Monday 24 August 2020

Tỷ giá sẽ đi về đâu trong thời gian tới? (Bài đăng trên CafeF, 24/8/2020)

https://cafef.vn/ty-gia-se-di-ve-dau-trong-thoi-gian-toi-20200824152750872.chn

Tỷ giá USD/VND đã diễn biến khá kịch tính và đầy bất ngờ trong năm nay. Bắt đầu là cơn sóng nhỏ hồi tháng 2 khi dịch Covid-19 bắt đầu lây lan ra thế giới rồi đột ngột bùng lên từ giữa tháng 3 khi bệnh dịch lan rộng. Nhưng kể từ đỉnh sóng cuối tháng 3, tỷ giá đã lao dốc liên tục và hiện đang đi ngang quanh mức 23.175 là mức giá mua giao ngay của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Mức này là mức thấp nhất trong vòng 2 năm kể từ tháng 7/2018.


Đã có một số lý do được đưa ra để giải thích cho sự mạnh lên của tiền đồng kể từ tháng 3 năm nay, trong đó có lý do Việt Nam hầu như đạt trạng thái xuất siêu liên tục trong thời gian qua và ở mức kỷ lục gần đây (trên 8 tỷ USD). Tuy nhiên, một trong những lý do chính cần kể đến là sự suy yếu không ngừng nghỉ của USD so với các đồng tiền khác trên thế giới. 

US Dollar Index, chỉ số đo lường biến động giá của USD so với đồng tiền của 6 đối tác thương mại chủ chốt của Mỹ gồm EU, Thụy Sĩ, Nhật, Canada, Anh và Thụy Điển, đã tụt giảm từ mức đỉnh điểm 102,82 vào ngày 20/3 xuống còn 93,2 vào ngày 21/8. Đây cũng là mức đáy trong vòng hơn 2 năm trở lại đây.

USD suy yếu không chỉ đối với rổ 6 đồng tiền chủ yếu của phương Tây mà còn với cả các đồng tiền có mức độ giao dịch đáng kể ở châu Á như được thể hiện qua chỉ số JPMorgan Asia Dollar Index. Chỉ số này cũng gia tăng từ mức đáy 100,3 của một năm qua vào ngày 23/3 lên 103,99 vào ngày 21/8.


Như vậy, có thể nói sự suy yếu của USD diễn ra trên diện rộng, phạm vi toàn cầu và không phải là một hiện tượng nhất thời, chỉ diễn ra trong vòng 1 tuần hay 1 tháng. Sự suy yếu này hiển nhiên gắn liền với những đợt, những gói cứu trợ kinh tế vô tiền khoáng hậu hàng nghìn tỷ USD được Fed bơm ra bắt đầu từ đầu tháng 4 so với những gói cứu trợ vài chục, vài trăm tỷ USD của các đối tác của Mỹ. Một số nhà quan sát cho rằng hiện tượng suy yếu của USD trong năm nay là mang tính chu kỳ chứ không phải tính cơ cấu nên dự báo USD sẽ tiếp tục suy yếu trong thời gian tới, với US Dollar Index tụt giảm sâu xuống dưới mức 90.

Quay trở lại với tỷ giá USD/VND. Sự lao dốc và đi ngang gần đây của tỷ giá có thể nói là kết quả chủ yếu của việc NHNN đã hạn chế tốc độ tăng cung tiền dù nhu cầu kích thích kinh tế qua nới lỏng tiền tệ là rất lớn trong bối cảnh Fed đã và rất sẵn sàng bơm tiền (USD) ồ ạt để vực dậy nền kinh tế của họ.
Xuất siêu của Việt Nam có lẽ đóng vai trò không quan trọng trong việc củng cố tỷ giá. Bởi trong vòng vài năm nay Việt Nam cũng đã thiết lập được trạng thái xuất siêu vài tỷ USD nhưng tỷ giá vẫn nhiều phen thoát khỏi vòng cương tỏa của NHNN, bất chấp những đợt mạnh tay bán ra USD nhằm can thiệp thị trường của NHNN.

Ít nhất trong các tháng còn lại của năm nay, có thể dự đoán rằng các vấn đề nội tại của hệ thống y tế của Mỹ và bản chất phục vụ vì lợi nhuận của nó sẽ tiếp tục cản trở nước Mỹ trong cuộc chiến chống Covid-19. Theo đó sẽ là những hậu quả kéo dài như lạm phát thấp và thất nghiệp cao, buộc Fed phải luôn trong trạng thái bơm thêm tiền cho nền kinh tế và các chương trình cứu trợ của Chính phủ Mỹ.

Trong khi đó, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới với trạng thái ngân sách lành mạnh và sự mở cửa trở lại của nền kinh tế trơn tru đã làm tăng thêm sự hấp dẫn của đồng bản tệ của mình, kích thích nhà đầu tư tiếp tục rời bỏ USD, duy trì tình trạng suy yếu của USD so với nhiều bản tệ khác.

Trong bối cảnh và triển vọng như vậy, nếu NHNN tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng như hiện nay thì hầu như chắc chắn là tỷ giá USD/VND sẽ tiếp tục ổn định ở quanh mức chốt chặn dưới của NHNN.

Một điểm đáng lưu tâm là ngoài sự lên giá của VND so với USD – một xu thế gần như tất yếu, VND cũng có thể đã và sẽ lên giá so với một số bản tệ của các đối thủ cạnh tranh và đối tác thương mại chủ chốt của Việt Nam, là những nước có xu hướng gắn giá trị bản tệ (peg) với USD. Sự lên giá, nếu quá nhiều, của VND với USD và các bản tệ này sẽ làm suy giảm tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam không chỉ trên thị trường xuất khẩu thế giới mà ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Bởi vậy, NHNN cần theo dõi và có những điều chỉnh cần thiết để hạn chế sự lên giá này, với tham chiếu chủ chốt là lạm phát của Việt Nam. 

Friday 21 August 2020

Gói hỗ trợ kinh tế lần 2 cần được thiết kế thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 22/8/2020)

https://cafef.vn/goi-ho-tro-kinh-te-lan-2-can-duoc-thiet-ke-the-nao-20200822080837216.chn

Do dịch Covid-19 đã quay trở lại, tiếp tục làm khó nền kinh tế và đời sống người dân nên một gói hỗ trợ kinh tế lần 2 đang được đề xuất. Trước ảnh hưởng ngày càng lớn của tình hình dịch bệnh, người ta cho rằng cần có các chính sách kinh tế đủ mạnh, vượt hơn mức bình thường thì mới phục hồi được nền kinh tế.

Theo đó, chính sách lần 2 phải bao quát toàn diện các đối tượng, phải đủ lớn, đủ mạnh để tác động ngay, kích thích tăng trưởng kinh tế. Các chính sách đều phải gắn đến quản lý cơ cấu các ngành, lĩnh vực, phải gắn với tái cơ cấu và những lĩnh vực liên quan. Gói hỗ trợ phải đảm bảo đa mục tiêu chứ không chỉ kích thích tăng trưởng kinh tế.

Cụ thể hơn, ngoài hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, người lao động và người dân chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, cần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn đang gặp khó khăn về sự thiếu hụt dòng tiền do chi phí cố định và chi phí duy trì hoạt động lớn trong khi doanh thu bị sụt giảm nghiêm trọng.
Như vậy, có thể nói gói hỗ trợ lần 2 nếu được thiết kế và thực hiện theo đề xuất trên thì sẽ hầu như hỗ trợ mọi đối tượng, mọi chủ thể kinh tế, từ cá nhân đến doanh nghiệp, từ doanh nghiệp vừa và nhỏ đến doanh nghiệp lớn.  

Nếu “xông xênh” như thế thì e chẳng có gói hỗ trợ nào kham nổi trên quy mô hầu như cả nền kinh tế như vậy, nhất là khi phải hỗ trợ “đến nơi đến chốn” chứ không làm theo kiểu “gọi là cho có”. Điều này buộc người thiết kế gói hỗ trợ lần 2 phải chọn lựa đối tượng ưu tiên hỗ trợ và hỗ trợ đủ mức để đạt hiệu quả mong muốn.

Nhưng trước khi chọn lựa đối tượng ưu tiên hỗ trợ thì cần trả lời mục đích hỗ trợ là gì? Có hai mục đích hỗ trợ cần xem xét ở đây. Đó là “trao con cá” và “trao cần câu”. Trong bối cảnh khó khăn tứ bề, nhu cầu tồn tại vượt lên tất cả các nhu cầu khác thì dễ hiểu mục đích hỗ trợ ưu tiên trước hết phải là “trao con cá”, tức giúp cho người dân, người lao động trước mắt có cơm ăn mà không bị đứt bữa, không phải ăn mì gói triền miên; doanh nghiệp có tiền để cầm cự không phải đóng cửa trong những tháng tới trong khi chờ đợi có vaccin phòng chống Covid-19.

Dựa trên mục đích hỗ trợ ưu tiên như trên, có thể thấy đối tượng hỗ trợ ưu tiên phải là những cá nhân và doanh nghiệp dễ và đã bị tổn thương nhiều nhất bởi dịch bệnh. Đó là công nhân lao động, hộ nghèo, người thất nghiệp, lao động tự do. Về đối tượng là doanh nghiệp, đó là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, là những doanh nghiệp thường hầu như không có nguồn lực dự trữ và khả năng tiếp cận các nguồn lực khác.

Đối với doanh nghiệp lớn, tuy cũng có khó khăn nhưng ít ra thì chúng cũng còn có các cách xoay xở so với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, nếu muốn hỗ trợ cả doanh nghiệp lớn thì vẫn phải đảm bảo nguyên tắc đối xử công bằng. Nhưng như vậy thì, như đã nói ở trên, sẽ chẳng bao giờ có đủ nguồn lực để cứu trợ “xông xênh” cho tất cả các doanh nghiệp lớn như thế được.

Thay vào đó, hãy để các doanh nghiệp lớn tự tái cơ cấu để phù hợp với hoàn cảnh mới. Việc tái cơ cấu có thể sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn như sa thải người lao động. Đến đây thì gói hỗ trợ sẽ phát huy tác dụng bằng cách hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp lớn (cũng như cách mà nó hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và người lao động khác) thông qua việc nhà nước trả một phần lương cho người lao động để doanh nghiệp tìm cách giữ người, hoặc trợ cấp cho người lao động khi bị sa thải. Doanh nghiệp giữ được người cũng chính là được trao thêm cơ hội để hồi phục trong và sau đại dịch.

Việc giảm đại trà các loại thuế, phí và các loại chi phí cần thiết cho sinh hoạt của người dân và hoạt động của doanh nghiệp là điều cần cân nhắc, chí ít bởi làm như vậy sẽ vi phạm nguyên tắc cứu trợ đúng đối tượng cần cứu trợ. Trong số những đối tượng được hưởng lợi ích giảm thuế, phí, chi phí sẽ có cả không ít những đối tượng khỏe mạnh, không bị ảnh hưởng, thậm chí hưởng lợi nhờ dịch bệnh. Nên đương nhiên, một lần nữa, gói cứu trợ lần 2 nếu có gồm giải pháp cắt giảm thuế, phí, chi phí thì chỉ được thực hiện với những đối tượng đáng cứu trợ như đã đề cập ở trên, hoặc một số đối tượng doanh nghiệp được khuyến khích phát triển ngay cả trong “thời bình” như các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Với mục đích cứu trợ “trao cần câu”, thường thì nhiều người chỉ nghĩ được đến giải pháp cho vay ưu đãi, với lãi suất thấp. Nhưng cũng tương tự như việc cho người dân nghèo vay vốn, nhiều khi tiền vốn cho vay lại được dùng để ăn nhậu, mua sắm đồ đạc mà không (biết) dùng vào việc gì cho có lợi hơn.

Kinh nghiệm đối phó với khủng hoảng ở nước ngoài cũng hữu ích đối với Việt Nam trong vấn đề này. Chẳng hạn, Chính phủ Singapore sẵn sàng trả trợ cấp (khoảng hơn 180 ngàn đồng/giờ) cho người lao động mất việc đi học các khóa học chuyển đổi hoặc nâng cao nghề nghiệp, kỹ năng do Chính phủ tài trợ. Bằng cách làm như vậy, Chính phủ không phải lo thu xếp một nguồn vốn khổng lồ để cho vay doanh nghiệp với nhu cầu vô tận (do đặc tính ưu đãi của nó) mà còn giúp cho người lao động – là cái đích tối thượng cho mọi gói cứu trợ - có được tiền để tồn tại trong khi có cơ hội tìm việc làm mới, phù hợp hơn, đồng thời vẫn giúp cho doanh nghiệp có được “cần câu cá” là nguồn nhân lực có kỹ năng tốt hơn, hiệu suất cao hơn.

Việc cắt giảm có chọn lọc các loại thuế, phí, chi phí cũng là cách để giúp doanh nghiệp có thêm “cần câu”, phương tiện, nguồn lực phục hồi, phát triển mà không nhất thiết cứ đòi nhà nước phải cấp vốn ưu đãi.

Lại nói về cho vay ưu đãi, là cái đã được nhắc đến nhiều ở Việt Nam trong thời gian qua, chủ yếu liên quan đến một số doanh nghiệp lớn. Kinh nghiệm nước ngoài thường được nhiều người mang ra để vận động cho việc cho vay này. Nhưng có một thực tế mà không ai đả động đến, đó là việc một số Chính phủ nước ngoài hoặc là để cho ngay cả những doanh nghiệp đình đám như các hãng hàng không quốc gia bị phá sản, như Thai Airways, hoặc là việc cho vay thực chất chỉ là việc nhà nước mua cổ phần của doanh nghiệp với giá rẻ (như Chính phủ Đức bơm cho hãng hàng không Lufthansa 10 tỷ USD để đổi lấy 20% cổ phần với giá chiết khấu lớn so với thị giá). 

Sunday 16 August 2020

Không dễ hiểu được quyết định hạ lãi suất (Bài đăng trên TBKTSG, 15/8/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/306986/khong-de-hieu-duoc-quyet-dinh-ha-lai-suat.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã giảm lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND của các tổ chức tín dụng (TCTD) 0,5 điểm phần trăm, xuống 0,5%/năm. Lãi suất tiền gửi bằng VND của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; lãi suất tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam tại NHNN bằng VND giảm 0,2 điểm phần trăm xuống 0,8%/năm.

Là nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ?

Quyết định trên của NHNN được nhiều người nhìn nhận là một hành động nới lỏng tiền tệ. Thực ra thì hiểu và lý giải thế chưa hoàn toàn đúng. Tiền được trả/bơm ra từ NHNN luôn có thể được hiểu là nguồn cung tiền tăng thêm cho nền kinh tế. Khi NHNN cắt giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc thì đồng nghĩa với đó là tiền lãi TCTD được hưởng/thu về từ NHNN sẽ sụt giảm đi so với trước, tức là cung tiền của NHNN ra nền kinh tế sẽ giảm tốc so với trước. Nói cách khác, mức độ nới lỏng của chính sách tiền tệ của NHNN sẽ thu hẹp lại – tuy tiền vẫn được bơm thêm ra nhưng ở mức độ ít hơn trước, nếu các yếu tố khác không thay đổi. (Lưu ý là điều này khác với thắt chặt chính sách tiền tệ, là rút bớt tiền về).

Tương tự như vậy là lãi suất tiền gửi bằng VND của một số TCTD, Kho bạc Nhà nước và Bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi này không phải là tiền gửi dự trữ bắt buộc của TCTD tại NHNN nên đương nhiên được hưởng một lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (0,8%/năm so với 0,5%/năm). Tuy nhiên, do lãi suất tiền gửi này bị cắt giảm từ 1%/năm xuống 0,8%/năm nên cũng có thể nói rằng chính sách tiền tệ của NHNN sẽ bớt nới lỏng hơn so với trước, nếu mọi yếu tố khác không thay đổi.
Do đó, việc một số người gắn hành động hạ lãi suất nói trên của NHNN với xu hướng các TCTD tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất huy động trên thị trường (1) là rất khiên cưỡng. Xu hướng giảm lãi suất này có thể do những nguyên nhân khác chứ chắc chắn không phải là do hành động trên của NHNN, vì hiệu ứng ngược của nó như đã phân tích.

Về phía NHNN, lý giải động thái hạ lãi suất tiền gửi nói trên của mình, NHNN cho biết việc này sẽ “tác động giảm các loại lãi suất khác trên thị trường” (2). Nhưng, như đã được chỉ ra ở trên, việc giảm tốc nới lỏng chính sách tiền tệ thực ra sẽ cản trở việc cắt giảm các loại lãi suất khác trên thị trường chứ không phải là ngược lại. 

Sẽ thúc đẩy TCTD đưa vốn ra nền kinh tế?

Bên cạnh mục đích hạ mặt bằng lãi suất, hành động của NHNN còn được cho là sẽ thúc đẩy các ngân hàng đưa vốn ra nền kinh tế (2). Dường như người ta cho rằng hiệu ứng này sẽ nảy sinh khi tiền gửi của TCTD tại NHNN sẽ giảm đi vì lãi suất thấp hơn, kém hấp dẫn hơn, buộc TCTD phải rút bớt tiền gửi NHNN về để cho vay ra nền kinh tế, nếu không muốn “ế” vốn.

Tuy nhiên, cần lưu ý lại rằng NHNN hạ lãi suất trước hết là đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc. Có nghĩa là dù TCTD muốn hay không, lãi suất có hấp  dẫn hay không thì TCTD vẫn buộc phải gửi, theo quy định, một tỷ lệ nhất định vốn huy động của mình tại NHNN, chứ không có lựa chọn nào khác, ví dụ, có gửi hay không, gửi bao nhiêu và trong thời gian bao lâu. (Lưu ý là có chuyên gia đã sai lầm khi nói rằng TCTD “có thể điều chỉnh quy mô lượng dự trữ bắt buộc” (2)).

Mà như đã nói ở trên, do chỉ được hưởng một lãi suất thấp hơn từ NHNN sau đợt điều chỉnh này nên thực ra lượng tiền mà TCTD sẵn sàng cho vay ra nền kinh tế (gồm tiền lãi trả bởi NHNN) sẽ là ít hơn so với trước đây, nếu mọi yếu tố khác không thay đổi.

Ngay cả đối với tiền gửi của các tổ chức khác tại NHNN như của Bảo hiểm tiền gửi, Kho bạc Nhà nước... thì tuy đây không phải là tiền gửi bắt buộc trên nghĩa đen nhưng vẫn là bắt buộc trên thực tế do pháp luật hiện hành yêu cầu, quy định như vậy. Chẳng hạn, các tổ chức này không được gửi (một số loại) tiền tại các TCTD mà phải gửi tại NHNN. Bởi vậy, khi lãi suất đối với loại tiền gửi này giảm đi thì đương nhiên là lượng tiền mà các tổ chức này có trong tay để cho vay ra nền kinh tế sẽ giảm đi so với trước.

Công cụ tiền tệ không còn tác dụng nữa?

Ở chiều hướng ngược lại, có người cho rằng quyết định của NHNN cũng cho thấy cơ quan này không còn nhiều lựa chọn và đã sử dụng gần hết những công cụ đang có. Việc hạ lãi suất mang tính tâm lý hơn kinh tế. “Công cụ tiền tệ đã không còn tác dụng nữa” (2).

Có lẽ ý kiến này xuất phát từ hiểu biết rằng TCTD không cho vay được ra nền kinh tế nên mới phải gửi vào NHNN để hưởng lãi; nên NHNN phải hạ lãi suất tiền gửi tại NHNN để khuyến khích/buộc TCTD tăng cường cho vay nền kinh tế thay vì đem gửi NHNN.

Như nói ở trên, việc gửi tiền ở NHNN thường không phải là chủ đích của TCTD mà thường là do “bắt buộc” nên việc gửi tiền ở đây chỉ là “đặng chẳng đừng”. Do đó, việc NHNN hạ lãi suất tiền gửi tại NHNN không có nghĩa là TCTD không cho vay được ra nền kinh tế và chính sách, công cụ tiền tệ không còn tác dụng nữa. Bằng chứng tối thiểu là vẫn có tăng trưởng tín dụng dương (đáng kể chứ không quá thấp, kể cả so với khu vực và thế giới); lãi suất huy động vẫn neo cao chứ không tụt đột ngột (và xuống quá thấp). 

Để cắt giảm chi phí?

Một số lãnh đạo ngân hàng cho rằng việc hạ lãi suất các khoản tiền gửi tại NHNN chỉ là động thái giảm chi cho ngân sách. Vì thực tế, bên phải trả lãi suất cho lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc là NHNN, hay nói cách khác là tiền Ngân sách Nhà nước (2).

Cần lưu ý rằng Ngân sách Nhà nước với ngân sách của NHNN là hai điều đôc lập với nhau trên nguyên tắc. Có nghĩa là khoản thu/chi của NHNN không phải là thu/chi của Ngân sách Nhà nước. Nên khoản tiền “tiết kiệm” được từ việc cắt giảm lãi suất tiền gửi tại NHNN không đồng nghĩa với việc Ngân sách Nhà nước tránh được việc phải chi ra một khoản tương ứng.

Cũng có luồng ý kiến cho rằng quyết định giảm lãi suất mới đây của NHNN nhằm mục tiêu chủ yếu là giảm chi phí hoạt động cho NHNN (3).

Nếu NHNN là một doanh nghiệp, một ngân hàng thương mại thông thường thì hiểu thế cũng không sai. Nhưng ở đây NHNN là ngân hàng trung ương, không phải hạch toán lợi nhuận; nguồn tài trợ cho chi phí hoạt động không phải đến từ việc kinh doanh nguồn tiền gửi của TCTD và các chủ thể kinh tế khác. Do đó, NHNN không phải tìm cách cắt giảm chi phí hoạt động bằng cách, ví dụ, cắt giảm lãi phải trả cho TCTD.

Ngoài ra, đã gọi là dự trữ bắt buộc thì NHNN có quyền áp dụng bất cứ lãi suất nào cho số tiền gửi này (và mọi khoản tiền gửi khác tại NHNN nói chung). Do vậy, nếu hiểu theo ý ở trên thì NHNN lẽ ra phải luôn luôn duy trì lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc là 0%/năm từ trước đến nay để “tiết kiệm” chi phí hoạt động, chứ không việc gì phải duy trì lãi suất tới vài ba phần trăm/năm như trước đây.

(3) https://cafef.vn/vi-sao-nhnn-giam-lai-suat-du-tru-bat-buoc-20200808112852216.chn

Saturday 8 August 2020

Người gửi tiền vẫn chưa thể an tâm (Bài đăng trên TBKTSG, 8/8/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/306746/nguoi-gui-tien-van-chua-the-an-tam.html


Chính phủ vừa công bố dự thảo Quyết định của Thủ tướng về hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi, theo đó số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 125 triệu đồng, tăng thêm 50 triệu đồng so với mức hiện tại được áp dụng từ tháng 8/2017.

Việc dự thảo sửa đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi như trên là theo quy định tại Khoản 2 Điều 24 Luật Bảo hiểm tiền gửi, theo đó Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong từng thời kỳ. Từ ngày  05/8/2017, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 75 triệu đồng. Mức này đã tăng lên từ các mức thấp hơn trước đó, như 30 triệu đồng năm 1999.

Xung quanh Luật Bảo hiểm tiền gửi nói chung và quy định về mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi nói riêng có một số vấn đề mà nhiều người dân vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ. 

Thứ nhất, tại sao phải điều chỉnh (tăng) mức trả tiền bảo hiểm tiền gửi từng thời kỳ?

Trong dự thảo hay các văn bản liên quan đều không có giải thích cho việc điều chỉnh này. Nhưng có thể thấy lạm phát là một trong số những lý do đằng sau sự điều chỉnh này. Lạm phát sẽ làm cho giá trị danh nghĩa của tài sản của người gửi tiền tăng lên trong khi giá trị thực không nhất thiết tăng tương ứng. Nếu vẫn giữ nguyên mức chi trả 30, 50, hoặc 75 triệu đồng như trước cho người gửi tiền với cùng một khoản tiền không đổi (đã điều chỉnh theo lạm phát) thì rõ ràng phần thiệt là nghiêng hẳn về phía người gửi tiền khi có “biến” xảy ra. Và đồng nghĩa với điều này là người gửi tiền ít an tâm, ít động lực hơn để gửi tiền vào hệ thống ngân hàng do không còn được bồi thường đáng kể so với số tiền mình gửi vào ngân hàng khi ngân hàng mất khả năng thanh toán.

Lý do khác cho việc phải điều chỉnh mức chi trả cũng liên quan đến chuyện an tâm của người gửi tiền. Tùy theo từng giai đoạn, nếu người gửi tiền thấy có nhiều rủi ro hơn cho hệ thống ngân hàng trong một thời điểm nào đó thì việc điều chỉnh nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi là cần thiết để khuyến khích người gửi tiền an tâm hơn khi gửi tiền vào ngân hàng.

Vấn đề thứ hai là mức chi trả bảo hiểm 125 triệu đồng theo dự thảo này là phù hợp hay không. Để có câu trả lời, hãy tham khảo thực tế ở một số nước. Ở Singapore, mức chi trả bảo hiểm tối đa là 75.000 đô la Singapore (tương đương khoảng 1,267 tỷ đồng theo tỷ giá hiện tại). Ở Mỹ, mức này là 250.000 đô la Mỹ (5,8 tỷ đồng). Các nước khác trong khu vực có mức cụ thể quy đổi ra tiền đồng là: 3,1 tỷ đồng (Indonesia), 1,368 tỷ đồng (Malaysia), 236 triệu đồng (Philippines), 1,55 tỷ  đồng (Ấn Độ), và 3,691 tỷ (Thái Lan)... Cũng có những nước không giới hạn mức chi trả tối đa như Myanmar, tức là Chính phủ sẽ bồi thường toàn bộ tiền gửi nếu ngân hàng phá sản.

Như vậy, xem ra mức chi trả bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam kể cả sau khi đã điều chỉnh tăng lên 125 triệu là thấp, rất thấp so với thế giới và khu vực. Mức thu nhập bình quân đầu người thấp hay trạng thái phát triển kinh tế yếu kém có lẽ không phải là lý do vì những nước khu vực có mức thu nhập thuộc nhóm trung bình thấp như Myanmar, Ấn Độ, Indonesia và Philippines cũng vẫn có mức chi trả cao hơn Việt Nam nhiều (lần). Ngoài ra, xét về tương quan giữa số tiền gửi với mức được bồi thường, tuy không có số liệu cụ thể nhưng chỉ nói đơn giản là số người gửi tiền tỷ ở Việt Nam hiện nay (tương đương với vài chục ngàn đô la Mỹ) không hiếm nhưng rõ ràng số tiền họ có thể nhận được khi ngân hàng mình gửi tiền phá sản chỉ là 125 triệu đồng là không hợp lẽ cho lắm khi so sánh với thế giới.

Vấn đề thứ ba chưa được nhiều người hiểu rõ là mức chi trả bảo hiểm tối đa 125 triệu đồng này được tính như thế nào cho từng cá nhân người gửi tiền. Có thể lý do cho sự không hiểu này là do Luật Bảo hiểm tiền gửi và các quy định liên quan không giải thích rõ.

Cũng giống như ở các nước khác, ở Việt Nam, nếu người gửi tiền gốc và lãi tại một ngân hàng có tổng cộng là, ví dụ, 100 triệu đồng, thì số tiền nhận được từ Bảo hiểm tiền gửi sẽ là 100 triệu. Nếu tổng này là 1 tỷ đồng thì người này sẽ chỉ nhận được tối đa 125 triệu.

Liên quan đến mức chi trả tối đa này, chắc chắn sẽ có nhiều người “sáng kiến” nghĩ rằng vậy thì ta sẽ chỉ gửi tối đa ở một ngân hàng là, chẳng hạn, 115 triệu đồng (để sao cho cộng cả gốc lẫn lãi không vượt quá 125 triệu đồng). Như vậy thì dù ngân hàng có phá sản, người gửi tiền vẫn hoàn toàn an tâm về tài sản của mình sẽ không bị sứt mẻ đồng nào.     

Điều này là đúng... nhưng cần phải cân nhắc thêm mấy yếu tố. Trước tiên là số tiền mình có và định gửi vào ngân hàng. Nếu định gửi tiền (nhiều) tỷ thì cách này hơi... bất tiện! Lúc đó, người gửi sẽ phải tìm các ngân hàng khác để  gửi mỗi nơi một ít (không quá 115 triệu đồng). Tiếp đó,  các ngân hàng khác có lãi suất như thế nào? Nếu thấp quá, không hấp dẫn, trong khi “theo tính toán của mình” thì ngân hàng mình định gửi không quá rủi ro nhưng lãi suất lại hơn hẳn các nơi khác thì “dại gì không gửi” tất cả/phần lớn số tiền mình có và định gửi, dù chỉ được bảo hiểm tối đa 125 triệu đồng?

Như vậy, cũng giống như nhà đầu tư chuyên nghiệp nhìn vào xếp hạng tín dụng của các nhà phát hành chứng khoán, trái phiếu để quyết định rót vốn đầu tư tùy theo khẩu vị rủi ro của mình, người gửi tiền ở Việt Nam cũng cần phải cân nhắc giữa mức độ rủi ro của ngân hàng định gửi tiền, số tiền mình có, và khẩu vị rủi ro của mình để quyết định có gửi vào ngân hàng đó không và gửi bảo nhiêu, với nhận thức rõ rằng trong trường hợp xấu thì chỉ nhận lại được tối đa là 125 triệu đồng từ Bảo hiểm tiền gửi.

Trên hết, NHNN và Chính phủ cũng cần cân nhắc nâng mạnh hơn nữa mức chi trả bảo hiểm tối đa để phù hợp với mức hiện tại trong khu vực và trên thế giới.

Friday 7 August 2020

Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp như thế nào vào thị trường vàng? (Bài đăng trên CafeF, 7/8/2020)

https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-se-can-thiep-nhu-the-nao-vao-thi-truong-vang-20200807110528216.chn

Mấy tuần nay chứng kiến giá vàng thế giới và trong nước tăng liên tục, đạt hết đỉnh cao này đến đỉnh cao khác. Trước tình hình này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã lên tiếng cho biết sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến giá vàng trên thị trường. Nếu có diễn biến bất thường, NHNN sẽ có các giải pháp và đủ nguồn lực để bình ổn thị trường.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là, nếu can thiệp vào thị trường vàng trong nước thì NHNN sẽ dùng những giải pháp và nguồn lực nào?

Giải pháp đầu tiên có thể nghĩ đến đương nhiên sẽ là xuất vàng từ quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia để tăng cung vàng nhằm mục đích hạ nhiệt giá vàng trong nước. Nhưng liệu NHNN có thể xuất được bao nhiêu vàng từ nguồn này để bình ổn thị trường?

Để trả lời câu hỏi này, cần xem NHNN có khoảng bao nhiêu vàng trong dự trữ ngoại hối của họ. Theo số liệu từ CEIC (1), đến tháng 5/2020, NHNN có 560 triệu USD giá trị vàng nằm trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình. Con số này tăng khoảng 100 triệu USD so với hồi tháng 6/2019 như bảng dưới đây. 
Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp như thế nào vào thị trường vàng? - Ảnh 1.
Dựa trên giá vàng quốc tế tính theo USD/ounce (2) vào ngày giao dịch cuối mỗi tháng, ta tính được khối lượng ounce vàng mà NHNN đang nắm giữ trong quỹ ngoại hối của mình. Đến tháng 5/2020 thì lượng vàng này là 323,5 nghìn lượng. Quy đổi ra kg thì lượng vàng mà NHNN có trong tay tính đến tháng 5/2020 là hơn 9 tấn một chút. Lượng vàng này khá ổn định trong suốt một năm qua, quanh quẩn 9,1-9,2 tấn. Điều này chứng tỏ rằng khối lượng vàng vật chất trong dự trữ ngoại hối của NHNN không tăng; giá trị vàng nắm giữ tăng lên chủ yếu là nhờ giá vàng thế giới tăng.

Sự ổn định tương đối về lượng này còn được thể hiện ở tỷ trọng giá trị vàng nắm giữ trên tổng giá trị dự trữ ngoại hối của NHNN (dòng cuối cùng ở bảng trên), quanh quẩn trong khoảng 0,61% đến 0,75%. (Tổng giá trị ngoại hối hàng tháng của Việt Nam cũng được lấy từ nguồn CEIC (3)).

Trở lại với câu hỏi NHNN có thể xuất được bao nhiêu vàng trong dự trữ ngoại hối của mình để can thiệp vào thị trường trong nước. Từ bảng trên, về nguyên tắc, đương nhiên là NHNN có thể xuất toàn bộ số vàng mình đang có trong tay, tức khoảng hơn 300 nghìn lượng hay 9 tấn vàng.

Nhưng lưu ý rằng các ngân hàng trung ương trên thế giới thường có, duy trì một tỷ lệ nhất định của từng loại tài sản có trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình, gồm các loại ngoại tệ mạnh, Quyền rút vốn đặc biệt từ IMF, vàng, và một số loại tài sản khác (trong từng thời kỳ). Mục đích một phần là để đa dạng hóa danh mục tài sản cũng như tính đến biến động rủi ro của từng loại tài sản trong từng thời kỳ.

Cũng từ bảng trên cho thấy dường như NHNN duy trì một tỷ trọng vàng trên tổng dự trữ ngoại hối tương đối thấp và ổn định (0,61%-0,75%) trong suốt một năm qua tính đến tháng 5/2020.

Do đó, nếu giả sử NHNN muốn xuất vàng trong kho dự trữ để can thiệp thì lập tức tỷ lệ nắm giữ vàng sẽ sụt xuống thấp hơn mức mục tiêu mà họ đặt ra. Điều này buộc NHNN nếu có muốn xuất vàng thì cũng chỉ có thể xuất ở một mức độ rất nhỏ, chỉ khoảng 0,14% của dự trữ ngoại hối, tương đương 1,9 tấn vàng. Lúc đó, tỷ trọng vàng trong dự trữ ngoại hối sẽ tụt xuống đến mức thấp nhất có được trong 1 năm qua là 0,61% mà ở đây ta cứ tạm cho là mức an toàn tối thiểu về vàng NHNN cần nắm giữ. 
Như vậy, có thể thấy dù có muốn can thiệp bằng cách dùng vàng trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình thì NHNN cũng chỉ có thể can thiệp với một nguồn lực không đáng kể so với nhu cầu nắm giữ của dân chúng khi trong nước lên cơn sốt vàng.

Cách thứ hai để NHNN can thiệp vào thị trường vàng trong nước tất nhiên sẽ là dùng USD hiện có trong quỹ dự trữ ngoại hối để nhập vàng từ thị trường quốc tế. Nhưng cách này sẽ làm hao hụt dự trữ ngoại hối, vốn là một điều khá nhạy cảm, có thể thấy được trong những thời điểm mà NHNN phải cân nhắc có can thiệp ổn định tỷ giá USD/VND hay không. Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tuy đã tăng mạnh về giá trị nhưng thực ra cũng chỉ tương đương với hơn 3 tháng nhập khẩu là mức khuyến cáo tối thiểu cần duy trì.

Sự cần thiết phải dùng USD trong quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị trường vàng trong nước càng phải được cân nhắc hơn khi rủi ro về tỷ giá VND vẫn còn nguyên đó, dù đã phần nào lắng dịu trong thời gian hiện tại nhờ xuất siêu và sự yếu đi của USD trên thị trường tiền tệ quốc tế. Nếu không may mà cùng một lúc NHNN phải xuất USD để bình ổn cả hai thị trường (vàng và ngoại tệ) thì rõ ràng đây không phải là kịch bản được mong chờ.

Có một cách can thiệp vào thị trường vàng khác là NHNN để cho doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu vàng nhiều hơn. Nhưng cách này tuy có giúp NHNN tránh được việc phải trực tiếp dùng nguồn lực vàng, USD của mình để can thiệp thị trường vàng trong nước, nó vẫn gián tiếp làm căng thẳng thị trường ngoại hối trong nước khi doanh nghiệp phải mua gom USD để nhập vàng.

Để tránh tác động không mong muốn này thì vàng trong nước cần được để cho xuất ngược ra thị trường thế giới, thu về USD bù đắp sự tụt giảm cung USD trong nước. Thời điểm xuất ngược vàng này có thể diễn ra khi khi giá vàng trong nước đã dịu xuống, không còn chênh lệch lớn so với thế giới. Khi đó, doanh nghiệp nhập khẩu vàng trước đó đã thu lãi từ bán vàng trong nước với giá cao, nay sẽ mua lại vàng với giá thấp hơn để bán ra thị trường thế giới, thu về USD (và đổi ra VND nếu muốn).

Hoặc khi thị trường ngoại hối trong nước nóng lên, giá USD tăng, doanh nghiệp kinh doanh vàng lúc này có thể thu gom vàng trong nước xuất ra thế giới để thu USD về bán lại trong nước với giá tăng lên, do đó sẽ bù đắp cho việc nếu có phải mua vàng trong nước với giá cao.

Cả hai động thái mua gom vàng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài để thu về USD nhằm ổn định thị trường ngoại hối trong nước như nói trên đều đòi hỏi NHNN phải thay đổi một loạt chính sách chủ chốt về quản lý ngoại hối và vàng của họ như hiện nay, gồm tự do hóa kinh doanh và lưu chuyển ngoại tệ và vàng (trong và ngoài nước). Đây là điều mà trong thời gian ít nhất vài năm nữa sẽ khó mà xảy ra. Như vậy, đồng nghĩa với đó là khả năng can thiệp vào thị trường vàng của NHNN sẽ càng hạn hẹp hơn nữa.


Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).