Friday 8 May 2020

Đừng để quản lý chỉ là hình thức (Bài đăng trên TBKTSG bản in, 29/4/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/303062/tbktsg-so-18-2020-chien-luoc-kinh-te-song-chung-voi-dai-dich.html

Hồi tháng 3 năm nay, theo báo chí và website của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban) thì Ủy ban đã phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển năm 2020 của 9 trong số 19 tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban quản lý, gồm Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Tổng công ty Viễn thông MobiFone (MobiFone), Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (CTCP), Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Vietnam Airlines (HVN), và Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV).

Chung quy vẫn là lỗi chủ quan

Kể từ tháng 3 đến thời điểm bài viết, hoàn toàn không có thêm thông tin cập nhật gì thêm về chuyện phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh này nên có thể suy ra rằng hiện tại vẫn chỉ có 9 tập đoàn, tổng công ty là đã có kế hoạch sản xuất, kinh doanh được phê duyệt. Như vậy, vẫn còn đến hơn một nửa số tập đoàn, tổng công ty thuộc quản lý của Ủy ban đang sản xuất, kinh doanh, đầu tư... vô kế hoạch!

Không rõ lý do của việc chậm chễ này, nhưng căn cứ theo thông tin trên báo chí hồi tháng 3 rằng Vinalines vẫn chưa có báo cáo tài chính quý 4 năm 2019 (1) thì có thể cho rằng một phần lý do của sự chậm chễ này là do một số tập đoàn, tổng công ty vẫn chưa nộp báo cáo tài chính và (do đó) chưa đệ trình kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển năm 2020 để Ủy ban phê duyệt.

Nếu đúng là vì lý do không/chưa có báo cáo tài chính, không/chưa nộp kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển thì trách nhiệm hàng đầu vẫn thuộc về Ủy ban bởi đã không thúc giục, bắt buộc các tập đoàn, tổng công ty nộp báo cáo và kế hoạch đầy đủ, đúng hạn, trong khi một số tập đoàn và tổng công ty khác đã hoàn thành nghĩa vụ này.

Nếu có lý do rằng Ủy ban đã nhận được báo cáo, kế hoạch từ doanh nghiệp nhưng họ vẫn chưa phê duyệt được bởi những yếu tố “khách quan” như không đủ nhân lực có trình độ, đạt yêu cầu cho nhiệm vụ phê duyệt này thì đây không còn là yếu tố khách quan nữa, mà hoàn toàn mang tính chủ quan. Bởi Ủy ban đã được thành lập từ hơn hai năm nay với sứ mệnh gồm phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuộc quản lý nên việc tuyển đủ nhân lực như yêu cầu và quy hoạch phải là một trong những đầu công việc trọng tâm phải làm ngay. 

Còn nếu quy cho một lý do “khách quan” khác nghe dễ thuyết phục hơn rằng đã có sự “vênh” trong hiểu và diễn giải các văn bản pháp luật liên quan trong mối quan hệ nghiệp vụ giữa Ủy ban và các bộ nên dẫn đến việc phê chuẩn chậm chễ... thì Ủy ban vẫn không thoát được trách nhiệm hàng đầu bởi là cơ quan duy nhất phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thuộc quản lý nên phải tích cực, chủ động giải quyết sự “vênh” này bằng những cách như trình Thủ tướng cho ý kiến xử lý... Cần lưu ý rằng Thủ tướng cũng đã phê bình việc Ủy ban chưa đề xuất được thể chế để sửa các vướng mắc như cơ chế, chính sách chồng chéo, chưa rõ ràng... (2)

Căn cứ phê duyệt là dấu hỏi

Không rõ căn cứ nào để Ủy ban xem xét và phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng rất có thể Ủy ban chủ yếu vẫn phải dựa vào kế hoạch đệ trình bởi doanh nghiệp rồi “nâng lên đặt xuống” một vài con số nào đó.

Dẫu vậy, hãy trở lại với trường hợp chưa có báo cáo tài chính quý 4/2019 của Vinalines. Sự thiếu vắng này cho thấy ít nhất là đối với Vinalines, kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ được Ủy ban phê duyệt khi chưa rõ doanh thu, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác cho cả năm 2019 là như thế nào để từ đó làm căn cứ cho việc lập kế hoạch năm nối tiếp (2020). Hay nói một cách không quá lời rằng kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư của những doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban (như Vinalines) và việc phê duyệt chúng nhiều khi chỉ là để cho có!

Đó là chưa kể thực tế là hiện nay vốn đầu tư cho một số dự án của những doanh nghiệp như VEC đang gặp vướng mắc (liên quan đến việc bàn giao các doanh nghiệp này về Ủy ban mà không còn nằm dưới sự quản lý của Bộ Giao thông Vận tải nữa). Sự vướng mắc này chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp này ít nhất trong năm 2020. Thế nhưng dường như vấn đề này đã không được cân nhắc khi Ủy ban phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư của những doanh nghiệp này. Bởi vậy, chất lượng kế hoạch sản xuất kinh doanh và ngay cả việc phê duyệt là một dấu hỏi.

Tóm lại, với sự chậm chễ nghiêm trọng cùng với tồn tại hiện hữu về chất lượng trong việc phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban, có thể nói rằng việc quản lý các tập đoàn và tổng công ty thuộc Ủy ban chỉ là hình thức, diễn ra trên giấy. Như vậy, dù Ủy ban đã trải qua một thời gian tồn tại và hoạt động không thể nói là ngắn, năng lực quản lý, vận hành và, do đó, ý nghĩa tồn tại của Ủy ban cần phải được xem xét lại một cách nghiêm túc.    

(1) https://cafef.vn/sieu-uy-ban-duyet-phuong-an-kinh-doanh-2020-cho-loat-tap-doan-tong-cong-ty-20200228111739082.chn

(2) https://thanhnien.vn/thoi-su/uy-ban-quan-ly-von-con-cham-thuc-hien-mot-so-viec-quan-trong-1172976.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).