Friday 10 April 2020

Thông tư 01 sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn số 579, 26/3-1/4/2020)

http://epaper.doanhnhansaigon.vn/epaper/flipbook/so-579-263---142020-2103.html

Ngày 12/3, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ký ban hành Thông tư số 01/2020, quy định về tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Một trong những điểm đáng lưu ý trong thông tư là phạm vi giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch. Theo đó, dường như thông tư chỉ đề cập đến giải pháp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gốc và lãi), miễn giảm lãi, phí, và giữ nguyên nhóm nợ. Như vậy, thông tư không có, không quy định giải pháp hỗ trợ là cho vay mới khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch, như đã có một số người nhận định trước đó. Đây là một điểm tích cực, nếu xét từ góc độ rủi ro tín dụng và nợ xấu và tác động lên chính sách tiền tệ của NHNN.

Vẫn có rủi ro, tác động tiêu cực cho TCTD

Khi TCTD tái cơ cấu thời hạn trả nợ cho các khoản tín dụng hiện hữu thì có nghĩa là sẽ có một lượng vốn cho vay đến hạn trả lại cho TCTD từ các khoản tín dụng hiện hữu cho khách hàng chịu ảnh hưởng dịch bệnh sẽ không được trả lại cho TCTD đúng hạn để từ đó TCTD cho vay lại các đối tượng khác.

Tương tự, khi TCTD hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng dịch bằng cách giảm lãi, phí cho các khoản tín dụng hiện hữu thì sẽ góp phần làm giảm nguồn thu của TCTD, đồng thời cũng làm giảm nguồn vốn sẵn sàng cho vay các đối tượng khác.

Ngay cả việc TCTD giữ nguyên nhóm nợ một số khoản cho vay cũng góp phần gia tăng rủi ro, thiệt hại cho TCTD trên một số phương diện nào đó. Ví dụ, tuy khách hàng vay vốn đã ở tình trạng mất khả năng thanh toán nhưng khoản vay vẫn được giữ nguyên phân loại (tốt) nên TCTD không thể phạt trả nợ chậm, trả nợ không đúng hạn, hoặc, tệ hơn, không thể thanh lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Như thế, nguồn thu và chất lượng tài sản của TCTD cũng bị ảnh hưởng tiêu cực, từ đó thu hẹp nguồn vốn có thể cho vay các khách hàng (tiềm năng) khác.

Và thêm gánh nặng cho NHNN

Trên danh nghĩa, thông tư giao nhiệm vụ cho TCTD tự quyết định việc hỗ trợ (và tự chịu hậu quả, thiệt hại). Tuy nhiên, việc nguồn vốn sẵn sàng cho vay của TCTD bị sụt giảm bởi phải tái cơ cấu khoản vay, miễn, giảm lãi, phí cho khách hàng chịu ảnh hưởng dịch sẽ có thể tạo ra áp lực lên mặt bằng lãi suất chung nếu nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế không bị ảnh hưởng đáng kể bởi dịch.

Ngoài ra, nếu tổn thất của TCTD tham gia hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch lớn đến một mức nào đó thì sẽ có nhiều kiến nghị NHNN có giải pháp hỗ trợ chính TCTD để giúp chúng giảm thiểu thiệt hại. Giải pháp này có thể là cho vay tái cấp vốn, vay ưu đãi với lãi suất thấp, giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc hoặc tăng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc v.v...

Nợ xấu gia tăng bởi khách hàng mất khả năng thanh toán cũng gây sức ép cho NHNN phải đảm bảo thanh khoản dồi dào trong hệ thống, đảm bảm tăng trưởng tín dụng ở mức độ cần thiết để giúp kéo giảm tỷ lệ nợ xấu (vì tỷ lệ nợ xấu được tính trên tổng dư nợ).

Tất cả những điều trên hợp lại sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ của NHNN. Thực ra, vấn đề này không phải là vấn đề riêng của Việt Nam mà còn là vấn đề chung của nhiều nước. Điều này cũng là lý do giải thích tại sao các nước trên thế giới thi nhau nới lỏng tiền tệ, hạ lãi suất bất chấp đã có nhiều chuyên gia, học giả cho rằng hành động hạ lãi suất của các ngân hàng trung ương không có tác dụng gì bởi, ví dụ, dịch bệnh làm cho người dân sợ hãi ra đường nên dù có cho doanh nghiệp vay tiền với lãi suất thấp thì doanh nghiệp cũng không có đủ nhân công làm việc.

Nhưng sẽ đỡ rủi ro hơn là khi phải hỗ trợ cho vay mới

Như đã nói ở trên, thông tư không quy định TCTD phải tiếp tục cho vay mới khách hàng chịu ảnh hưởng dịch. Điều này rất có ý nghĩa cho TCTD ở khía cạnh là trước tiên nó giúp TCTD không phải tăng cường huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vay mới không chỉ của khách hàng (mới) không bị ảnh hưởng bởi dịch mà còn cả khách hàng (hiện hữu) bị ảnh hưởng bởi dịch.

Tiếp đó, việc không phải cho vay mới khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch còn giúp TCTD hạn chế nợ xấu gia tăng thêm. Bởi đối tượng khách hàng này có tương lai khá bất định nên rủi ro trả nợ cũng sẽ tăng lên, kéo theo tỷ lệ nợ xấu chung của TCTD nếu TCTD tiếp tục cho vay mới các đối tượng này.

Cả 2 điều trên cũng sẽ giúp giảm gánh nặng lên chính sách tiền tệ của NHNN do áp lực đáp ứng nhu cầu vốn và kiềm chế tỷ lệ nợ xấu không bị tăng quá mức như khi TCTD bị ép buộc phải cho vay mới khách hàng bị cảnh hưởng bởi dịch.

Tóm lại, việc yêu cầu TCTD hỗ trợ khách hàng vay bị ảnh hưởng bởi dịch có thể là việc phải làm và sẽ gây ra thêm rủi ro, gánh nặng không chỉ cho TCTD mà còn cho cả chính sách tiền tệ của NHNN. Tuy nhiên, điểm tích cực trong Thông tư 01/2020 là nó đã không ép buộc TCTD phải cho vay mới khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch như dư luận kỳ vọng ban đầu, nhờ đó hạn chế rủi ro, thiệt hại liên quan cho TCTD nói chung và cho NHNN nói riêng.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).