Friday 31 July 2020

Dân đổ xô mua và giữ vàng có làm lãng phí nguồn lực quốc gia? (Bài đăng trên TBKTSG Online, 31/7/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/td/306574/dan-do-xo-mua-va-giu-vang-co-lam-lang-phi-nguon-luc-quoc-gia.html

Trong nước và thế giới đã nhiều phen trải qua cơn sốt vàng, với giá vàng tăng dựng đứng và liên tục nhiều ngày. Cứ mỗi lần như vậy, kể cả như thời gian hiện nay, lại có nhiều ý kiến hết can ngăn người “chơi” vàng rồi lại khuyến nghị cơ quan chức năng “dẹp loạn”, dập tắt cơn sốt vàng, dập tắt đầu cơ vàng với lý do sốt vàng sẽ làm tăng nạn “vàng hóa” và việc người dân đổ xô mua và ôm giữ vàng sẽ làm lãng phí một nguồn lực quốc gia lớn...

Xin nói về ý thứ nhất, can ngăn người dân đầu cơ, lướt sóng vàng. Cần phải thẳng thắn nói đây là chuyện “bao đồng”. Có lẽ những người khuyên can này được phỏng vấn, được hỏi thì phải nói thế cho hợp cảnh, bởi cũng khó mà nói khác đi được.

Nhưng đối với nhiều, rất nhiều người thì vàng nổi sóng mới là điều được mong chờ, vì chỉ có thế thì người ta mới lướt sóng được, mới có cơ hội kiếm lãi từ đầu tư vàng. Nay can ngăn, tệ hơn là dùng bàn tay của cơ quan chức năng để hạn chế, cấm người dân đầu tư/đầu cơ vàng thì đó không chỉ là một hành vi đi ngược với tinh thần kinh doanh tự do trong nền kinh tế thị trường mà còn không phải là một điều được hoan nghênh, chí ít bởi những lời can ngăn này thường chỉ chung chung, cảm tính.

Không cần phải vạch vòi, kiểm nghiệm lại những thời điểm khi có lời can ngăn với diễn biến giá vàng sau đó (mà gần nhất là đang xảy ra tuần trước và tuần này), chắc chắn sẽ có nhiều người phải ôm hận vì trót... nghe lời can ngăn này để mà không mua vàng. Giá mà những người can ngăn nói đúng được rằng giá vàng sẽ đạt mức X đồng/lượng vào giờ Y ngày này tháng này năm này thì đã không có chuyện gì đáng nói.

Chuyển sang ý thứ hai, với nhận thức sai lầm rằng sốt vàng, đầu cơ vàng là có hại cho nền kinh tế nên đã có một thời gian đến hàng năm cơ quan chức năng ở Việt Nam đã loay hoay tìm cách ngăn chặn sốt vàng, thậm chí đòi “bình ổn” giá vàng bằng đủ phương cách có thể nghĩ ra. Ngay cả giới chuyên gia cũng cho rằng nắm giữ vàng chẳng khác gì chôn tiền xuống đất, lãng phí ghê gớm một nguồn lực lớn trong dân (mà bằng cách vi diệu nào đó họ ước tính được đến 500 tấn vàng) lẽ ra có thể huy động đưa vào sản xuất, kinh doanh trong khi nền kinh tế đang khát vốn vô cùng. Cùng với lý lẽ này là những đề xuất vi diệu không kém như huy động vàng trong dân bằng cách phát hành chứng chỉ vàng (tức đổi vàng thật lấy giấy)...

Xin nói ngay rằng người dân có mua vàng hay mua bất cứ một tài sản gì có tính chuyển đổi, mang giá trị thì đều không làm ảnh hưởng, suy suyển gì “nguồn lực” hay lượng của cải có trong dân, trong nền kinh tế cả. Bởi đơn giản là vàng hay các tài sản có tính chuyển đổi khác như ngoại tệ và các giấy tờ có giá khác chỉ là công cụ thanh toán, lưu giữ giá trị để người dân trao đổi của cải của mình. Tôi có vàng bán cho anh mua. Dù anh có mua về đem chôn một chỗ thì số tiền anh trả cho tôi sẽ được tôi sử dụng vào những mục đích khác, gồm trực tiếp đưa vào sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, của cải của anh trước đây nằm dưới dạng tiền mặt (tiền đồng) nhưng anh không muốn trực tiếp sản xuất, kinh doanh nên đem nó đổi cho tôi để lấy vàng, còn tôi vì không muốn giữ của bằng vàng nữa mà muốn khởi nghiệp nên quyết định đổi lấy tiền đồng của anh để làm ăn.

Nếu vẫn thấy hơi khó hiểu về chuyện đổi chác này thì chỉ cần liên hệ với chuyện người dân có USD bán đi lấy tiền đồng. Lúc đó sẽ thấy việc nắm giữ vàng cũng chẳng khác là bao (về bản chất) so với nắm giữ các tài sản khác như ngoại tệ. Nên nếu không ai lên tiếng cảnh báo với phê phán người dân, nhà đầu tư nắm giữ USD thì cũng xin đừng làm thế với vàng.

Sẽ có người bẻ lại rằng đó chỉ là đang nói đến số vàng sẵn có trong nền kinh tế, chứ nếu mua vàng từ bên ngoài (thế giới) thì chẳng phải là đang hy sinh một nguồn lực (ngoại tệ) lẽ ra có thể đầu tư vào sản xuất, kinh doanh trong nước để lấy một khối vàng nằm im một chỗ, chẳng sinh lời lãi, chẳng giúp ích gì cho nền kinh tế hay sao?

Xin trả lời rằng không ai cấm nhà đầu tư bán vàng ngược lại ra thế giới lúc giá vàng lên cao để thu lãi. Vậy thì thay vì nhà đầu tư phải bất đắc dĩ tự biến thành nhà sản xuất, nhà kinh doanh trong nước để kiếm lợi nhuận thì họ vẫn có thể kiếm được lợi nhuận cho bản thân, và gián tiếp cho nền kinh tế trong nước (thông qua thuế phí) nhờ mua bán vàng với phần còn lại của thế giới với tư cách là nhà đầu tư/đầu cơ vàng. Tất nhiên là trừ trường hợp cơ quan chức năng vì nhận thức sai như nói ở trên nên cấm nhà đầu tư buôn bán vàng kiểu này, như đã và đang xảy ra ở Việt Nam. 

Lại có người sẽ nói đổ xô vào vàng sẽ làm chảy máu ngoại tệ (tức phải tốn USD để nhập khẩu vàng), nên cần cấm đầu cơ, mua vàng (từ nước ngoài). Nhưng họ không nghĩ rằng vàng cũng là tiền, cũng là ngoại tệ. Nếu cần thì chỉ mất chút thời gian để bán vàng và thu về USD hoặc bất cứ ngoại tệ nào họ cần. Tất nhiên, cần lặp lại rằng, với điều kiện là việc bán này được tự do tiến hành mà không bị ngăn cản bởi cơ quan chức năng.

Về ý kiến lo ngại “vàng hóa” nếu để vàng được tự do mua bán, thông thương trong nước và thế giới. Cần biết rằng vàng hóa hay đô la hóa chỉ xảy ra khi quản lý kinh tế vĩ mô yếu kém dẫn đến lòng tin vào nội tệ suy giảm xuống đến thậm chí là 0, buộc người dân phải sử dụng đến một công cụ mang tính tiền tệ khác là vàng hoặc ngoại tệ để thuận tiện trong trao đổi và an toàn trong bảo lưu giá trị tài sản, của cải của mình. Vậy thì thay vì lo ngại mở cửa thị trường sẽ dẫn theo vàng hóa, cơ quan chức năng cần trước hết phải làm tốt chức trách của mình là duy trì lòng tin vào đồng nội tệ.

Nhưng nói cho cùng, đã chấp nhận để cho USD lưu hành trong nền kinh tế, vẫn được chấp nhận để gửi vào ngân hàng, vẫn được mua bán tương đối dễ dàng thì cớ gì lại có thái độ cực đoan hơn với vàng – vốn có chức năng chẳng khác mấy so với USD? 

Tóm lại, nhân cơ hội vàng đang sốt, đang ở mức giá cao kỷ lục, cần nhìn lại những sai lầm trong quan niệm với vàng để có thái độ ứng xử “đúng mực” với nó hơn.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).