượng tiêu chí đánh giá một khoản vay có là nợ xấu hay không từ ba (triển vọng kinh doanh, tình hình tài chính, và sự tuân thủ trả nợ) xuống còn duy nhất một (tuân thủ trả nợ). Nếu vẫn cứ giữ nguyên ba tiêu chí đánh giá chất lượng nợ như cũ thì nợ của phần lớn doanh nghiệp sẽ thành nợ xấu dù các doanh nghiệp này vẫn cố gắng trả nợ gốc và lãi đúng hạn, bởi triển vọng kinh doanh và tình hình tài chính của chúng đều lao dốc trầm trọng giữa cơn đại dịch.

Thứ năm, chuẩn mực kế toán IFRS 9 yêu cầu ngân hàng trích dự phòng vốn cho tổn thất tín dụng kỳ vọng chứ không phải là thực tế. Đại dịch làm cho tác động tiêu cực lên doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng thương mại sẽ xuất hiện sớm hơn bởi nó làm cho chất lượng tài sản đi xuống. Để giảm thiểu tác động này thì một số ngân hàng trung ương trên thế giới đã sửa đổi quy định về vốn bổ sung tối thiểu (Trụ cột 2) để ngân hàng thương mại tiếp tục gia hạn hoặc ngừng áp dụng ngày đến hạn trả nợ (nhằm giữ nguyên chất lượng khoản vay, tức chất lượng tài sản). Tất nhiên điều kiện để được nới lỏng là chất lượng khoản vay sẽ bị xấu đi bởi Covid chứ không phải là hậu quả của hành vi cho vay bất cẩn của ngân hàng thương mại.

Cuối cùng, nhà quản lý cần thống nhất hành động hỗ trợ một cách đồng bộ từ các ngân hàng thương mại, đồng thời làm yên lòng các ngân hàng thông qua cam kết sẵn sàng hỗ trợ về vốn, thanh khoản với tư cách là người cho vay cuối cùng cho các ngân hàng thương mại...

Cho đến nay, Việt Nam đã thực thi một số trong những giải pháp trên bên cạnh những giải pháp cụ thể khác. Với giải pháp đình trả nợ gốc và lãi, hiện đang được ngân hàng thương mại “tùy nghi” áp dụng, ví dụ có ngân hàng thì tuyên bố giảm 1 điểm % lãi suất các khoản cho vay tiêu dùng... Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên chính thức yêu cầu các ngân hàng thực thi đồng bộ việc đình trả nợ này trên toàn hệ thống, xét đến tác động của giải pháp này như đã nêu ở trên.

Về giải pháp sửa đổi yêu cầu về vốn bổ sung tối thiểu và trích lập dự phòng, do IFRS 9 mới chỉ được đề xuất áp dụng ở Việt Nam mấy năm sau theo lộ trình và theo nhóm nên NHNN có thể xem xét thay thế bằng cách nới lỏng lộ trình áp dụng hay nới lỏng bản thân quy định về vốn và trích lập dự phòng theo tổn thất thực tế, đã phát sinh theo tiêu chuẩn kế toán hiện hành. Tất nhiên, do các mức quy định về vốn và trích lập dự phòng của Việt Nam còn quá thấp và lỏng lẻo so với thế giới, tức đồng nghĩa với khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng Việt Nam còn quá thấp nên việc nới lỏng quy định hiện tại càng làm tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng và NHNN càng phải sẵn sàng can thiệp hỗ trợ như cho vay tái cấp vốn...  

Giải pháp từ phía ngân hàng thương mại

Các ngân hàng cần khẩn trương nhanh chóng xác định các ngành, lĩnh vực và khách hàng bị ảnh hưởng nhất để có được giải pháp hỗ trợ hữu hiệu nhất. Các giải pháp hỗ trợ cần phải chính xác, thống nhất, cụ thể.

Thực tế thì nhiều ngân hàng đã xem xét và thực thi các giải pháp như gia hạn thanh toán và sẵn sàng cho vay với lãi suất ưu đãi... Nhưng những giải pháp này chỉ là những giải pháp áp dụng chung cho mọi khách hàng “chịu ảnh hưởng của dịch”.

Điều các ngân hàng cần làm là khu biệt hóa cơ sở khách hàng để tối đa hóa sự hỗ trợ. Việc này bao gồm chủ động làm việc với khách hàng để hiểu rõ tình hình của họ; khu biệt hóa danh mục cho vay dựa vào nhu cầu vay vốn kỳ vọng; tự tìm tòi, phát hiện ra lĩnh vực nào thì sự hỗ trợ sẽ là hiệu quả nhất; và tiến hành kịp thời các hành động giảm thiểu rủi ro đối với các khoản vay mất khả năng thanh toán được phát hiện sớm.

Các ngân hàng thường thì cũng đã có những giải pháp hỗ trợ này trước đây nhưng tình hình hiện nay đòi hỏi sự hỗ trợ trên phạm vi địa lý rộng hơn nhiều. Hỗ trợ khách hàng trong những lúc nghiêm trọng như hiện nay sẽ củng cố vững chắc quan hệ với khách hàng và tái khẳng định vai trò của ngân hàng như bà đỡ của nền kinh tế.

Với các khoản vay ưu  đãi, ngân hàng thương mại phải có biện pháp để đảm bảo chắc rằng các khoản vay ưu đãi mà họ đã và sẽ công bố sẽ được doanh nghiệp sử dụng một cách cẩn trọng để không trở thành nợ xấu khi tình hình trở lại bình thường.

Với các khoản vay được đình trả nợ, ngân hàng thương mại cần phải đưa ra một kế hoạch trả nợ phù hợp để khách hàng có thể trả nợ gốc và lãi sau giai đoạn đình trả nợ này. Khách hàng cần được làm cho hiểu rõ rằng sự đình trả nợ này chỉ là tạm thời ngừng trả nợ, chứ không phải là xóa nợ, và sẽ phải trả nợ đầy đủ khi họ đã hồi phục. 

Tất nhiên, cuối cùng thì ngân hàng phải tự đánh giá và chịu trách nhiệm với rủi ro tín dụng của mình dựa trên mức độ tín nhiệm của khách hàng. Khách hàng nào có nền tảng kinh doanh vững chắc trước khi nổ ra Covid và hiện phải đối mặt với dòng tiền âm thì cần được cứu trợ để đứng dậy mạnh mẽ hơn sau dịch, và ngược lại.  

Thursday 16 April 2020

Bảo hiểm Covid-19: Nhìn từ Singapore (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 9/4/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/302201/tbktsg-so-15-2020-de-khong-ai-bi-bo-roi-trong-dai-dich.html

Cách đây mấy hôm, người viết nhận được tin báo về gói bảo hiểm Covid miễn phí (complimentary) của một ngân hàng và một công ty bảo hiểm tại Singapore tặng cho khách hàng có tài khoản tại ngân hàng hoặc có mua sản phẩm từ công ty bảo hiểm này. Ngân hàng đó là DBS với gói bảo hiểm cung cấp bởi công ty bảo hiểm Chubb, còn công ty bảo hiểm kia là AIA với gói bảo hiểm miễn phí của chính họ. AIA tặng gói bảo hiểm miễn phí này cho 1.000 khách hàng đầu tiên đăng ký, kể từ ngày 26/3. Còn ngân hàng DBS tặng gói bảo hiểm của Chubb không giới hạn số người đăng ký nhưng thời hạn đăng ký là ngày 31/3. Cũng cần lưu ý thêm rằng Chính phủ Singapore sẽ đài thọ mọi chi phí chữa trị liên quan đến Covid tại các bệnh viện công của nước này, bất kể bệnh nhân có bảo hiểm hay không.

Một số điểm chung của 2 gói bảo hiểm miễn phí này là thời hạn bảo hiểm chỉ một tháng từ ngày đăng ký (và hết hạn vào cuối tháng 4); đối tượng được bảo hiểm là người đăng ký và vợ/chồng và con; quyền lợi bảo hiểm là tiền mặt (bảo hiểm của Chubb: 1.000 SGD – gần 17 triệu đồng, chi trả một lần khi phải nằm phòng chăm sóc đặc biệt trong bệnh viện; và 100 SGD/ngày, tối đa 14 ngày khi nằm viện); bảo hiểm AIA: 10.000 SGD chi trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết trực tiếp do Covid, và 10 lần tư vấn miễn phí qua điện thoại với bác sĩ về Covid); điều kiện được hưởng quyền lợi là người cư trú tại Singapore, trong độ tuổi nhất định, chưa bị cách ly bắt buộc bởi Bộ Y tế Singapore, chưa đi đến một số nước, vùng lãnh thổ cụ thể (hoặc được Chính phủ Singapore khuyến cáo không đi).

Ngoài các định chế trên, phần lớn các ngân hàng hay công ty bảo hiểm khác ở Singapore, thậm chí cả các định chế phi tài chính khác như công ty viễn thông Singtel hay Grab, đều bảo hiểm Covid miễn phí cho một số đối tượng khách hàng hiện hữu của họ (riêng với các công ty bảo hiểm, các khách hàng đã mua sản phẩm bảo hiểm của công ty đều được bảo hiểm Covid miễn phí trong thường là một tháng).

Như vậy, các gói bảo hiểm trên ở Singapore thực chất là không có động cơ trục lợi từ Covid. Tất nhiên là nếu nhìn từ góc độ hiệu ứng marketing thì không thể nói rằng các định chế này không có lợi ích gì. Bằng việc tung ra các gói bảo hiểm này thì các định chế cũng thu lợi một cách gián tiếp thông qua việc làm đẹp hình ảnh của mình trong con mắt khách hàng như là những định chế có trách nhiệm xã hội cao. Nhưng rõ ràng việc “trục lợi” này là tốt cho tất cả các bên, bởi khách hàng của các định chế này được thêm quyền lợi mà không phải bỏ ra thêm xu nào, còn quốc gia thì có thêm phần ổn định bởi một số người không may mắn bị dịch bệnh sẽ được một tổ chức phi chính phủ khác tài trợ mà không cần phải trông vào ngân sách để hỗ trợ.

Một điểm đáng chú ý khác là ở Singapore dường như không có hãng bảo hiểm nào tung ra gói bảo hiểm riêng liên quan đến Covid cho người cư trú ở Singapore khi bị nhiễm Covid tại Singapore, ngoài những gói bảo hiểm miễn phí cho khách hàng hiện hữu như nói ở trên, và ngoài các gói bảo hiểm du lịch nước ngoài. Lý do của sự thiếu vắng các gói bảo hiểm riêng liên quan đến Covid ở Singapore là điều chưa được đề cập đến, ngoài một số khuyến nghị rằng mọi người nếu chưa có, chưa mua bảo hiểm y tế thì hãy mua ngay (vì các gói bảo hiểm y tế này đương nhiên sẽ bao gồm bảo hiểm khi bị nhiễm Covid).

Liên hệ những chuyện này với Việt Nam. Một số công ty bảo hiểm ở Việt Nam gần đây đã tung ra các gói bảo hiểm liên quan đến Covid. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu chấm dứt việc này. Do không có một lý do nào được công bố đằng sau động thái này nên có một số đồn đoán đã được đưa ra để giải thích cho yêu cầu này của Thủ tướng. Nổi bật nhất là lý giải rằng việc ra yêu cầu này là để ngăn tình trạng trục lợi cả từ phía công ty bảo hiểm (Covid được xem là thảm họa nên công ty bảo hiểm sẽ được quyền từ chối bồi thường khách hàng bị nhiễm Covid) và người mua bảo hiểm (cố tình bị nhiễm để được đền bù).

So sánh với trường hợp bảo hiểm ở Singapore, việc Việt Nam cấm hãng bảo hiểm tung ra gói bảo hiểm Covid riêng không phải là ngoại lệ, tuy, như đã nói, lý do thực sự đằng sau đó là điều không rõ ràng, chưa được đề cập đến một cách chính thức. Nhưng ở Việt Nam cũng đã có một số ngân hàng, tổ chức cung cấp miễn phí các gói bảo hiểm Covid cho một số đối tượng (ví dụ như nhân viên ngân hàng và gia đình của họ). Điều này là khá giống với ở Singapore, và cho thấy có lẽ chỉ có các gói bảo hiểm miễn phí mới được phép và khuyến khích.

Dẫu vậy, có một điều chắc chắn rằng lý do để tránh xảy ra việc trục lợi của cả công ty bảo hiểm lẫn người mua bảo hiểm ở Việt Nam như trên là bất hợp lý. Việc các công ty bảo hiểm, ngân hàng và các tổ chức phi tài chính khác tự nguyện (mua) bảo hiểm Covid cho khách hàng của mình ở Singapore và cả ở Việt Nam cho thấy trong mắt các tổ chức này thì rủi ro khách hàng cố tình làm bị nhiễm Covid để được bảo hiểm là không đáng kể. Kể cả rủi ro này có tồn tại thì vẫn là nhỏ so với những lợi ích mà các tổ chức này thu được, như nói ở trên.

Các công ty bảo hiểm liên đới rõ ràng cũng không thể trục lợi bằng cách (bán) bảo hiểm Covid cho khách hàng để rồi tuyên bố rằng Covid là thảm họa đề từ chối bồi thường, bởi các điều kiện thụ hưởng được quy định rõ ràng trong hợp đồng bảo hiểm ký kết với người được bảo hiểm, không có điều khoản miễn trừ nào như vậy. Điều này đồng nghĩa với việc khi người được bảo hiểm bị nhiễm Covid và thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì công ty bảo hiểm sẽ phải chi trả như cam kết chứ không phủi tay được.

Về lo ngại rằng người mua bảo hiểm cố tình bị nhiễm Covid để trục lợi, rõ ràng là sẽ có rất ít người (nếu có) tỉnh táo, có năng lực nhận thức bình thường lại mạo hiểm mạng sống của mình và đủ thứ rủi ro, phiền hà liên quan cho bản thân và gia đình khi cố tình nhiễm bệnh để hưởng một ít tiền hỗ trợ nằm viện (10-15 triệu đồng ở Việt Nam và 100-200 SGD/ngày ở Singapore) hoặc khi chết (100-150 triệu đồng ở Việt Nam và 10.000-25.000 SGD ở Singapore). Bởi vậy, và như nói ở đoạn trên, rủi ro của việc này là không đáng kể, nếu có.

Cuối cùng, lý do mà người viết có thể nghĩ ra để giải thích cho việc không có các gói bảo hiểm Covid riêng ở Việt Nam và Singapore là vì chúng không thật sự thiết yếu, không có không được vì thực tế là ở Singapore hay ở Việt Nam Chính phủ đều đài thọ toàn bộ chi phí liên quan Covid, và người cư trú đa phần có bảo hiểm y tế dưới dạng này hay dạng khác. Sự thiếu vắng các sản phẩm này càng là điều có ý nghĩa trong bối cảnh Chính phủ muốn tập trung các nguồn lực tài chính hữu hạn, gồm của các công ty bảo hiểm, để đối phó hữu hiệu hơn với Covid, đặc biệt khi nó bùng phát nghiêm trọng trên cả nước.  

Nên chăng chỉ hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bị ảnh hưởng bởi Covid-19? (Bài đăng trên CafeF, 16/4/2020)

https://cafef.vn/ho-tro-von-cho-doanh-nghiep-nen-chang-chi-ap-dung-voi-doanh-nghiep-vua-va-nho-20200416125337127.chn
Cả nền kinh tế đang gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp lo lắng không thể trụ nổi qua tháng 4 thôi chứ chưa nói đến hết dịch bệnh (với nhiều dự báo khác nhau) và vì thế đang có rất nhiều doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ vốn rẻ, được giãn nợ và miễn giảm lãi suất cùng các khoản phí dịch vụ khác từ Chính phủ và ngành ngân hàng. Và không chỉ có các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, người lao động mong muốn được hỗ trợ mà cả các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước cũng mong được cấp vốn, chẳng hạn Uỷ ban quản lý vốn nhà nước đề xuất cho Vietnam Airlines vay đến 12.000 tỷ đồng lãi suất 0%/năm trong 3 năm.
Theo ý kiến của một số chuyên gia, việc hỗ trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, song phải chọn lựa đối tượng cụ thể để hỗ trợ sao cho đúng và trúng, có như vậy mới thực sự hiệu quả. Bên cạnh việc chủ động hỗ trợ thì xem các quốc gia khác đang thực hiện hỗ trợ nền kinh tế của họ ra sao cũng nên được tham khảo.
Như trong bài viết gần đây chúng tôi đã giới thiệu một số giải pháp hỗ trợ vay vốn cho doanh nghiệp dưới tác động của Covid-19 nhìn từ Singapore của tác giả Phan Minh Ngọc. Trong bài này, chúng tôi tiếp tục trao đổi thêm với chuyên gia về các đề xuất cụ thể liên quan đến việc hỗ trợ vay vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam để độc giả cùng theo dõi.
PV: Thưa ông, ở Singapore đang hỗ trợ cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Covid-19 như thế nào? Họ có hỗ trợ cho tất cả các thành phần doanh nghiệp hay không?
TS. Phan Minh Ngọc: Chính phủ Singapore cũng như ngân hàng trung ương của nước này (MAS) chỉ hỗ trợ việc vay vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) chứ không có quy định tương tự cho các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn của nước này. Điều này là hợp lý, xét về bản chất và vai trò của SME trong nền kinh tế.
Cũng giống như hầu hết các nước khác, SME là một trụ cột chính cho nền kinh tế Singapore, chiếm 99% số doanh nghiệp của nước này, đóng góp tới 48% GDP và 65% công ăn việc làm cho Singapore. Nhưng SME rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc kinh tế bởi những hạn chế về tiềm lực tài chính và khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Do đó, đối tượng cần hỗ trợ đầu tiên trong các cơn bĩ cực kinh tế phải là SME. Các doanh nghiệp lớn thì, ngược lại, tuy vẫn có thể phải đối mặt với khó khăn trên thị trường nhưng thường không bị những hạn chế tương tự như của SME nên sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn.
Cũng có nhiều người nhắc đến việc cứu trợ hãng hàng không Singapore Airlines (SIA) như một biểu hiện của việc Chính phủ sẵn sàng cung cấp các khoản cho vay cho hãng này nói riêng và các tập đoàn, doanh nghiệp lớn nói chung. Nhưng cần lưu ý là những động thái trợ giúp liên quan đến vốn của hãng này thực chất chỉ là kế hoạch huy động 15 tỷ SGD từ việc phát hành thêm cổ phần cho cổ đông hiện hữu và phát hành trái phiếu chuyển đổi bắt buộc kỳ hạn 10 năm. Sự hỗ trợ của Chính phủ trong chuyện này, nếu có chăng chỉ là chuyện Temasek, doanh nghiệp nhà nước chuyên về đầu tư, cổ đông chủ chốt nắm 55% SIA, bảo lãnh phát hành cho số cổ phần/trái phiếu này. 
Ngoài ra, SIA cũng tiếp cận một khoản vay bắc cầu ngắn hạn 4 tỷ SGD với DBS, ngân hàng thương mại lớn nhất Singapore, trong lúc chờ đợi vốn thu xếp qua việc phát hành này. Tóm lại là SIA vẫn chủ yếu phải tự đứng trên đôi chân mình, tiếp cận các nguồn vốn hoàn toàn theo các điều khoản thương mại mà không có bất cứ một ưu đãi nào về vay vốn từ Chính phủ.
Việc hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp SME được thực hiện cụ thể thế nào thưa ông?
Hỗ trợ liên quan đến chuyện vay vốn cho SME ở Singapore chỉ diễn ra dưới 2 hình thức.
Thứ nhất, tất cả SME, nếu có nhu cầu, đều có thể nộp đơn yêu cầu tổ chức tín dụng chủ nợ của mình cho trì hoãn trả nợ gốc đối với các khoản vay hiện hữu có tài sản đảm bảo. Thời gian nộp đơn là từ thời điểm hiện tại cho đến hết ngày 31/12/2020 (nghĩa là nếu SME nộp đơn từ ngày 1/5 thì sẽ có khoảng gần 8 tháng ân hạn trả nợ gốc). Sau khi được chấp nhận, thời hạn trả nợ mới có thể kéo dài thêm đúng bằng thời hạn trì hoãn trả nợ gốc. Tiền lãi thì vẫn phải trả như thường, gồm cả tiền lãi phát sinh từ khoản tiền gốc được hoãn trả nợ. Điều kiện để SME được chấp nhận hoãn trả nợ gốc chỉ là doanh nghiệp này không có nợ quá hạn 90 ngày, tính đến ngày 6/4/2020 (chủ nợ không được bắt SME chứng minh gì khác để được phép hoãn trả nợ).
Thứ hai, ngân hàng, tổ chức tín dụng có thể vay vốn lãi suất ưu đãi từ MAS để cho vay lại cho SME dưới dạng cho vay mới vốn lưu động hay vốn bắc cầu nhưng phải chuyển toàn bộ phần tiết kiệm được về chi phí vốn này cho SME (tạm hiểu là, giả sử chi phí vốn huy động cho vay 6 tháng của ngân hàng thương mại là 3%/năm và lãi suất vay từ MAS là 1%/năm thì ngân hàng thương mại tiết kiệm được 2%/năm. Ngân hàng thương mại thông thường sẽ cho vay SME với lãi suất là 5%/năm nhưng do quy định của MAS nên ngân hàng thương mại buộc phải hạ lãi suất cho vay xuống còn 3%/năm).
Ông đánh giá thế nào về việc hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp bằng 2 hình thức trên?
Đối với hình thức thứ nhất, những quy định như đề cập ở trên vừa đảm bảo sự tiếp cận đơn giản, bình đẳng của mọi SME đến sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng (và tổ chức tín dụng không được phép từ chối), nhưng đồng thời đảm bảo rằng chỉ có những SME nào lành mạnh trước đây, đáng được cứu sống thì mới được hỗ trợ. Nếu là doanh nghiệp bết bát từ trước khi chịu tác động của Covid-19, như được thể hiện qua việc có nợ quá hạn 90 ngày, thì đương nhiên cần phải tự xoay xở mà sẽ không được cứu trợ.
Quy định thứ hai của họ nhằm cung cấp vốn ngắn hạn với lãi suất ưu đãi, đáp ứng nhu cầu cấp thiết mang vấn đề sinh tử cho SME. Việc MAS cho vay vốn gián tiếp qua ngân hàng thương mại còn nhằm mục đích chỉ có SME nào hợp lệ, đủ điều kiện, nói cách khác là có khả năng sống sót, trả nợ, thì mới được ngân hàng thương mại xét cho vay. Các ngân hàng thương mại cũng phải cẩn trọng khi cho xét cho vay vì họ vẫn phải đối mặt với rủi ro thiệt hại mất vốn (kể cả khi vay từ MAS với lãi suất ưu đãi).
Ngoài ra, do ngân hàng thương mại phải chuyển phần tiết kiệm về chi phí vốn cho khách vay nên ngân hàng thương mại càng phải cẩn trọng khi vay MAS do không có lợi ích gì thêm so với huy động vốn trên thị trường, ngoài lợi ích là doanh nghiệp vay vốn sẽ "dễ thở" hơn khi nguồn vốn vay là từ MAS có lãi suất thấp hơn, nên sẽ có thêm điều kiện để sống sót và trả nợ.
Như vậy, hình thức cho vay bắc cầu này sẽ đảm bảo sự thận trọng, nỗ lực của mọi chủ thể liên quan, nhất là giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp, nhưng đồng thời vẫn đảm bảo sự tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi đối với các doanh nghiệp hợp lệ, đáp ứng các điều kiện đáng được hỗ trợ để tồn tại qua đại dịch.
Ở nước ta đang có một số đề xuất cho rằng Việt Nam cũng nên hỗ trợ vốn cho các tập đoàn lớn với lãi suất 0%, ông nghĩ có khả thi?
Tôi cho rằng câu chuyện xảy ra ở Singapore rất tương đồng với Việt Nam nên Chính phủ Việt Nam cần xác định rõ ràng nếu có hỗ trợ vay vốn cho doanh nghiệp thì đối tượng hỗ trợ này phải, chỉ là SME chứ không nên bao gồm mọi doanh nghiệp chung chung, trong đó tất nhiên có doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các tập đoàn, công ty lớn của cả khu vực tư nhân.
Liên quan đến "bộ lọc" ai đáng cứu trợ này, ở Việt Nam, giả dụ vì một lý do nào đó mà các doanh nghiệp lớn, tập đoàn, tổng công ty nhà nước hay của tư nhân lại "thành công" trong việc vận động được hỗ trợ vay vốn thì điều tối thiểu cần làm là phải loại ra, bằng tiêu chí tương tự hoặc những tiêu chí khác, những doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ mất khả năng thanh toán, lẽ ra cần phải đóng cửa từ lâu, nhưng cơ hội, trục lợi, lợi dụng Covid-19 để kêu khó, xin các ưu đãi về vốn vay.
Việc hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp SME nếu áp dụng ở Việt Nam thì nên như thế nào thưa ông?
Áp dụng cách thức này ở Việt Nam, cần tránh tình trạng Ngân hàng Nhà nước dùng hệ thống ngân hàng chỉ đơn thuần như một kênh truyền tải vốn đến doanh nghiệp, vốn là cách đã sử dụng trước đây để rồi gây hệ lụy do ngân hàng không những có ít hoặc không có trách nhiệm cho vay thận trọng mà còn thậm chí trục lợi từ chính sách hỗ trợ lãi suất của nhà nước. 
Thay vào đó, nếu có cho vay thì luôn phải có sự tham gia của ngân hàng thương mại với vai trò là người xét duyệt và chịu trách nhiệm chính về chất lượng khoản vay. Chính phủ chỉ chia sẻ một phần chi phí và rủi ro của các khoản vay này để ngân hàng có thêm động lực cho vay. Khách hàng vay cũng sẽ được lựa chọn cẩn thận hơn để đảm bảo chỉ có những khách hàng lành mạnh, có khả năng sống sót mới được vay, và được vay với điều kiện ưu đãi hơn so với nếu không có sự "vào cuộc" của nhà nước.

Tuesday 14 April 2020

Những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm Singapore (Bài đăng trên CafeF, 14/4/2020)

https://cafef.vn/nhung-chinh-sach-ho-tro-cho-doanh-nghiep-viet-nam-nhin-tu-kinh-nghiem-singapore-2020041412310563.chn

Chính phủ Singapore gần đây đã tiếp tục tăng cường các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp (và hộ gia đình, cá nhân) ở Singapore được công bố hồi tháng 2 và tháng 3 năm nay (1). Những giải pháp này sẽ là một tham khảo chính sách tốt cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh đã có những vận động hành lang mở rộng các chính sách hỗ trợ đến cả doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với những ưu đãi bất hợp lý.

3 nhóm giải pháp hỗ trợ chính

Do hỗ trợ việc làm và thu nhập cho người lao động có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khía cạnh đảm bảo an sinh xã hội mà còn trực tiếp giúp doanh nghiệp có thêm năng lực tài chính để giữ lại nhân công, tồn tại qua dịch và sẵn sàng hoạt động bình thường trở lại sau dịch, nên trong nhóm giải pháp hỗ trợ đầu tiên của Chính phủ Singapore là Chương trình hỗ trợ việc làm. Theo đó, Chính phủ sẽ thay công ty trả lương, tối đa là 75% của ngưỡng 4.600 SGD/tháng cho người lao động ở tất cả các ngành nghề bị ảnh hưởng bởi dịch (mức cao nhất 75% là cho ngành hàng không và du lịch, những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất ở Singapore; các mức còn lại là 50% cho ngành bán đồ ăn, và 25% cho các ngành còn lại) trong vòng 9 tháng.

Nhóm giải pháp hỗ trợ thứ hai là hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp về dòng tiền, gồm các biện pháp cụ thể như: (i) hoàn 25% thuế thu nhập doanh nghiệp (tối đa là 15.000 SGD/công ty); (ii) tăng thêm thời gian trả góp thuế thu nhập doanh nghiệp không lãi suất; (iii) hỗ trợ vốn lưu động cho riêng doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) trong tất cả các ngành. Chính phủ sẽ huy động tối đa 1 triệu SGD cho một SME từ các ngân hàng tham gia cho vay, và Chính phủ sẽ đảm trách 80% rủi ro cho khoản vay này, có thời hạn tối đa 1 năm, từ 1/4/2020. Tương tự, với các SME cần khoản vay tài trợ thương mại ngắn hạn như tín dụng xuất nhập khẩu và bảo lãnh thì Chính phủ sẽ huy động tối đa 10 triệu SGD từ các ngân hàng tham gia cho vay, và chia sẻ 80% rủi ro khoản vay này, cũng có thời hạn 1 năm; (iv) chương trình bảo hiểm vốn vay tài trợ thương mại ngắn hạn cho SME trong các ngành có nhu cầu nay, theo đó các khoản vay tài trợ thương mại cho SME sẽ được mua bảo hiểm nghĩa vụ thanh toán, và tiền mua bảo hiểm sẽ được Chính phủ tài trợ 80%, trong vòng 1 năm (v) chương trình vay bắc cầu tạm thời cho tất cả các ngành với giá trị khoản vay tối đa 5 triệu SGD và lãi suất là 5%/năm. Chính phủ sẽ chia sẻ 80% rủi ro khoản vay này.

Nhóm giải pháp hỗ trợ thứ ba là các giải pháp riêng rẽ cho từng ngành đặc thù bị ảnh hưởng bởi dịch như du lịch, bán lẻ, ăn uống, khách sạn và hàng không. Những giải pháp này gồm đào tạo lại nghề nghiệp, triển khai marketing số v.v...

Liên hệ với Việt Nam

Qua các giải pháp trên có thể thấy Chính phủ Singapore đã thiết kế những giải pháp hỗ trợ rất cụ thể cho từng đối tượng cần hỗ trợ trên tinh thần là không cho không mà phải luôn có sự kết hợp với doanh nghiệp cùng chia sẻ gánh nặng, tuy Chính phủ có thể đảm trách phần nhiều hơn. Điều này là để hạn chế sự ỷ lại, và nhất là trục lợi của doanh nghiệp theo kiểu không khó cũng kêu khó, cũng đòi hỏi được hỗ trợ, và hỗ trợ nhiều hơn.

Ngoài ra, đặc điểm chung của các giải pháp hỗ trợ của Singapore là có hạn mức cụ thể và thời hạn cụ thể, thường chỉ tối đa đến một năm, chứ không có chuyện không những đòi cho vay lãi suất 0% mà còn đòi cho vay trong thời hạn tới 3 năm như đang được đề xuất ở Việt Nam cho các DNNN.

Đối với các hỗ trợ về vay vốn cho doanh nghiệp, điều đáng chú ý từ kinh nghiệm của Singapore là Chính phủ chỉ dành các hỗ trợ này cho SME chứ không dành cho các công ty lớn của nước này. Điều này có nghĩa là nếu áp dụng ở Việt Nam thì các doanh nghiệp lớn, gồm các tập đoàn, tổng công ty không chỉ của nhà nước, gồm DNNN nói chung, mà của cả tư nhân sẽ không được nhà nước hỗ trợ vay vốn.

Trong việc hỗ trợ vay vốn, Chính phủ Singapore không trực tiếp cấp vốn nhà nước cho doanh nghiệp (dù là thông qua hệ thống ngân hàng). Thay vào đó, doanh nghiệp vẫn phải trực tiếp vay vốn từ ngân hàng thương mại nhưng được Chính phủ bảo lãnh trực tiếp một phần khoản vay này hoặc bảo lãnh gián tiếp một phần thông qua mua bảo hiểm khoản vay từ các công ty bảo hiểm.

Như vậy, ở Việt Nam nếu Chính phủ có muốn giúp doanh nghiệp vay vốn thì ngoài việc yêu cầu chung chung và để hệ thống ngân hàng thương mại tự quyết định cho vay các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch, Chính phủ có thể khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay nhiều hơn bằng các các cụ thể như Singapore đã và đang làm. Nhờ đó, ngân hàng thương mại sẽ yên tâm hơn trong cho vay vì có sự bảo lãnh một phần của Chính phủ, còn các doanh nghiệp thì có trách nhiệm hơn khi đi vay (vì vẫn phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần khoản vay, ngoài phần được chia sẻ bởi Chính phủ).

(1) https://www.singaporebudget.gov.sg/budget_2020/budget-measures/stabilisation-and-support-package

Friday 10 April 2020

Thông tư 01 sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn số 579, 26/3-1/4/2020)

http://epaper.doanhnhansaigon.vn/epaper/flipbook/so-579-263---142020-2103.html

Ngày 12/3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ký ban hành Thông tư số 01/2020, quy định về tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Một trong những điểm đáng lưu ý trong thông tư là phạm vi giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch. Theo đó, dường như thông tư chỉ đề cập đến giải pháp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gốc và lãi), miễn giảm lãi, phí, và giữ nguyên nhóm nợ. Như vậy, thông tư không có, không quy định giải pháp hỗ trợ là cho vay mới khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch, như đã có một số người nhận định trước đó. Đây là một điểm tích cực, nếu xét từ góc độ rủi ro tín dụng và nợ xấu và tác động lên chính sách tiền tệ của NHNN.

Vẫn có rủi ro, tác động tiêu cực cho TCTD

Khi TCTD tái cơ cấu thời hạn trả nợ cho các khoản tín dụng hiện hữu thì có nghĩa là sẽ có một lượng vốn cho vay đến hạn trả lại cho TCTD từ các khoản tín dụng hiện hữu cho khách hàng chịu ảnh hưởng dịch bệnh sẽ không được trả lại cho TCTD đúng hạn để từ đó TCTD cho vay lại các đối tượng khác.

Tương tự, khi TCTD hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng dịch bằng cách giảm lãi, phí cho các khoản tín dụng hiện hữu thì sẽ góp phần làm giảm nguồn thu của TCTD, đồng thời cũng làm giảm nguồn vốn sẵn sàng cho vay các đối tượng khác.

Ngay cả việc TCTD giữ nguyên nhóm nợ một số khoản cho vay cũng góp phần gia tăng rủi ro, thiệt hại cho TCTD trên một số phương diện nào đó. Ví dụ, tuy khách hàng vay vốn đã ở tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng khoản vay vẫn được giữ nguyên phân loại (tốt) nên TCTD không thể phạt trả nợ chậm, trả nợ không đúng hạn, hoặc, tệ hơn, không thể thanh lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Như thế, nguồn thu và chất lượng tài sản của TCTD cũng bị ảnh hưởng tiêu cực, từ đó thu hẹp nguồn vốn có thể cho vay các khách hàng (tiềm năng) khác.

Và thêm gánh nặng cho NHNN

Trên danh nghĩa, thông tư giao nhiệm vụ cho TCTD tự quyết định việc hỗ trợ (và tự chịu hậu quả, thiệt hại). Tuy nhiên, việc nguồn vốn sẵn sàng cho vay của TCTD bị sụt giảm bởi phải tái cơ cấu khoản vay, miễn, giảm lãi, phí cho khách hàng chịu ảnh hưởng dịch sẽ có thể tạo ra áp lực lên mặt bằng lãi suất chung nếu nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế không bị ảnh hưởng đáng kể bởi dịch.

Ngoài ra, nếu tổn thất của TCTD tham gia hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch lớn đến một mức nào đó thì sẽ có nhiều kiến nghị NHNN có giải pháp hỗ trợ chính TCTD để giúp chúng giảm thiểu thiệt hại. Giải pháp này có thể là cho vay tái cấp vốn, vay ưu đãi với lãi suất thấp, giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc hoặc tăng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc v.v...

Nợ xấu gia tăng bởi khách hàng mất khả năng thanh toán cũng gây sức ép cho NHNN phải đảm bảo thanh khoản dồi dào trong hệ thống, đảm bảm tăng trưởng tín dụng ở mức độ cần thiết để giúp kéo giảm tỷ lệ nợ xấu (vì tỷ lệ nợ xấu được tính trên tổng dư nợ).

Tất cả những điều trên hợp lại sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ của NHNN. Thực ra, vấn đề này không phải là vấn đề riêng của Việt Nam mà còn là vấn đề chung của nhiều nước. Điều này cũng là lý do giải thích tại sao các nước trên thế giới thi nhau nới lỏng tiền tệ, hạ lãi suất bất chấp đã có nhiều chuyên gia, học giả cho rằng hành động hạ lãi suất của các ngân hàng trung ương không có tác dụng gì bởi, ví dụ, dịch bệnh làm cho người dân sợ hãi ra đường nên dù có cho doanh nghiệp vay tiền với lãi suất thấp thì doanh nghiệp cũng không có đủ nhân công làm việc.

Nhưng sẽ đỡ rủi ro hơn là khi phải hỗ trợ cho vay mới

Như đã nói ở trên, thông tư không quy định TCTD phải tiếp tục cho vay mới khách hàng chịu ảnh hưởng dịch. Điều này rất có ý nghĩa cho TCTD ở khía cạnh là trước tiên nó giúp TCTD không phải tăng cường huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vay mới không chỉ của khách hàng (mới) không bị ảnh hưởng bởi dịch mà còn cả khách hàng (hiện hữu) bị ảnh hưởng bởi dịch.

Tiếp đó, việc không phải cho vay mới khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch còn giúp TCTD hạn chế nợ xấu gia tăng thêm. Bởi đối tượng khách hàng này có tương lai khá bất định nên rủi ro trả nợ cũng sẽ tăng lên, kéo theo tỷ lệ nợ xấu chung của TCTD nếu TCTD tiếp tục cho vay mới các đối tượng này.

Cả 2 điều trên cũng sẽ giúp giảm gánh nặng lên chính sách tiền tệ của NHNN do áp lực đáp ứng nhu cầu vốn và kiềm chế tỷ lệ nợ xấu không bị tăng quá mức như khi TCTD bị ép buộc phải cho vay mới khách hàng bị cảnh hưởng bởi dịch.

Tóm lại, việc yêu cầu TCTD hỗ trợ khách hàng vay bị ảnh hưởng bởi dịch có thể là việc phải làm và sẽ gây ra thêm rủi ro, gánh nặng không chỉ cho TCTD mà còn cho cả chính sách tiền tệ của NHNN. Tuy nhiên, điểm tích cực trong Thông tư 01/2020 là nó đã không ép buộc TCTD phải cho vay mới khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch như dư luận kỳ vọng ban đầu, nhờ đó hạn chế rủi ro, thiệt hại liên quan cho TCTD nói chung và cho NHNN nói riêng.

Cuộc chiến chống Covid-19: Nhìn từ Singapore (Bài đăng trên TBKTSG, số 14-2020, ngày 2/4/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/301865/tbktsg-so-14-2020-gao-han-man-va-dai-dich.html
Cách đây mấy hôm, người viết nhận được tin báo về gói bảo hiểm Covid miễn phí (complimentary) của một ngân hàng và một công ty bảo hiểm tại Singapore tặng cho khách hàng có tài khoản tại ngân hàng hoặc có mua sản phẩm từ công ty bảo hiểm này. Ngân hàng đó là DBS với gói bảo hiểm cung cấp bởi công ty bảo hiểm Chubb, còn công ty bảo hiểm kia là AIA với gói bảo hiểm miễn phí của chính họ. AIA tặng gói bảo hiểm miễn phí này cho 1.000 khách hàng đầu tiên đăng ký, kể từ ngày 26/3. Còn ngân hàng DBS tặng gói bảo hiểm của Chubb không giới hạn số người đăng ký nhưng thời hạn đăng ký là ngày 31/3. Cũng cần lưu ý thêm rằng Chính phủ Singapore sẽ đài thọ mọi chi phí chữa trị liên quan đến Covid tại các bệnh viện công của nước này, bất kể bệnh nhân có bảo hiểm hay không.

Một số điểm chung của 2 gói bảo hiểm miễn phí này là thời hạn bảo hiểm chỉ một tháng từ ngày đăng ký (và hết hạn vào cuối tháng 4); đối tượng được bảo hiểm là người đăng ký và vợ/chồng và con; quyền lợi bảo hiểm là tiền mặt (bảo hiểm của Chubb: 1.000 SGD – gần 17 triệu đồng, chi trả một lần khi phải nằm phòng chăm sóc đặc biệt trong bệnh viện; và 100 SGD/ngày, tối đa 14 ngày khi nằm viện); bảo hiểm AIA: 10.000 SGD chi trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết trực tiếp do Covid, và 10 lần tư vấn miễn phí qua điện thoại với bác sĩ về Covid); điều kiện được hưởng quyền lợi là người cư trú tại Singapore, trong độ tuổi nhất định, chưa bị cách ly bắt buộc bởi Bộ Y tế Singapore, chưa đi đến một số nước, vùng lãnh thổ cụ thể (hoặc được Chính phủ Singapore khuyến cáo không đi).

Ngoài các định chế trên, phần lớn các ngân hàng hay công ty bảo hiểm khác ở Singapore, thậm chí cả các định chế phi tài chính khác như công ty viễn thông Singtel hay Grab, đều bảo hiểm Covid miễn phí cho một số đối tượng khách hàng hiện hữu của họ (riêng với các công ty bảo hiểm, các khách hàng đã mua sản phẩm bảo hiểm của công ty đều được bảo hiểm Covid miễn phí trong thường là một tháng).

Như vậy, các gói bảo hiểm trên ở Singapore thực chất là không có động cơ trục lợi từ Covid. Tất nhiên là nếu nhìn từ góc độ hiệu ứng marketing thì không thể nói rằng các định chế này không có lợi ích gì. Bằng việc tung ra các gói bảo hiểm này thì các định chế cũng thu lợi một cách gián tiếp thông qua việc làm đẹp hình ảnh của mình trong con mắt khách hàng như là những định chế có trách nhiệm xã hội cao. Nhưng rõ ràng việc “trục lợi” này là tốt cho tất cả các bên, bởi khách hàng của các định chế này được thêm quyền lợi mà không phải bỏ ra thêm xu nào, còn quốc gia thì có thêm phần ổn định bởi một số người không may mắn bị dịch bệnh sẽ được một tổ chức phi chính phủ khác tài trợ mà không cần phải trông vào ngân sách để hỗ trợ.

Một điểm đáng chú ý khác là ở Singapore dường như không có hãng bảo hiểm nào tung ra gói bảo hiểm riêng liên quan đến Covid cho người cư trú ở Singapore khi bị nhiễm Covid tại Singapore, ngoài những gói bảo hiểm miễn phí cho khách hàng hiện hữu như nói ở trên, và ngoài các gói bảo hiểm du lịch nước ngoài. Lý do của sự thiếu vắng các gói bảo hiểm riêng liên quan đến Covid ở Singapore là điều chưa được đề cập đến, ngoài một số khuyến nghị rằng mọi người nếu chưa có, chưa mua bảo hiểm y tế thì hãy mua ngay (vì các gói bảo hiểm y tế này đương nhiên sẽ bao gồm bảo hiểm khi bị nhiễm Covid).

Liên hệ những chuyện này với Việt Nam. Một số công ty bảo hiểm ở Việt Nam gần đây đã tung ra các gói bảo hiểm liên quan đến Covid. Sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu chấm dứt việc này. Do không có một lý do nào được công bố đằng sau động thái này nên có một số đồn đoán đã được đưa ra để giải thích cho yêu cầu này của Thủ tướng. Nổi bật nhất là lý giải rằng việc ra yêu cầu này là để ngăn tình trạng trục lợi cả từ phía công ty bảo hiểm (Covid được xem là thảm họa nên công ty bảo hiểm sẽ được quyền từ chối bồi thường khách hàng bị nhiễm Covid) và người mua bảo hiểm (cố tình bị nhiễm để được đền bù).

So sánh với trường hợp bảo hiểm ở Singapore, việc Việt Nam cấm hãng bảo hiểm tung ra gói bảo hiểm Covid riêng không phải là ngoại lệ, tuy, như đã nói, lý do thực sự đằng sau đó là điều không rõ ràng, chưa được đề cập đến một cách chính thức. Nhưng ở Việt Nam cũng đã có một số ngân hàng, tổ chức cung cấp miễn phí các gói bảo hiểm Covid cho một số đối tượng (ví dụ như nhân viên ngân hàng và gia đình của họ). Điều này là khá giống với ở Singapore, và cho thấy có lẽ chỉ có các gói bảo hiểm miễn phí mới được phép và khuyến khích.

Dẫu vậy, có một điều chắc chắn rằng lý do để tránh xảy ra việc trục lợi của cả công ty bảo hiểm lẫn người mua bảo hiểm ở Việt Nam như trên là bất hợp lý. Việc các công ty bảo hiểm, ngân hàng và các tổ chức phi tài chính khác tự nguyện (mua) bảo hiểm Covid cho khách hàng của mình ở Singapore và cả ở Việt Nam cho thấy trong mắt các tổ chức này thì rủi ro khách hàng cố tình làm bị nhiễm Covid để được bảo hiểm là không đáng kể. Kể cả rủi ro này có tồn tại thì vẫn là nhỏ so với những lợi ích mà các tổ chức này thu được, như nói ở trên.

Các công ty bảo hiểm liên đới rõ ràng cũng không thể trục lợi bằng cách (bán) bảo hiểm Covid cho khách hàng để rồi tuyên bố rằng Covid là thảm họa đề từ chối bồi thường, bởi các điều kiện thụ hưởng được quy định rõ ràng trong hợp đồng bảo hiểm ký kết với người được bảo hiểm, không có điều khoản miễn trừ nào như vậy. Điều này đồng nghĩa với việc khi người được bảo hiểm bị nhiễm Covid và thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì công ty bảo hiểm sẽ phải chi trả như cam kết chứ không phủi tay được.

Về lo ngại rằng người mua bảo hiểm cố tình bị nhiễm Covid để trục lợi, rõ ràng là sẽ có rất ít người (nếu có) tỉnh táo, có năng lực nhận thức bình thường lại mạo hiểm mạng sống của mình và đủ thứ rủi ro, phiền hà liên quan cho bản thân và gia đình khi cố tình nhiễm bệnh để hưởng một ít tiền hỗ trợ nằm viện (10-15 triệu đồng ở Việt Nam và 100-200 SGD/ngày ở Singapore) hoặc khi chết (100-150 triệu đồng ở Việt Nam và 10.000-25.000 SGD ở Singapore). Bởi vậy, và như nói ở đoạn trên, rủi ro của việc này là không đáng kể, nếu có.

Cuối cùng, lý do mà người viết có thể nghĩ ra để giải thích cho việc không có các gói bảo hiểm Covid riêng ở Việt Nam và Singapore là vì chúng không thật sự thiết yếu, không có không được vì thực tế là ở Singapore hay ở Việt Nam Chính phủ đều đài thọ toàn bộ chi phí liên quan Covid, và người cư trú đa phần có bảo hiểm y tế dưới dạng này hay dạng khác. Sự thiếu vắng các sản phẩm này càng là điều có ý nghĩa trong bối cảnh Chính phủ muốn tập trung các nguồn lực tài chính hữu hạn, gồm của các công ty bảo hiểm, để đối phó hữu hiệu hơn với Covid, đặc biệt khi nó bùng phát nghiêm trọng trên cả nước.  

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).