Friday 31 July 2020

Dân đổ xô mua và giữ vàng có làm lãng phí nguồn lực quốc gia? (Bài đăng trên TBKTSG Online, 31/7/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/td/306574/dan-do-xo-mua-va-giu-vang-co-lam-lang-phi-nguon-luc-quoc-gia.html

Trong nước và thế giới đã nhiều phen trải qua cơn sốt vàng, với giá vàng tăng dựng đứng và liên tục nhiều ngày. Cứ mỗi lần như vậy, kể cả như thời gian hiện nay, lại có nhiều ý kiến hết can ngăn người “chơi” vàng rồi lại khuyến nghị cơ quan chức năng “dẹp loạn”, dập tắt cơn sốt vàng, dập tắt đầu cơ vàng với lý do sốt vàng sẽ làm tăng nạn “vàng hóa” và việc người dân đổ xô mua và ôm giữ vàng sẽ làm lãng phí một nguồn lực quốc gia lớn...

Xin nói về ý thứ nhất, can ngăn người dân đầu cơ, lướt sóng vàng. Cần phải thẳng thắn nói đây là chuyện “bao đồng”. Có lẽ những người khuyên can này được phỏng vấn, được hỏi thì phải nói thế cho hợp cảnh, bởi cũng khó mà nói khác đi được.

Nhưng đối với nhiều, rất nhiều người thì vàng nổi sóng mới là điều được mong chờ, vì chỉ có thế thì người ta mới lướt sóng được, mới có cơ hội kiếm lãi từ đầu tư vàng. Nay can ngăn, tệ hơn là dùng bàn tay của cơ quan chức năng để hạn chế, cấm người dân đầu tư/đầu cơ vàng thì đó không chỉ là một hành vi đi ngược với tinh thần kinh doanh tự do trong nền kinh tế thị trường mà còn không phải là một điều được hoan nghênh, chí ít bởi những lời can ngăn này thường chỉ chung chung, cảm tính.

Không cần phải vạch vòi, kiểm nghiệm lại những thời điểm khi có lời can ngăn với diễn biến giá vàng sau đó (mà gần nhất là đang xảy ra tuần trước và tuần này), chắc chắn sẽ có nhiều người phải ôm hận vì trót... nghe lời can ngăn này để mà không mua vàng. Giá mà những người can ngăn nói đúng được rằng giá vàng sẽ đạt mức X đồng/lượng vào giờ Y ngày này tháng này năm này thì đã không có chuyện gì đáng nói.

Chuyển sang ý thứ hai, với nhận thức sai lầm rằng sốt vàng, đầu cơ vàng là có hại cho nền kinh tế nên đã có một thời gian đến hàng năm cơ quan chức năng ở Việt Nam đã loay hoay tìm cách ngăn chặn sốt vàng, thậm chí đòi “bình ổn” giá vàng bằng đủ phương cách có thể nghĩ ra. Ngay cả giới chuyên gia cũng cho rằng nắm giữ vàng chẳng khác gì chôn tiền xuống đất, lãng phí ghê gớm một nguồn lực lớn trong dân (mà bằng cách vi diệu nào đó họ ước tính được đến 500 tấn vàng) lẽ ra có thể huy động đưa vào sản xuất, kinh doanh trong khi nền kinh tế đang khát vốn vô cùng. Cùng với lý lẽ này là những đề xuất vi diệu không kém như huy động vàng trong dân bằng cách phát hành chứng chỉ vàng (tức đổi vàng thật lấy giấy)...

Xin nói ngay rằng người dân có mua vàng hay mua bất cứ một tài sản gì có tính chuyển đổi, mang giá trị thì đều không làm ảnh hưởng, suy suyển gì “nguồn lực” hay lượng của cải có trong dân, trong nền kinh tế cả. Bởi đơn giản là vàng hay các tài sản có tính chuyển đổi khác như ngoại tệ và các giấy tờ có giá khác chỉ là công cụ thanh toán, lưu giữ giá trị để người dân trao đổi của cải của mình. Tôi có vàng bán cho anh mua. Dù anh có mua về đem chôn một chỗ thì số tiền anh trả cho tôi sẽ được tôi sử dụng vào những mục đích khác, gồm trực tiếp đưa vào sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, của cải của anh trước đây nằm dưới dạng tiền mặt (tiền đồng) nhưng anh không muốn trực tiếp sản xuất, kinh doanh nên đem nó đổi cho tôi để lấy vàng, còn tôi vì không muốn giữ của bằng vàng nữa mà muốn khởi nghiệp nên quyết định đổi lấy tiền đồng của anh để làm ăn.

Nếu vẫn thấy hơi khó hiểu về chuyện đổi chác này thì chỉ cần liên hệ với chuyện người dân có USD bán đi lấy tiền đồng. Lúc đó sẽ thấy việc nắm giữ vàng cũng chẳng khác là bao (về bản chất) so với nắm giữ các tài sản khác như ngoại tệ. Nên nếu không ai lên tiếng cảnh báo với phê phán người dân, nhà đầu tư nắm giữ USD thì cũng xin đừng làm thế với vàng.

Sẽ có người bẻ lại rằng đó chỉ là đang nói đến số vàng sẵn có trong nền kinh tế, chứ nếu mua vàng từ bên ngoài (thế giới) thì chẳng phải là đang hy sinh một nguồn lực (ngoại tệ) lẽ ra có thể đầu tư vào sản xuất, kinh doanh trong nước để lấy một khối vàng nằm im một chỗ, chẳng sinh lời lãi, chẳng giúp ích gì cho nền kinh tế hay sao?

Xin trả lời rằng không ai cấm nhà đầu tư bán vàng ngược lại ra thế giới lúc giá vàng lên cao để thu lãi. Vậy thì thay vì nhà đầu tư phải bất đắc dĩ tự biến thành nhà sản xuất, nhà kinh doanh trong nước để kiếm lợi nhuận thì họ vẫn có thể kiếm được lợi nhuận cho bản thân, và gián tiếp cho nền kinh tế trong nước (thông qua thuế phí) nhờ mua bán vàng với phần còn lại của thế giới với tư cách là nhà đầu tư/đầu cơ vàng. Tất nhiên là trừ trường hợp cơ quan chức năng vì nhận thức sai như nói ở trên nên cấm nhà đầu tư buôn bán vàng kiểu này, như đã và đang xảy ra ở Việt Nam. 

Lại có người sẽ nói đổ xô vào vàng sẽ làm chảy máu ngoại tệ (tức phải tốn USD để nhập khẩu vàng), nên cần cấm đầu cơ, mua vàng (từ nước ngoài). Nhưng họ không nghĩ rằng vàng cũng là tiền, cũng là ngoại tệ. Nếu cần thì chỉ mất chút thời gian để bán vàng và thu về USD hoặc bất cứ ngoại tệ nào họ cần. Tất nhiên, cần lặp lại rằng, với điều kiện là việc bán này được tự do tiến hành mà không bị ngăn cản bởi cơ quan chức năng.

Về ý kiến lo ngại “vàng hóa” nếu để vàng được tự do mua bán, thông thương trong nước và thế giới. Cần biết rằng vàng hóa hay đô la hóa chỉ xảy ra khi quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém dẫn đến lòng tin vào nội tệ suy giảm xuống đến thậm chí là 0, buộc người dân phải sử dụng đến một công cụ mang tính tiền tệ khác là vàng hoặc ngoại tệ để thuận tiện trong trao đổi và an toàn trong bảo lưu giá trị tài sản, của cải của mình. Vậy thì thay vì lo ngại mở cửa thị trường sẽ dẫn theo vàng hóa, cơ quan chức năng cần trước hết phải làm tốt chức trách của mình là duy trì lòng tin vào đồng nội tệ.

Nhưng nói cho cùng, đã chấp nhận để cho USD lưu hành trong nền kinh tế, vẫn được chấp nhận để gửi vào ngân hàng, vẫn được mua bán tương đối dễ dàng thì cớ gì lại có thái độ cực đoan hơn với vàng – vốn có chức năng chẳng khác mấy so với USD? 

Tóm lại, nhân cơ hội vàng đang sốt, đang ở mức giá cao kỷ lục, cần nhìn lại những sai lầm trong quan niệm với vàng để có thái độ ứng xử “đúng mực” với nó hơn.

Sunday 26 July 2020

Giải cứu Vietnam Airlines như thế nào cho hợp lý? (Bài đăng trên TBKTSG, 26/7/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/306164/giai-cuu-vietnam-airlines-nhu-the-nao-cho-hop-ly-.html

Gần đây việc giải cứu Vietnam Airlines (VNA) đã làm nóng dư luận, với ngày càng có nhiều tiếng nói có trọng lượng thiên về hướng nhà nước bỏ vốn để giải cứu VNA.

Nhìn chung, một trong những lập luận chủ yếu cho việc kêu gọi giải cứu VNA chủ yếu là bởi VNA là doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Nhà nước là chủ sở hữu. Không cứu VNA mà để nó phá sản thì Nhà nước sẽ mất vốn.

Lập luận trên thoạt nghe thì rất thuyết phục. Nhưng nếu chỉ vì là DNNN mà phải cứu thì chắc Nhà nước sẽ phải cứu cả những DNNN khác trước đây và hiện nay, bao gồm cả những DNNN đã phá sản trên nghĩa đen như Vinashin và những DNNN đang “đắp chiếu” thuộc Bộ Công thương. Nhưng Quốc hội và Chính phủ cũng đã xác định không bỏ vốn nhà nước để cứu giúp, tái cơ cấu những doanh nghiệp này và DNNN nói chung nữa. Nên VNA cũng không thể nên được coi là ngoại lệ để được cứu giúp chỉ vì là DNNN.

Sẽ có lập luận rằng VNA khác với các DNNN (yếu kém) khác ở chỗ VNA là một doanh nghiệp lành mạnh, nếu được cứu trợ thì chắc chắn sẽ phục hồi và phát triển tột, vì thế  Nhà nước không nên trì hoãn, bỏ lỡ cơ hội cứu trợ VNA. Nhưng cần biết rằng ngay cả SCIC dù rất muốn cứu VNA nhưng cũng phải thừa nhận rằng họ không thể bảo đảm nguyên tắc phát triển vốn, tức nôm na là không thể đảm bảo khả năng thu hồi lại khoản giải cứu rót cho VNA.

Ngoài ra, một mặt, dù cố gắng chứng minh VNA có khả năng phục hồi bằng cách nêu ra rằng lượng khách đi và tốc độ tăng trưởng doanh thu của VNA từ tháng 5 đã tăng vọt lên trong tháng 6 theo kiểu chữ V, nhưng mặt khác những người kêu gọi giải cứu lại thừa nhận rằng dù VNA đã mở thêm đến 18 đường bay nội địa mới trong ba tháng qua nhưng các đường bay này cũng chỉ có hiệu quả trong thời gian hè, còn từ quý IV trở đi thì “rất khó” (1). Như thế có nghĩa là không có gì khẳng định rằng VNA chắc chắn sẽ phục hồi (mạnh), ít nhất ở thời điểm này. Khỏi phải lặp lại câu chuyện tái cấu Vinashin với sự tin tưởng chắc như đinh đóng cột vào triển vọng có lãi sau ba năm tái cấu của nó để làm ví dụ cho thấy có khoảng cách rất xa giữa kỳ vọng và thực tế.

Tóm lại, không nên cứu VNA chỉ vì nó là DNNN, nhất là trong bối cảnh không thể khẳng định được triển vọng phục hồi của VNA và khả năng thu hồi vốn cứu trợ của Nhà nước vào VNA trong những năm tới, đặc biệt cần xét đến hoàn cảnh ngân sách giật gấu vá vai trong khi có nhiều vô kể doanh nghiệp và người lao động đang hết sức khó khăn, đang cần đến từng đồng tiền hỗ trợ của nhà nước để tồn tại. Cứu VNA có nghĩa là sẽ có nhiều triệu lao động và doanh nghiệp bị tước đi cơ hội được cứu trợ.

Đồng thời, giữ kỷ luật thị trường, tránh rủi ro đạo đức (doanh nghiệp được nhà nước bảo bọc có xu hướng “làm liều” vì rủi ro thế nào đã có nhà nước gánh chịu), đảm bảo định hướng cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước, và đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cũng là những lý do khác đòi hỏi Nhà nước không nên bơm tiền cứu trợ VNA.

Vì đã có nhiều kêu gọi và đề xuất chủ yếu thiên về hướng giải cứu VNA nên có nhiều khả năng Chính phủ sẽ hỗ trợ VNA bằng cách này hay cách khác, chứ không để mặc họ tự vật lộn với những khó khăn hiện hữu. Khi đó, câu hỏi đặt ra là nên giải cứu VNA như thế nào cho hợp lý nhất?

Trước hết, cần lưu ý là VNA dù vẫn còn là DNNN trên danh nghĩa khi Nhà nước vẫn nắm giữ trên 80% cổ phần tại VNA, nhưng ngoài Nhà nước thì VNA vẫn còn các cổ đông tư nhân khác như ANA và Vietcombank. Nên nguyên tắc giải cứu trước tiên là cần có sự “đồng giải cứu” của tất cả các cổ đông VNA, nhất là những cổ đông lớn như ANA và Vietcombank, chứ không chỉ có mỗi cổ đông Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm cứu trợ hoàn toàn. 

Nhưng đến đây thì lại có lời biện hộ cho rằng ANA cũng đang gặp khó khăn, phải đi vay cả chục tỷ đô la từ Chính phủ Nhật nên không trông chờ được gì vào họ. Nếu sau khi đã xác định được rằng những cổ đông lớn của VNA không muốn, không thể bỏ tiền ra cùng với Nhà nước cứu trợ VNA thì cần phải thực thi nguyên tắc thứ hai về cứu trợ, đó là ai (trong số cổ đông hiện hữu) bỏ vốn ra cứu trợ thì phải được đặt ra điều kiện, phải được lợi từ việc cứu trợ này.

Hãy xem kinh nghiệm từ việc Chính phủ Đức cứu trợ Lufthansa. Trước tiên cần lưu ý rằng sau khi cứu trợ 10 tỷ đô la thì Chính phủ Đức sẽ nắm 20% cổ phần của hãng này. Có nghĩa là Lufthansa trước và kể cả sau khi được giải cứu hoàn toàn không phải là DNNN, kể cả với định nghĩa rộng như của Việt Nam.

Quan trọng hơn, Chính phủ Đức bỏ ra 10 tỷ đô la cho hãng này với điều kiện đổi lấy 20% cổ phần, tức là Chính phủ mua cổ phiếu của hãng với giá chiết khấu rất lớn, chỉ chưa bằng 1/3 thị giá. Điều này ban đầu đã bị chính các cổ đông lớn của hãng phản đối, nhưng sau đành chấp nhận vì nhận ra rằng thà bán rẻ còn hơn bị phá sản (2).

Do vậy, việc giải cứu này thực chất chỉ là một vụ mua bán đơn thuần. Chính phủ Đức rót vốn cho cho Lufthansa nhưng hành động “cứu trợ” này phải được đảm bảo bằng lợi ích tài chính để giảm thiểu khả năng hao hụt tiền nhà nước, thông qua tỷ lệ hoán đổi cổ phần cao với phần thiệt nghiêng về doanh nghiệp. Dẫu vậy, cần lưu ý rằng đây mới chỉ là đề xuất song phương. Thương vụ này còn phải đợi phê chuẩn của cơ quan quản lý cạnh tranh của EU. Điều này có nghĩa là cứu trợ gì thì cũng phải đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

Tương tự như với Lufthansa, nếu chỉ có mỗi Nhà nước Việt Nam đứng ra giải cứu VNA thì VNA cũng như các cổ đông khác của VNA phải chấp nhận điều kiện là VNA sẽ trả cho Nhà nước số cổ phần giá trị gấp hơn vài lần số tiền cứu trợ theo thị giá. Điều này đồng nghĩa với việc các cổ đông lớn khác của VNA như ANA hay Vietcombank sẽ bị thiệt hại nặng nề (giảm cổ phần). Nếu các cổ đông này vẫn đồng ý, sẵn sàng chấp nhận sự thiệt hại này thì Chính phủ lúc đó hãy xem xét việc cứu trợ.

Đồng thời, cũng cần đảm bảo sự rót vốn nhà nước cho VNA không đi kèm với những hành động ngăn cản cạnh tranh lành mạnh, mang tính phân biệt đối xử giữa VNA với các hãng hàng không tư nhân khác ở Việt Nam chỉ vì để đạt mục đích giúp cho VNA có thêm cơ hội hồi phục. Ví dụ về những hành động cản trở cạnh tranh này có thể bao gồm việc chỉ định riêng chỉ có VNA được cung ứng một số dịch vụ nào đó,  hoặc cho vay với lãi suất thấp, thậm chí là 0% như trong đề xuất hiện tại của VNA.

Saturday 11 July 2020

Định hướng chính sách tiền tệ mới, tái cấp vốn cho dự án công trình liệu có hiệu quả? (Bài đăng trên TBKTSG, 11/7/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/305677/dinh-huong-chinh-sach-tien-te-moi-tai-cap-von-cho-du-an-cong-trinh-lieu-co-hieu-qua.html

Mới đây Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có đưa ra định hướng giải pháp tiền tệ mới để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế là tái cấp vốn cho các dự án đầu tư công trọng điểm. Theo đó, giải pháp này được hiểu là thông qua các ngân hàng thương mại, NHNN sẽ bơm tiền (trung, dài hạn) trực tiếp cho các dự án trọng điểm dựa trên hồ sơ tín dụng của những dự án này (1).

Tại sao NHNN lại phải bơm vốn trực tiếp cho các dự án trọng điểm? Lý do được cho là hiện các ngân hàng thương mại tuy đang dư thừa thanh khoản nhưng đó là vốn ngắn hạn và doanh nghiệp không dễ tiếp cận, dù lãi suất đã giảm. Trong khi cái mà các doanh nghiệp/dự án cần là tiếp cận được vốn vay, nhất là vốn vay dài hạn dễ dàng hơn, với ít điều kiện ràng buộc, nhất là trong thời điểm dịch bệnh, mọi thứ đều xấu đi. Nên về nguyên tắc nếu NHNN không đứng ra cho vay thì nhiều doanh nghiệp và dự án (trọng điểm) sẽ bế tắc, ảnh hưởng xấu đến phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Nói cách khác, nếu tái cấp vốn theo kiểu trên thì nguồn vốn từ NHNN sẽ như là một nguồn vốn có tính “cho đi” là nhiều, với mức ưu đãi vượt xa cho vay ưu đãi thông thường của NHNN, bỏ qua nhiều điều kiện thông thường đòi hỏi như với các khoản vay thương mại, thông qua ngân hàng thương mại. NHNN cũng đương nhiên sẽ chấp nhận rủi ro cao là tiền cho vay “ra đi không trở lại” vì không có những thứ như tài sản thế chấp để bảo đảm khoản vay của mình.

Đến đây ta có thể thấy bản chất cho vay tái cấp vốn của NHNN như vậy cũng khá tương đồng với vốn đầu tư công. Khác chăng chỉ là Bộ Tài chính, thay cho NHNN, là người mở hầu bao cuối cùng, và cơ quan giải ngân là các cơ quan tài chính các cấp thay vì ngân hàng thương mại. Còn các đơn vị giải ngân vốn đầu tư công hoặc vốn cho vay từ NHNN đều là các doanh nghiệp, thực hiện các dự án, không có gì khác biệt về bản chất.

Từ đây lại nảy sinh tiếp vấn đề liên quan là giải ngân đầu tư công đang “tắc”, liệu giải ngân vốn cho vay của NHNN có chịu chung số phận?

Có lẽ sẽ có ai đó biện luận rằng điểm khác biệt ở đây sẽ là chữ “trọng điểm”. Vì là trọng điểm nên mọi thứ sẽ được chú ý, theo dõi, đôn đốc chặt chẽ hơn nên chắc sẽ không... tắc như đầu tư công. Bởi đầu tư công có thể được tiến hành trong nhiều dự án các loại, trọng điểm và không trọng điểm, nên đương nhiên là sẽ phải tắc vì không thể thể dàn hàng ngang cùng tiến nhanh, tiến mạnh như nhau.

Quay trở lại với định hướng trên của Thống đốc NHNN, được nêu cụ thể: “... tái cấp vốn cho các dự án công trình có tác động lan toả để hỗ trợ cho các khu vực kinh tế trọng điểm...” (2). Lưu ý là chữ “trọng điểm” trong định hướng này của Thống đốc là gắn với khu vực kinh tế, chứ không phải là dự án như được suy diễn ở trên.

Ở đây có hai “vùng mờ” cần được làm rõ. Thứ nhất, liệu dự án trọng điểm có nhất thiết phải là dự án có tác động lan tỏa hay không để được hưởng vốn vay của NHNN? Nếu câu trả lời là không, thì như nói ở trên, giải ngân vốn cho các dự án có tác động lan tỏa này sẽ có nhiều nguy cơ bị chậm chễ giống như số phận của nhiều dự án đầu tư công khác (vì không còn mang chữ “trọng điểm” nữa).

Thứ hai, thế nào là “có tác động lan tỏa” và nó được đo lường như thế nào? Nếu những khái niệm này không được định nghĩa, làm rõ thì sẽ tạo ra những lúng túng, bất cập trong việc lựa chọn, giám sát, đôn đốc thực thi dự án hưởng vốn vay của NHNN. Nói cách khác, sự không rõ ràng này có khả năng làm cho việc lựa chọn cho vay và giải ngân vốn vay của NHNN trở nên chậm chễ tương tự như với dự án đầu tư công.

Về cụm từ “khu vực kinh tế trọng điểm” trong định hướng của Thống đốc NHNN, đây có thể hiểu là các khu vực địa lý có nền kinh tế năng động, có vai trò và đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân, như TP. Hồ Chí Minh. Thế nhưng, bất chấp được coi là trọng điểm, địa phương này vẫn đang “lê lết” trên con đường giải ngân vốn đầu tư công như đã được tổng kết gần đây. Như thế  có nghĩa là dù là dự án có tính lan tỏa, hưởng vốn vay ưu đãi của NHNN, nằm trong các khu vực kinh tế trọng điểm thì các dự án này vẫn có nguy cơ cao là bị giải ngân chậm như với các dự án đầu tư công khác trên địa bàn thành phố. Mà cũng khó có thể nói những dự án đầu tư công đang bị ách tắc của thành phố không phải là dự án trọng điểm!

Nói tóm lại, vấn đề với các dự án trọng điểm hay không, có tính lan tỏa hay không, được đầu tư, quản lý bởi các cơ quan chức năng, cơ quan chủ quản của nhà nước không phải nằm ở chỗ là có tiếp cận được nguồn vốn trung, dài hạn, với lãi suất thấp hay không. Do đó, cho dù NHNN có tạo ra thêm một kênh cấp vốn cực kỳ dễ dãi và ưu đãi bên cạnh kênh đầu tư công thì sẽ rất khó lạc quan mà nói rằng các dự án đầu tư hưởng vốn vay ưu đãi của NHNN sẽ “hanh thông”, suôn sẻ, kịp thời hỗ trợ giải cứu nền kinh tế cả nước, thúc đẩy tăng trưởng.
Xem xét lại lý do giải ngân đầu tư công chậm, nguyên nhân ngắn gọn có lẽ nằm ở chữ “công”. Bởi vì là công cộng nên không có người lãnh đạo nào chịu trách nhiệm trước sự chậm chễ trong giải ngân và thực thi dự án, như thực tế đã cho thấy. Do vậy, để tránh nguy cơ nhãn tiền về giải ngân chậm cho các dự án đầu tư hưởng vốn vay của NHNN thì xem ra NHNN chỉ, cần phải cấp vốn cho những dự án “tư”, của và được quản lý bởi khu vực tư nhân, không dính dáng, liên quan gì đến các chủ trương, dự án đầu tư công, của nhà nước (ví dụ gói thầu xây dựng trong dự án đường cao tốc do nhà nước làm chủ đầu tư).
Nhưng liệu NHNN có dám và được phép “xé rào” đến mức độ như thế?

(2) https://bizlive.vn/tai-chinh/thong-doc-le-minh-hung-duy-tri-niem-tin-noi-room-tin-dung-cho-loat-ngan-hang-3547564.html

Thursday 2 July 2020

Giải ngân đầu tư công, lúc nào mới hết 'chậm bền vững'? (Bài đăng trên TBKTSG, 3/7/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/305428/giai-ngan-dau-tu-cong-luc-nao-moi-het-cham-ben-vung.html

Hội nghị trực tuyến về sơ kết và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nguồn vay nước ngoài năm 2020 mới đây đã công bố một số thông tin về hiện trạng giải ngân vốn đầu tư công, vốn vay nước ngoài của các bộ ngành địa phương sau 6 tháng đầu năm.

Không nằm ngoài dự tính, đã nửa năm trôi qua nhưng tỷ lệ giải ngân đầu tư công chỉ chiếm một phần nhỏ trong dự toán, kế hoạch. Cụ thể, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong nước kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước hiện đạt khoảng 28,2% kế hoạch. Tỷ lệ giải ngân vốn nước ngoài còn tệ hơn, mới chỉ được 13,1% của dự toán được giao.

Về nguyên nhân chậm chễ, Bộ Tài chính cho biết, việc giải ngân thấp là xuất phát từ việc triển khai thực hiện dự án của các cơ quan chủ quản, các chủ dự án. Dù vốn đầu tư đã được giao từ đầu năm nhưng vẫn còn một số bộ, địa phương chưa phân khai và nhập Tabmis hết dự toán được giao, khối lượng triển khai các hoạt động còn thấp. Một số dự án phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh hiệp định vay nên chậm triển khai. Thời gian thống nhất được với nhà tài trợ nước ngoài về các nội dung của dự án thường kéo dài (1).

Bên cạnh đó, do tác động của đại dịch Covid-19 nên các dự án sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi gặp nhiều khó khăn, từ khâu nhập máy móc, thiết bị cho đến huy động chuyên gia, nhân công, nhà thầu nước ngoài, tư vấn giám sát... đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng gây tác động đến tiến độ thực hiện dự án. Hoạt động giải ngân do đó cũng ngưng trệ do không có khối lượng, hoặc nếu có khối lượng thì cũng chậm được xác nhận (2).

Với nguyên nhân chủ quan là sự thực hiện, triển khai chậm chễ của các cơ quan chủ quản, chủ dự án, đây là một nguyên nhân “xưa như trái đất”, luôn nhận được sự “quyết liệt” chỉ đạo của các Phó Thủ tướng và Thủ tướng trong suốt nhiều năm qua nhằm chấn chỉnh bằng những biện pháp rắn như kỷ luật người đứng đầu... Nhưng rồi mọi việc vẫn đâu vào đó, vẫn xảy ra kéo dài từ năm này sang năm khác. 

Có lẽ đã quá mệt mỏi với căn bệnh kinh niên này nên điều “lạ” trong hội nghị năm nay là người ta đã không còn nghe thấy những lời cảnh cáo tương tự. Đã đến mức độ mà tiếp tục cảnh cáo hay không cũng không (tạo ra sự chuyển biến) quan trọng nữa thì tình hình trở nên không có lối thoát. Như vậy, chừng nào căn bệnh kinh niên này còn tiếp tục thì việc giải ngân vốn đầu tư công vẫn sẽ còn... chậm bền vững!

Với nguyên nhân phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, hiệp định vay, thống nhất được với nhà tài trợ nước ngoài, nguyên nhân này xem ra rất khách quan, vì rõ ràng là có chủ trương đầu tư nào mà không phải điều chỉnh ít nhiều, dẫn đến những thay đổi liên quan như hiệp định vay và thỏa thuận với nhà tài trợ nước ngoài? Như vậy thì giải ngân vốn đầu tư công vẫn sẽ luôn luôn bị chậm chễ.

Nhưng tại sao chủ trương đầu tư lại phải điều chỉnh? Nguyên nhân của nguyên nhân này chung quy lại chẳng phải là do người đứng đầu cơ quan ra chủ trương đầu tư hay sao? Trước thực tế này đã và sẽ có sự đổ lỗi cho cấp dưới “tham mưu” sai còn cấp trên chỉ hồn nhiên ký duyệt “phi vụ lợi” nên không phải chịu trách nhiệm. Cứ như vậy thì chắc chắn sẽ không thể khắc phục được việc giải ngân vốn đầu tư công chậm. Nói cách khác, một lần nữa cho thấy chừng nào căn bệnh kinh niên về sự vô trách nhiệm, yếu kém, thậm chí sai trái của người đứng đầu các cơ quan chủ quản, chủ dự án không bị xử lý thì giải ngân đầu tư công chậm vẫn là một hiện tượng bền vững.

Ngay cả với nguyên nhân khách quan tưởng như hiển nhiên gây chậm chễ giải ngân đầu tư công (có nguồn vốn nước ngoài) là do dịch Covid-19, điều này là đúng nhưng không đủ, không nên được viện ra để giải thích cho sự chậm chễ quá thể trong giải ngân đầu tư công nói chung. Bởi vốn đầu tư công có nguồn nước ngoài như ODA hiện chỉ còn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng dự toán đầu tư công hàng năm và tỷ trọng này có xu hướng ngày càng hạ thấp đi khi Việt Nam đã “tốt nghiệp” ODA mấy năm trước.

Bộ Tài chính nhìn nhận, với tốc độ giải ngân như hiện nay và việc nền kinh tế tiếp tục chịu tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, nếu các cấp, các ngành, các địa phương và các chủ dự án không có các giải pháp quyết liệt, khắc phục khó khăn thì sẽ khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ đã được Quốc hội và Chính phủ giao đối với giải ngân nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi của năm 2020 và cho cả nhiệm kỳ 2016-2020.

Về sự nhìn nhận trên, nếu tính thêm sự chậm chễ cộng dồn từ các năm trước thì có thể khẳng định một điều là trong thời gian 6 tháng còn lại, trong bối cảnh không còn bất cứ giải pháp “quyết liệt” nào mà chưa được đề cập đến nên không hy vọng gì có một sự chuyển biến “quyết liệt” như kỳ vọng, chắc chắn nhiệm vụ giải ngân vốn vay nước ngoài nói riêng và đầu tư công nói chung trong nhiệm kỳ hiện tại sẽ không hoàn thành.

Nhìn xa hơn nhiệm kỳ hiện tại, nếu vẫn tiếp tục tồn tại cùng một cơ chế, hệ thống như hiện tại trong đó các căn bệnh, con bệnh kinh niên gây chậm chễ giải ngân đầu tư công vẫn còn đó, không được chữa trị tận gốc thì không thể “thúc” được giải ngân đầu tư công đúng kế hoạch và dự toán. Trong bối cảnh đó, như người viết đã từng đề xuất trước đây (3), cần thực hiện một số giải pháp mang tính “chữa cháy”, gồm cắt giảm chỉ tiêu, kế hoạch đầu tư công Quốc hội giao cho Chính phủ, giảm số dự án và khối lượng đầu tư công hàng năm, và chỉ giao hạn mức, kế hoạch đầu tư công cho những cơ quan chủ quản và chủ đầu tư nào có năng lực triển khai, thực hiện.

Wednesday 1 July 2020

Đòi nợ và phạm pháp (Bài đăng trên TBKTSG, 2/7/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/305426/doi-no-va-pham-phap.html
Tin tức về vụ việc một tổ chức đòi nợ thuê cho một công ty tài chính của ngân hàng nọ dẫn đến sự tự tử của con nợ đã tạo ra một làn sóng phẫn nộ trong dư luận. Chỉ mới trước đó ít ngày thôi Quốc hội đã biểu quyết cấm đầu tư kinh doanh ngành “kinh doanh dịch vụ đòi nợ”. Vụ việc đòi nợ dẫn đến cái chết của một con người như thế xem như một giọt nước tràn ly để cả xã hội “nói không” với đòi nợ thuê. Nhưng không cho đòi nợ thuê không có nghĩa là con nợ không còn bị đe dọa.
Hãy cùng nhìn nhận tỉnh táo sự việc để rút ra được những bài học và giải pháp phù hợp. Trước tiên, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của con nợ là do bị đe dọa bởi tổ chức đòi nợ thuê. Ở đây có hai vấn đề, gồm đe dọa và đòi nợ thuê. Có lẽ nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng (tổ chức) đòi nợ thuê luôn gắn liền với đe dọa nên bỏ phiếu cấm luôn ngành đòi nợ thuê.
Nhưng các tổ chức cho vay vẫn có một khe hở để lách luật. Đó là tự mình đòi nợ thông qua công ty quản lý tài sản (AMC) của mình, hoặc một tổ chức đòi nợ chuyên nghiệp trực thuộc mà không đi thuê ai đòi nợ hộ cả. Thực ra thì đây luôn là một quyền lợi hợp pháp của tổ chức cho vay, không thể cấm đoán. Nếu có con nợ nào lại phải tự tử thì nguyên nhân sẽ chủ yếu bởi, được quy cho là do con nợ bị đe dọa.
Vậy vấn đề nằm ở chỗ con nợ có bị đe dọa để bị dồn vào tình thế quẫn bách, đường cùng, phải tìm đến cái chết hay không, chứ không phải kẻ đòi nợ là tổ chức đòi nợ thuê hay là một ai khác, có thể chính là chủ nợ. Nói cách khác, cấm đòi nợ thuê thì vẫn không ngăn được các hành vi đòi nợ gây khốn quẫn cho con nợ. Lẽ ra, chỉ cần cấm mọi hành vi đòi nợ có tính đe dọa (như nói thêm dưới đây) là đủ và hợp lý hơn.
Tiếp theo, liên quan đến việc đe dọa. Thực tế thì quy định của pháp luật về đòi nợ thuê trước đây cũng đã có yêu cầu: “Trong thời hạn 03 ngày trước khi thực hiện hợp đồng đòi nợ, phải có văn bản thông báo cho công an xã, phường, thị trấn nơi tiến hành đòi nợ. Khi thực hiện đòi nợ không được sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực và không được sử dụng các phương tiện làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng”.
Quy định liên quan đến sự đe dọa như trên là không đủ, chưa chặt chẽ và kín kẽ. Hãy tham khảo những quy định về những điều mà người đòi nợ không được làm ở Singapore thì sẽ thấy rõ hơn vấn đề này.
Cụ thể, người đòi nợ không được gây tổn thương về thể xác cho con nợ, đe dọa hay làm nhục con nợ; phá hoại tài sản (ví dụ như ném sơn vào nhà con nợ hay treo biển, dán thông báo đòi nợ tại nơi ở hay nơi làm việc của con nợ); theo dõi/đeo bám theo con nợ một cách bất hợp pháp nhằm quấy rối, gây bức xúc, căng thẳng cho con nợ; tụ tập trái pháp luật. Nếu vi phạm những điều cấm này thì có những hình phạt cụ thể đi kèm, gồm phạt tù và/hoặc phạt tiền(1).
Nếu cho rằng cấm người đòi nợ như vậy thì sẽ không đòi nợ được, vì chẳng còn phương cách nào khác để đòi nợ (ngoài chuyện kiện tụng), thì hãy tham khảo quy định đòi nợ (thuê) ở Mỹ theo đạo luật Fair Debt Collection Practices Act. Luật này quy định cụ thể khi nào, như thế nào và tần suất là bao nhiêu người đòi nợ có thể tiếp xúc với con nợ. Trong một số trường hợp, người đòi nợ có thể lập ra kế hoạch trả nợ, tất toán nợ để giúp con nợ trả nợ. Nếu luật này bị vi phạm thì người đòi nợ có thể bị kiện ra tòa án bang/liên bang về những thiệt hại và chi phí kiện tụng trong vòng một năm kể từ lúc vi phạm(2).
Đối chiếu với các quy định pháp luật có liên quan của Singapore hay Mỹ, có thể thấy quy định pháp luật của Việt Nam về việc đòi nợ (thuê) là quá sơ sài, không đầy đủ, rõ ràng. Chẳng hạn, theo quy định trên, các phương tiện làm ảnh hưởng đến trật tự công cộng là gì và thế nào là ảnh hưởng đến trật tự công cộng thì lại không rõ, không được giải thích. Chiếu theo quy định này, kẻ đòi nợ vẫn hoàn toàn có thể, ví dụ, “đóng cửa bảo nhau” với con nợ trong nhà con nợ mà không gây ầm ĩ lối xóm nhưng con nợ thì vẫn “sợ xanh mặt” bằng những lời lẽ và “phương tiện” chỉ có hai bên biết với nhau, chứ không nhất thiết phải (đe dọa) dùng đến súng hay dao.
Tóm lại, nếu đã thông qua việc cấm ngành kinh doanh đòi nợ thuê mà không muốn sửa lại quyết định của mình, thì Quốc hội ít nhất cần phải cho soạn thảo và thông qua điều luật sửa đổi, quy định mới về hành vi đòi nợ (kể cả tự đòi nợ) hợp pháp và không hợp pháp, cũng như những chế tài cụ thể cho sự vi phạm các quy định này. Có làm được như vậy thì mới mong giảm được các vụ việc đau lòng liên quan đến vay nặng lãi (hay kể cả hợp pháp) đã và đang xảy ra hiện nay.
(1) https://singaporelegaladvice.com/law-articles/what-can-debt-collectors-do-and-not-do-under-the-law/
(2) https://www.investopedia.com/terms/f/fair-debt-collection-practices-act-fdcpa.asp

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).