Friday 15 May 2020

Sự điều chỉnh cần thiết (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 14/5/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/303506/su-dieu-chinh-can-thiet-voi-cac-chinh-sach-hau-covid.html
Ngày 9/5, Thủ tướng đã chủ trì Hội nghị đối thoại với doanh nghiệp để tìm ra các biện pháp vượt qua thách thức, đón thời cơ, phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Từ hội nghị này, toát lên mấy điểm đáng chú ý.

Trước hết, có lẽ hội nghị này là lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ đề cập đến một chỉ tiêu tăng trưởng GDP mới thấp hơn mức mục tiêu cần đạt được nêu ra hồi tháng 4, thời điểm cả nước đang ở cao trào của dịch. Cụ thể hơn, trong hội nghị đối thoại tháng 5 này, Thủ tướng nhấn mạnh năm 2020 tăng trưởng Việt Nam phải đạt trên 5%.  

Nếu so với tinh thần “quyết không điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng” hồi tháng 4 (tức tăng trưởng vẫn phải đạt khoảng 6,8% năm 2020) thì mức 5% tuyên bố trong hội nghị là một sự điều chỉnh giảm đáng kể, bằng khoảng 3/4 mục tiêu tăng trưởng đặt ra trước đây.

Trong những tháng trước đây, người viết đã đôi lần khuyến nghị Chính phủ cần phải giảm mục tiêu tăng trưởng trong vòng xoáy của đại dịch cùng với tất cả các sự bất trắc đi kèm, sản sinh từ nó. Khuyến nghị này chủ yếu được rút ra từ những bài học đối phó với khủng hoảng trong quá khứ, đặc biệt giai đoạn 2009-2010. Thời kỳ đó, sự “quyết liệt” thúc đẩy tăng trưởng qua các gói “kích cầu” mù quáng đã để lại di chứng nghiêm trọng cho nền kinh tế trong suốt những năm sau này, dù tăng trưởng GDP trong thời kỳ đó cũng “nhúc nhắc” tăng thêm được đôi chút.

Sự cương quyết không điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng hồi tháng 4 đặt ra rủi ro đáng kể về sự lặp lại những sai lầm cũ, bởi đơn giản là để đạt được tốc độ tăng trưởng cao đến mức thành không tưởng như vậy trong bối cảnh mọi thứ mù mịt, nhìn đâu cũng thấy khó khăn thì sẽ chẳng có một giải pháp nào ngoài việc phải tung tiền ra hết cỡ  một cách cũng mù quáng gần như trước đây để đạt được sự bứt phá ngắn hạn nào đó về tăng trưởng.

Rất may là có lẽ cũng đã học được những bài học đắt giá trong quá khứ nên các cơ quan chức năng lần này đã trở nên thận trọng hơn rất nhiều trong “chiến dịch giải cứu” nền kinh tế dù vẫn còn nguyên đó áp lực phải góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng cao. Rõ thấy nhất là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã không còn (phải) tung ra những gói cho vay hỗ trợ lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. NHNN dù cũng phải yêu cầu hệ thống ngân hàng thương mại tích cực và tăng cường hỗ trợ nền kinh tế, và NHNN cũng gián tiếp hỗ trợ qua việc cho vay tái cấp vốn, nhưng NHNN đã công khai lặp lại xuyên suốt một chủ trương nhất quán là kiên quyết không hạ chuẩn cho vay để tránh phát sinh nợ xấu, bất chấp đây đó có nhiều lời kêu gọi giải cứu từ phía các tổ chức hữu trách liên đới, hiệp hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Thực tế này cho thấy tinh thần tăng trưởng kinh tế nhưng không phải là bằng mọi giá, tăng trưởng phải đi đôi với ổn định vĩ mô đã trở thành nhận thức chung hiện nay, chứ không chỉ dừng lại ở lời hô hào hay là khẩu hiệu bề ngoài nữa.

Và cho đến hội nghị ngày 9/5 thì Thủ tướng đã gián tiếp công nhận sự điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng, qua đó cũng là trực tiếp “giải cứu” cho các cơ quan chức năng như NHNN không phải đau đầu tìm điểm cân bằng giữa một bên là áp lực từ Thủ tướng, từ Chính phủ và một bên là nhu cầu đảm bảo an toàn hệ thống và sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Vấn đề tiếp theo là sự phù hợp của mục tiêu tăng trưởng 5%. Mục tiêu này vẫn là cao hay đã đủ thấp, trong tầm tay mà không gây ra nguy cơ bất ổn lớn nào cho kinh tế vĩ mô (nhưng vẫn là mức cao lý tưởng cho kinh tế thế giới)? Vì ngay như IMF cũng chỉ dự báo, như Thủ tướng cho biết, tăng trưởng  của Việt Nam năm nay chỉ là 2%.

Trong và ngoài hội nghị cũng có nhiều nhận định về cơ hội “hiếm có”, cơ hội “vàng” cho Việt Nam, sự “chuyển biến ngoạn mục”, gây “kinh ngạc” cho thế giới... thời hậu đại dịch, cũng như khuyến nghị chính sách này khác để Việt Nam khắc phục các khó khăn, trở ngại, tận dụng tốt các cơ hội trời cho này. Nhưng tiếc là nhiều trong số nhận định lạc quan này vẫn mang hơi hướng suy diễn chủ quan, tạo nên ấn tượng Việt Nam là một thỏi nam châm mới của thế giới, tương tự như nhận định thời TPP trước đây rằng Mỹ rất thiết tha với TPP, tìm mọi cách lôi kéo Việt Nam vào TPP vì tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam trong thỏa thuận này.

Trong những khuyến nghị chính sách, trừ những cái “độc đáo” như kiểu đặt trần lãi suất tiền gửi dài hạn 5%/năm, còn thì phần lớn các khuyến nghị còn lại chung quy lại chỉ đòi nhà nước mở hầu bao hỗ trợ cho, hoặc giảm thu ngân sách (thuế, phí...) từ đối tượng này, đối tượng kia.

Chắc chủ nhân của kiến nghị đặt trần lãi suất cũng biết rõ sự hữu hiệu cũng như khả năng thực thi của trần lãi suất suốt cả thời gian trước đây, nhất là mỗi khi có cuộc đua lãi suất của các ngân hàng thương mại, nên chắc cũng sẽ biết rõ khả năng phá sản của khuyến nghị của mình.

Với những khuyến nghị khác về việc nhà nước tăng chi, giảm thu thì phải nói thẳng thắn là chẳng có gì là mới mẻ, là “độc đáo Việt Nam” nên cũng khó mà hy vọng sẽ tạo ra một bước chuyển biến ngoạn mục hay gây kinh ngạc gì, nếu không muốn nói khác đi vì khả năng tăng chi, giảm thu của Việt Nam còn hạn hẹp hơn rất nhiều nước khác trên thế giới.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).