Tuesday 29 September 2020

Thẳng thắn đương đầu với nợ xấu (Bài đăng trên CafeF, 29/9/2020, bản gốc)

https://cafef.vn/thang-than-duong-dau-voi-no-xau-20200929071059443.chn

Bất chấp đại dịch, kết quả kinh doanh nửa đầu năm của nhiều ngân hàng thương mại vẫn rất khả quan, với nhiều ngân hàng thậm chí báo cáo mức tăng trưởng lợi nhuận hai con số. Tuy vậy, điều này là không đáng ngạc nhiên bởi nó có được là một phần quan trọng nhờ vào Thông tư 01 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành giữa tháng 2 cho phép các ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng của dịch.

Do dịch bệnh đã quay lại hồi tháng 7 và nền kinh tế tiếp tục khó khăn, nợ xấu thực tế được dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh. Trước tình hình này, Thông tư 01 đang được xem xét sửa đổi để  cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đủ tiêu chuẩn đối với các khoản giải ngân từ ngày 23-1-2020 đến ngày 24-4-2020.

Nếu được thông qua, thông tư sửa đổi của Thông tư 01 sẽ tiếp tục làm nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng đỡ xấu, lợi nhuận ngành ngân hàng tiếp tục đẹp hơn thực tế. Quan trọng hơn, nhờ giải pháp kỹ thuật này mà ngân hàng vẫn tiếp tục được phép  đẩy mạnh cho vay mà không bị trói buộc quá chặt bởi nợ xấu và những yếu tố liên quan như trích lập dự phòng, tỷ lệ vốn tối thiểu v.v... vốn đã trở nên xấu đi nhiều nếu nợ xấu không được (gia hạn) cơ cấu. Điều này được kỳ vọng sẽ giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế nói chung và làm lợi cho ngành ngân hàng nói riêng.

Tuy nhiên, cuộc vui nào rồi cũng sẽ đến lúc tàn. Thông tư 01 dù có được sửa đổi thêm một hoặc vài lần nữa thì chắc chắn sẽ phải đến lúc không thể, không còn lý do để sửa đổi nó, để nó hết hiệu lực. Lúc đó, nợ xấu sẽ buộc phải nổi lên với quy mô vượt xa so với con số “đẹp” báo cáo trước đó. Các ngân hàng lúc này sẽ đột ngột phải đối mặt với khối nợ xấu đồ sộ này để rồi rơi vào tình trạng xấu không kém gì khi phải đương đầu ngay với các khoản nợ xấu tăng đột ngột do hậu quả của đại dịch trước đó.

Nói cách khác, việc cho phép che giấu nợ xấu chỉ giúp trì hoãn thời điểm chịu đau đớn, chứ không chữa được cơn đau chắc chắn sẽ xảy ra. Dẫu cũng có ngân hàng chủ động trích lập dự phòng, tích cực xử lý nợ xấu ngay cả trong thời gian được phép giấu nợ xấu, nhưng đây chỉ là thiểu số. Điều này một phần bởi quy mô và tiềm lực xử lý nợ xấu là khác nhau, chênh lệch đáng kể giữa các ngân hàng và nhóm ngân hàng. Mặt khác, vì phải (chạy theo) bảo đảm thành tích kinh doanh (chịu ảnh hưởng cửa tính nhiệm kỳ) nên các ngân hàng theo lẽ thường sẽ có xu hướng giấu nợ nhiều nhất có thể, nhất là khi được phép, nên dù có chủ động và tích cực đến mấy thì vẫn sẽ có một phần lớn nợ xấu được giấu đi, cả hợp pháp và bất hợp pháp (bằng các thủ thuật). 

Do vậy, nếu cân nhắc thiệt hơn, câu hỏi đặt ra là có nên tiếp tục sửa đổi Thông tư 01 để cho phép nợ xấu – vốn chắc chắn sẽ tiếp tục tăng mạnh bởi sự quay lại của dịch – được che giấu theo kiểu “giấu bụi dưới thảm”?

Nếu ngân hàng tiếp tục giấu nợ để tăng cường cho vay doanh nghiệp và nền kinh tế thì không thể phủ định được khả năng doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ phục hồi nhanh hơn và nợ xấu ngân hàng nhờ đó cũng sẽ được xử lý nhanh hơn. Nhưng quá trình theo lý thuyết này có thể sẽ tốn rất nhiều thời gian.

Công cuộc xử lý nợ xấu tích tụ từ những năm đầu thập kỷ này đã chật vật diễn ra trong nhiều năm cho đến khi có các giải pháp xử lý mạnh tay hơn như theo Nghị quyết 42 của Quốc hội và Đề án 1058 của Chính phủ, chưa kể sự ra đời trước đó của VAMC thì tình hình mới phần nào được cải thiện nhanh chóng hơn cho đến khi một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khó khăn do đại dịch năm nay.

Vấn đề là việc thực hiện Nghị quyết 42 ngay trong thời bình thường đã và đang gặp nhiều trở ngại, nhất là những vướng mắc pháp lý liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm, bất chấp nhiều trong số những trở ngại này đã được xác định để có hướng giải quyết. Trên thực tế, để xử lý được những vướng mắc pháp lý này thì phải sửa đổi đồng bộ nhiều luật như Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Nghị quyết 42 v.v... Điều chắc chắn là để cho đến khi không còn vướng mắc nữa thì bản thân những luật sửa đổi này cũng sẽ phải được sửa đổi thêm một đôi lần nữa như một thực tế thường thấy ở Việt Nam, tức là sẽ cần thêm không ít năm nữa.

Với thời gian dự kiến kéo dài để xử lý đống nợ xấu dồn lại sau đại dịch, triển vọng xử lý nợ xấu sẽ trở nên bất trắc hơn nếu đột nhiên nền kinh tế trong nước và thế giới lại phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng mới, là điều không thể nói trước được, tương tự như việc đột ngột xảy ra dịch Covid-19 giữa lúc Việt Nam đang quyết tâm đạt mục tiêu xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém trong giai đoạn 2016-2020 như đã đề ra. Lúc đó, sẽ lại có trì hoãn, gia hạn, và sửa đổi, cũng như các biện pháp mua thời gian giống và khác trong quá khứ và hiện tại, để rồi ngành ngân hàng tiếp tục ngụp lặn trong mớ rối ren không lối thoát.

Trên hết, việc giấu, làm đẹp nợ xấu cần được đi kèm với những giải pháp không được khuyến khích như chậm/trì hoãn áp dụng các chuẩn mực mới của quốc tế đã được nhiều nước áp dụng, ví dụ như tiêu chuẩn kế toán quốc tế IFRS 9 (trong khi Việt Nam vẫn áp dụng chuẩn kế toán VAS của riêng mình). Việc chậm chễ này sẽ để lại những hậu quả tương tự như việc chậm chễ áp dụng các chuẩn mực an toàn của Basel II và cao hơn.

Vì vậy, với triển vọng bất trắc trong xử lý nợ xấu khi được che giấu như trên, cần xem lại chủ trương sửa đổi, gia hạn Thông tư 01 hay những giải pháp tương tự trong tương lai mỗi khi nền kinh tế đối mặt với một cú số nào đó. Sự (bắt buộc phải) thẳng thắn đối mặt với nợ xấu ngay khi chúng phát sinh sẽ không chỉ tăng thêm tính minh bạch, lành mạnh của hệ thống mà còn giúp cho các ngân hàng có thêm động lực để xử lý nợ xấu sớm trong khả năng có thể.

Quá trình xử lý sớm và triệt để nợ xấu tất nhiên sẽ gây ra những hậu quả lập tức cho doanh nghiệp, ngân hàng và cả nền kinh tế. Nhưng điều này cũng là điều không thể tránh khỏi bởi hậu quả này không xảy ra sớm thì cũng xảy ra muộn mà hầu như không có phép màu nào giúp chúng ta tránh được.

Và trên hết, không nên đánh đổi sự lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế trong dài hạn lấy một vài điểm phần trăm tăng trưởng trong ngắn hạn. 

Sunday 27 September 2020

Dự thảo Nghị định về công bố thông tin của DNNN: Biết nhưng vẫn... chưa biết làm thế nào! (Bài đăng trên TBKTSG, 27/9/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/308566/du-thao-nghi-dinh-ve-cong-bo-thong-tin-cua-dnnn-biet-nhung-van-chua-biet-lam-the-nao.html


Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định việc công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước (DNNN); xây dựng, cập nhật, quản lý và khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi tắt là dự thảo nghị định). Mục đích dự thảo nghị định như bộ này cho biết là để thay thế Nghị định số 81/2015/NĐ-CP quy định về việc công bố thông tin của DNNN.

Với mục đích là để thay thế Nghị định 81, đương nhiên dự thảo nghị định cần thiết phải chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết của Nghị định 81 rồi đưa ra những quy định và điều khoản trong dự thảo nghị định để sửa chữa, khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết của Nghị định 81. Đáng tiếc là Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới chỉ thực hiện được phần nào vế đầu – chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết của Nghị định 81, mà chưa/không thực hiện được vế sau – đưa ra những quy định và điều khoản trong dự thảo nghị định để sửa chữa, khắc phục những hạn chế và khiếm khuyết của Nghị định 81.

Cụ thể, trong Tờ trình về dự thảo nghị định, Bộ Kế hoạch và đầu tư chỉ ra năm hạn chế trong hoạt động công bố thông tin của DNNN, gồm: (1) Việc công bố thông tin còn mang tính hình thức, chưa được thực hiện nghiêm túc; (2) Vẫn có doanh nghiệp chưa thực hiện công bố thông tin theo quy định; (3) Thời gian thực hiện công bố thông tin còn chậm so với quy định; (4) Cơ quan đại diện chủ sở hữu chưa thực hiện đầy đủ công bố thông tin của doanh nghiệp do mình làm đại diện chủ sở hữu; và (5) Nghị định số 81/2015/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể về việc công bố thông tin qua mạng điện tử của doanh nghiệp.

Các hạn chế từ số 1 đến số 4 trên có thể tóm tắt, phân loại lại thành sự thiếu năng lực, vô trách nhiệm, chây ỳ, coi thường pháp luật... của các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 81, từ cấp doanh nghiệp đến cơ quan đại diện chủ  sở hữu và cả Bộ Kế hoạch và Đầu tư với tư cách là đầu mối phối hợp, theo dõi và đôn đốc việc công bố thông tin của DNNN. Những “hạn chế” này còn gián tiếp cho thấy khiếm khuyết của Chính phủ khi để xảy ra tình trạng này kéo dài trong nhiều năm mà không có những biện pháp chế tài khắc phục và ngăn chặn, ngoài những giải pháp như “sẽ (quyết liệt) xử lý người đứng đầu...” (mà không thấy người đứng đầu nào, dù ở cấp thấp, bị xử lý cả).

Đã nhận thức rõ những “hạn chế” trên nhưng trong dự thảo nghị định hầu như không có bất cứ quy định hay điều khoản bổ sung gì để khắc phục được tình trạng chây ỳ, vô pháp nói trên. Ngay bản thân điều khoản về xử lý vi phạm về công bố thông tin trong dự thảo nghị định (điều 19), đây hầu như là “bê nguyên” từ điều 23 của Nghị định 81.

Để gọi là cho có thì ít nhất dự thảo nghị định cũng phải có quy định về ai, cấp cao nhất nào là người cuối cùng phải chịu trách nhiệm (và có chế tài tương ứng) khi để xảy ra những vi phạm “bền vững” trong công tác công bố thông tin DNNN từ năm này qua năm khác mà vốn cho đến nay chưa thấy ai bị làm sao.

Với hạn chế số 5, thực chất đây chỉ là sự thoái việc của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thay vì như trước đây doanh nghiệp gửi thông tin đến bộ này để bộ này tập hợp rồi đưa lên Cổng thông tin doanh nghiệp do họ quản lý thì nay, trong dự thảo nghị định, họ không còn phải trực tiếp làm việc này nữa mà sẽ do doanh nghiệp tự thực hiện. Sự “phân cấp” trách nhiệm này đương nhiên sẽ làm giảm ý nghĩa, vai trò và sự cần thiết của bộ này liên quan đến việc công bố thông tin DNNN.

Ngoài những điểm đáng chú ý nêu trên, hầu như không có một sự thay đổi đáng kể nào trong dự thảo nghị định so với Nghị định 81 theo hướng cải cách và nâng cao chất lượng công bố thông tin của DNNN. Nói cách khác, yếu kém, tồn tại thì đã rõ, đã biết nhưng các nhà làm luật, không biết vì yếu năng lực hay vì một trở ngại vô hình nào đó, lại không/chưa biết làm thế nào để dẹp bỏ những yếu kém, tồn tại này bằng luật pháp. Do đó, nếu dự thảo nghị định được chính thức thông qua thì điều chắc chắn có thể nhìn thấy sẽ là sự tiếp tục chây ỳ, có cũng như không trong công bố thông tin của DNNN như suốt 5 năm qua kể từ khi Nghị định 81 ra đời.

Do vậy, như được nêu trong tờ trình dự thảo nghị định, nếu muốn thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ triển khai Nghị quyết số 60/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hoá DNNN thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ở cấp cao hơn là Chính phủ cần phải làm nhiều hơn việc sửa chữa câu chữ và những tiểu tiết như trong dự thảo nghị định.

Friday 25 September 2020

Giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp: Cần nhưng không thể cào bằng (Bài đăng trên TBKTSG, 25/9/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/308565/giam-thue-de-ho-tro-doanh-nghiep-can-nhung-khong-the-cao-bang.html


Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính đã kiến nghị giảm 30% thuế thu nhập cho tất cả các doanh nghiệp năm 2020. Tuy nhiên, kiến nghị này đã đối mặt với nhiều ý kiến trái chiều. Từ một góc độ khác, người viết cũng cho rằng cách thức thực hiện ý kiến này là chưa hợp lý.

Cụ thể, theo Ban IV, kiến nghị giảm thuế xuất phát từ nguyện vọng của các doanh nghiệp sau 3 cuộc khảo sát tình hình doanh nghiệp từ tháng 3 năm nay do ban này thực hiện. Trong các cuộc khảo sát này, nhiều doanh nghiệp đã kiến nghị giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả năm 2019 và 2020.

Như vậy, kiến nghị của Ban IV thuần túy được dựa trên cơ sở khảo sát, hỏi ý kiến doanh nghiệp. Nhưng, như một lẽ tự nhiên, các doanh nghiệp nếu có được khảo sát thì sẽ thiên về hướng “than nghèo, kể khổ” rồi kiến nghị những điều có lợi cho mình, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh như hiện nay.

Do đó, nếu dựa hoàn toàn vào kiến nghị của doanh nghiệp được khảo sát như cách làm hiện tại của Ban IV thì kết quả khảo sát sẽ bị méo mó, thổi phồng hay tô đậm quá mức và các kiến nghị dựa trên kết quả này đương nhiên sẽ không hợp lý, khách quan, phản ánh đúng thực tế, và, do đó, không nên được sử dụng làm căn cứ cho các quyết sách kinh tế tương ứng.

Để công tâm, khách quan và có ý nghĩa hơn, mọi kiến nghị giảm thuế cho doanh nghiệp cần được xây dựng dựa trên những bằng chứng xác đáng, những tính toán tổng thể hơn, có cân nhắc đến nhiều mặt.
Trước hết, Ban IV, hay bất cứ đơn vị nào thực hiện các kiến nghị chính sách liên quan đến cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cần thu thập những bằng chứng cho thấy “đại bộ phận” (70%, 80%, 90%?) doanh nghiệp đang gặp thua lỗ, không thể hoạt động, đóng cửa, hoặc giải thể v.v... Số doanh nghiệp được điều tra này có thể là một mẫu doanh nghiệp lựa chọn ngẫu nhiên, gồm nhiều ngành, nghề, quy mô và địa phương...

Những bằng chứng về khó khăn của doanh nghiệp có thể là kết quả hoạt động kinh doanh đã kiểm toán hoặc nộp cho cơ quan thuế vụ, cơ quan chức năng trong các quý từ đầu năm nay. Nó cũng có thể đơn giản chỉ là bằng chứng chứng minh là doanh nghiệp đang gặp khó khăn như theo quy định áp dụng khi doanh nghiệp nào đó làm đơn xin hỗ trợ trong các gói hỗ trợ kinh tế lần thứ nhất và thứ hai trong năm nay.

Tiếp đó, Ban IV cần tính toán cụ thể ra được tác động của việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp lên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong năm nay và năm sau ở từng mức giảm thuế, ví dụ 30%, 50%. Một trong những tác động này có thể là, ví dụ, với mức giảm thuế 30% thì có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp điều tra sẽ không bị đóng cửa, ngừng sản xuất, kinh doanh.

Ngoài ra, cũng cần lưu ý bóc tách hoặc tính đến cả những biện pháp hỗ trợ khác của nhà nước cho các doanh nghiệp như cho vay doanh nghiệp để giữ chân người lao động, cắt giảm các loại thuế, phí và chi phí khác như đã và đang được đề xuất hay thi hành.

Tiếp theo, chỉ có thể dựa trên những bằng chứng điều tra, thu thập khách quan này thì Ban IV mới có thể xây dựng một chính sách giảm thuế phù hợp hơn, cụ thể như cho toàn bộ doanh nghiệp hay chỉ cho một số nhóm đối tượng doanh nghiệp, nếu có cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp thì sẽ cắt giảm bao nhiêu là đủ...

Cần lưu ý rằng không phải tất cả các doanh nghiệp đều gặp khó khăn nên cần phải được cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho tất cả các doanh nghiệp như đang được đề xuất. Thực tế cho thấy có nhiều doanh nghiệp lại thậm chí đang được hưởng lợi từ đại dịch. Do đó, mọi biện pháp hỗ trợ đều phải xuất phát từ nguyên tắc là tránh tình trạng cào bằng, là thiếu sót hiện tại trong kiến nghị của Ban IV.

Sau cùng, kiến nghị mức và quy mô, đối tượng được cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải tính đến khả năng chịu đựng của ngân sách nhà nước, chứ không chỉ đơn giản là dựa trên lập luận như của Ban IV là nếu không giảm thuế thì doanh nghiệp có doanh thu âm và nhà nước cũng không có thuế (nên phải giảm!).

Cũng giống như ở bất cứ nước nào trên thế giới, cứu trợ hay không, cứu trợ như thế nào và bao nhiêu... bao giờ cũng phải được thiết kế và tính toán trên khả năng của ngân sách. Và cũng xin lặp lại rằng doanh nghiệp luôn có xu hướng kêu than; khó khăn thì luôn vượt quá tầm cứu trợ của ngân sách mọi quốc gia. Nên kể cả ở những nước giàu như Mỹ và EU thì hầu như không có gói cứu trợ nào mang tính đại trà như kiểu giảm thuế đại trà cho mọi doanh nghiệp như đang được kiến nghị ở Việt Nam.

Do vậy, với ngân sách hạn hẹp, không kham nổi các gói cứu trợ trên diện rộng như ở Việt Nam thì dù biết là (một số) doanh nghiệp khó khăn nhưng chúng ta thậm chí vẫn phải để cho một số doanh nghiệp bị đào thải.

Xét trên khía cạnh này thì chí ít điều Ban IV cần làm là tính toán được thiệt hại và tác động của việc giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho mọi doanh nghiệp trong năm 2020 lên ngân sách nhà nước. Lưu ý rằng Chính phủ đã ước tính được nếu giảm 30% thuế thu nhập cho các doanh nghiệp có doanh thu năm 2020 dưới 200 tỷ đồng thì ngân sách hụt thu 23.000 tỷ đồng.

Vì vậy, con số hụt thu tương tự cho ngân sách khi phải thực hiện giảm 30% thuế thu nhập cho mọi doanh nghiệp là con số cần phải được tính toán ra để Chính phủ và Quốc hội có cơ sở cân nhắc trước khi thông qua kiến nghị của Ban IV. Lập luận mang tính định tính để biện minh cho kiến nghị của mình như hiện tại của Ban IV là không phù hợp để xây dựng chính sách.

Nếu Ban IV thấy rằng cách làm như trên để ra được một kiến nghị hợp lý là quá khó khăn, vượt tầm của Ban IV thì rõ ràng ban này không phải là nơi thích hợp để xây dựng các kiến nghị chính sách tương tự.

Friday 18 September 2020

Vì sao lãi suất của Việt Nam vẫn cao? (Bài đăng trên CafeF, 18/9/2020)

https://cafef.vn/vi-sao-lai-suat-cua-viet-nam-van-cao-20200917213453397.chn

Mặc dù Ngân hàng Nhà (NHNN) nước đã hai lần cắt giảm lãi suất chính sách năm nay, hồi tháng 3 và tháng 5, xuống còn 4,5% (Hình 1, với nguồn số liệu từ Tradingeconomics) nhưng nhìn chung lãi suất của Việt Nam vẫn thuộc dạng cao trong khu vực, kể cả so với những nền kinh tế cùng thứ hạng như Philippines, Indonesia hoặc Ấn Độ.


Nhiều cá nhân và tổ chức đã khuyến nghị NHNN tiếp tục giảm lãi suất chính sách thêm nữa trong bối cảnh lãi suất trong nước vẫn cao và nhiều nước vẫn đang tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ và thậm chí là nới lỏng định lượng (ngân hàng trung ương trực tiếp mua trái phiếu Chính phủ) kể từ đầu năm nay.

Trên thực tế, không thể chỉ đơn thuần nhìn vào mức chênh lệch lãi suất với các nền kinh tế để kêu gọi hạ lãi suất ở Việt Nam. Bởi lãi suất có giảm được hay không và bao nhiêu phụ thuộc trước tiên vào mức lạm phát của Việt Nam so với khu vực và thế giới.

Như Hình 2 cho thấy, trong khi xu hướng chung khi đại dịch nổ ra là lạm phát có xu hướng sụt giảm mạnh, thậm chí là tụt xuống dưới 0, nhưng ở một số nước như Việt Nam và Ấn Độ lạm phát vẫn neo ở mức đáng kể, trên 3%/năm vào các tháng gần đây.

Một điểm đáng lưu ý trong Hình 2 là đã có một mối liên hệ rõ ràng giữa lạm phát với lãi suất. Những nước có lạm phát càng thấp, thậm chí là âm như Singapore, Malaysia và Thái Lan thì lãi suất của họ cũng rơi xuống mức rất thấp.

Indonesia là một trong số những ngoại lệ. Tuy lạm phát của họ khá thấp trong những tháng gần đây nhưng lãi suất lại không được cắt giảm tương ứng – chững lại ở mức 4% kể từ lần điều chỉnh mới nhất hồi tháng 7 năm nay. Điều này là bởi ngân hàng trung ương nước này lo ngại việc cắt giảm thêm lãi suất chính sách sẽ tiếp tục làm suy yếu đồng bản tệ nước này, vốn đã giảm 1% giá trị so với USD, trở thành đồng tiền có kết quả tệ nhất trong khu vực trong tháng 8 nên họ đã quyết định giữ nguyên lãi suất sau 2 cuộc họp về chính sách trong tháng này.

Như vậy, có thể thấy tỷ giá cũng là một trong những tham số quan trọng khác để quyết định có cắt giảm lãi suất hay không. Liên hệ với Việt Nam, khó có thể phủ nhận rằng lãi suất được cắt giảm có chừng mực là một yếu tố, bên cạnh sự can thiệp trực tiếp vào tỷ giá (mua vào USD của NHNN), giúp duy trì sự ổn định của tỷ giá USD/VND trong suốt thời gian qua.

Sự ổn định tỷ giá có thể là một chính sách ưu tiên của NHNN trong thời gian qua. Sự ổn định này có thể được nhìn nhận là một biểu hiện thành công trong điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá của NHNN. Trong bối cảnh Mỹ cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ thì NHNN càng có thêm lý do để biện minh cho hành động không nới lỏng thêm quá mức chính sách tiền tệ (cắt giảm thêm lãi suất điều hành) để tỷ giá suy yếu đi, bởi làm thế sẽ giúp khẳng định thêm tính chính đáng của lời cáo buộc của Mỹ.

Trong những tháng tới, liệu NHNN có thể, có nên cắt giảm thêm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế không? Câu trả lời trước hết vẫn phải phụ thuộc vào diễn biến của lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới. Nếu lạm phát tiếp tục có xu hướng dịu đi thì rõ ràng NHNN sẽ có thêm dư địa để cắt giảm lãi suất hơn nữa.

Dù sự cắt giảm lãi suất này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của tỷ giá, làm tiền đồng mất giá danh nghĩa nhẹ so với USD, nhưng điều này không phải, không nên được coi là một yếu tố rủi ro châm ngòi cho sự trả đũa thương mại của Mỹ. Bởi, như người viết đã lập luận trước đây, cáo buộc thao túng tiền tệ của Mỹ hay của bất cứ nước nào không được phép dựa trên những hành động chính sách trong nước của nước sở tại như nới lỏng chính sách tiền tệ (để thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế), mà chỉ được phép dựa trên những bằng chứng rõ ràng cho thấy nước sở tại can thiệp trực tiếp vào tỷ giá (mua USD, bán bản tệ).

Cần lưu ý thêm rằng cho chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam vẫn ở mức độ tương đối đáng kể trong năm nay (và những năm tới) nên tỷ giá thực của VND so với USD đã và sẽ tiếp tục tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực tới tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Bởi vậy, duy trì sự ổn định tỷ giá danh nghĩa tiền đồng so với USD sẽ là không đủ để hạn chế sự lên giá thực này của tiền đồng. Thay vào đó, cần phải để tỷ giá danh nghĩa tiền đồng so với USD yếu đi theo mức độ chênh lệch lạm phát giữa hai nước, cũng như bản thân mức lạm phát tại Việt Nam so với lạm phát mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đề ra.

Việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa yếu đi, nếu có, cần được thực hiện chủ yếu thông qua điều chỉnh lãi suất chính sách thay vì can thiệp trực tiếp bằng việc mua USD như trong thời gian qua.

Wednesday 2 September 2020

Làm thế nào để tránh bị gán nhãn thao túng tiền tệ? (Bài đăng trên CafeF, 3/9/2020)

https://cafef.vn/lam-the-nao-de-tranh-bi-gan-nhan-thao-tung-tien-te-2020090309222278.chn


Mới đây Bộ Tài chính Mỹ đã xác quyết rằng VND đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019. Theo Bộ Tài chính Mỹ, việc định giá thấp này là kết quả của “hành động của Chính phủ Việt Nam lên tỷ giá”.(1)

Cũng vẫn theo Bộ Tài chính Mỹ, Việt Nam đã mua 22 tỷ USD gồm cả phần mua bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Bộ Tài chính Mỹ tính toán rằng hành động này của Việt Nam đã làm cho tỷ giá VND, ở mức danh nghĩa là 23.224 đồng/USD năm 2019, thấp hơn khoảng 1.090 đồng so với tỷ giá hối đoái thực cân bằng (equilibrium real exchange rates).

Báo chí trong nước đã đưa tin rộng rãi về quyết định này của Mỹ. Nhưng sự đưa tin này xem ra không đầy đủ, chính xác nên vẫn còn một số điều bỏ ngỏ, cũng như một số nhận định và khuyến nghị sai lầm của giới chuyên gia.

Tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá thực, tỷ giá thực cân bằng

Lưu ý lại về cáo buộc của Mỹ nói trên có liên quan đến 3 loại tỷ giá. Dường như đã có sự đánh đồng giữa 3 loại tỷ giá này. Bởi vậy, có nhiều người tỏ ra ngạc nhiên với lời cáo buộc này của Mỹ vì rõ ràng tỷ giá danh nghĩa VND của Việt Nam năm 2019 chỉ giảm (tức VND yếu đi) ở mức độ nhỏ là 0,11%, từ 23.189 đồng/USD vào ngày 30/12/2018 xuống 23.215 đồng/USD ngày 28/12/2019 (theo số liệu trên xe.com), thấp xa so với mức Mỹ cáo buộc là 4,7%.

Vì Mỹ cáo buộc rằng Việt Nam đã thao túng để cho tỷ giá danh nghĩa thấp hơn tỷ giá thực cân bằng nên ở đây ta cần hiểu qua về tỷ giá thực và tỷ giá thực cân bằng.

Tỷ giá thực là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh theo chênh lệch giá cả hàng hóa và dịch vụ ở trong nước và quốc tế. Khi tỷ giá danh nghĩa mạnh lên (bản tệ lên giá danh nghĩa so với USD) hoặc lạm phát trong nước tăng lên thì tỷ giá thực sẽ mạnh lên, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước so với thế giới. Để tránh sự lên giá thực của bản tệ thì ngân hàng trung ương hoặc Chính phủ nước sở tại thường phản ứng bằng cách giảm tỷ giá danh nghĩa của bản tệ (phá giá bản tệ).

Tỷ giá thực cân bằng là tỷ giá thực ở mức dẫn đến đồng thời sự cân bằng đối nội và đối ngoại. Cân bằng đối nội đạt được khi nền kinh tế đạt trạng thái lao động toàn dụng và lạm phát thấp. Cân bằng đối ngoại là trạng thái bền vững trong trung hạn của cán cân thanh toán quốc gia. Tỷ giá thực cân bằng thường được sử dụng như là một tham chiếu để đánh giá tỷ giá thực là quá mạnh hay quá yếu.
Trở lại với tỷ giá thực của VND so với USD, do lạm phát của Việt Nam năm 2019 (2,8%) cao hơn lạm phát của Mỹ (2,3%) nên tiền đồng đã lên giá thực so với USD, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam so với Mỹ.

Đây có lẽ là nguồn gốc của cáo buộc của Mỹ vì họ tin rằng, Việt Nam, như mọi quốc gia khác có cùng hoàn cảnh, không muốn thấy tỷ giá thực của bản tệ mạnh lên, đã can thiệp để tỷ giá thực này yếu đi bằng cách giảm tỷ giá danh nghĩa của VND so với USD.

Quả thật là tỷ giá danh nghĩa VND đã giảm nhẹ 0,11% trong năm 2019 như đã nói ở trên. Không chỉ vậy, Mỹ bằng cách nào đó đã tính toán rằng sự can thiệp của Việt Nam đã làm cho tỷ giá danh nghĩa của VND lẽ ra phải mạnh lên tới 23.224 – 1.090 = 22.134 đồng đổi 1 USD, là mức của tỷ giá thực cân bằng cần có cho VND trong năm 2019, chứ không dừng lại ở mức thực tế là 23.224 như cáo buộc.

Thao túng tiền tệ không liên quan đến chính sách tiền tệ

Cách can thiệp phổ biến vào tỷ giá danh nghĩa là Chính phủ/ngân hàng trung ương trực tiếp mua USD và bán ra bản tệ. Chính vì lý do này mà Mỹ và các tổ chức quốc tế mới đặt ra chỉ tiêu thể hiện thao túng tiền tệ gồm có mua vào ngoại tệ của nước sở tại. Theo như cáo buộc của Mỹ thì Việt Nam đã mua vào tới 22 tỷ USD trong năm 2019.

Đã có người “khuyên” NHNN biện hộ với Mỹ bằng  cách “khôn khéo để thuyết phục Mỹ là chúng ta không có mua vào ngoại tệ trong 6/12 tháng gần nhất, đồng thời cố gắng giải thích mục đích mua vào ngoại tệ không phải để thao túng tiền tệ nhằm hỗ trợ xuất khẩu”.(2)

Đáng tiếc là việc mua vào USD của NHNN là một thực tế do chính NHNN công bố rộng rãi. (3)(4) Với bằng chứng rành rành như vậy thì không thể “cãi” rằng chúng ta không có mua vào USD trong năm 2019. Còn việc giải thích rằng mục đích mua vào USD không phải là để thao túng tiền tệ xem ra chỉ có tác dụng khi Mỹ... ngây thơ!

Cũng từ từ cáo buộc trên của Mỹ mà một số người đã phê phán rằng những kêu gọi phá giá tiền tệ, để tiền VNĐ trượt mạnh hơn so với USD, là thiếu thận trọng trong việc cân nhắc sự đáp trả của các quốc gia khác.(2)

Cần lưu ý rằng Mỹ hay các đối tác khác nếu có cáo buộc Việt Nam thao túng tiền tệ là dựa trên bằng chứng Việt Nam đã can thiệp trực tiếp làm cho VND yếu đi trên thị trường ngoại hối bằng cách mua vào USD và bán ra VND. Nhưng điều này không có nghĩa là các hành động chính sách của Việt Nam gián tiếp làm yếu VND sẽ là mục tiêu cáo buộc của Mỹ và nước ngoài.

Đã có một sự đồng thuận rộng rãi rằng hành động chính sách, gồm chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, tác động thuận lợi đến tỷ giá của bản tệ – làm cho xuất khẩu của quốc gia trở nên cạnh tranh hơn – thì bản thân nó không phải là bằng chứng về thao túng tiền tệ.(5)(6)

Hành động chính sách gián tiếp làm yếu bản tệ gồm chính sách tiền tệ nới lỏng của ngân hàng trung ương để giảm lãi suất trong nước, kích thích tăng trưởng và việc làm, và hành động nới lỏng định lượng theo đó ngân hàng trung ương mua trái phiếu của doanh nghiệp hay Chính phủ (cho vay trực tiếp ra nền kinh tế) v.v... đều là những hành động can thiệp gián tiếp vào tỷ giá được phép mà không châm ngòi cho những cáo buộc thao túng tiền tệ như đang chứng kiến hiện nay.

Như vậy, NHNN vẫn hoàn toàn có quyền tự chủ, độc lập trong việc điều hành chính sách tiền tệ của mình, hoàn toàn có quyền, chẳng hạn như, tăng cung tiền để hạ lãi suất trong nước, nếu muốn, là cái mà rốt cuộc sẽ gián tiếp làm yếu VND để bảo vệ/nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam trong nước và quốc tế mà không sợ bị ai buộc tội là thao túng tiền tệ cả. Tương tự, NHNN nếu đến một thời điểm nào đó cần thiết thì vẫn hoàn toàn có quyền nới lỏng định lượng như nhiều nước đã làm để vực lại nền kinh tế và làm yếu VND để phục hồi/củng cố xuất khẩu mà không phải bận tâm đến nguy cơ bị cáo buộc thao túng tiền tệ.

Điều cần tránh để không bị dán nhãn “thao túng tiền tệ” chỉ là NHNN sẽ không được cho thấy có bằng chứng là đã và đang mua vào USD như trong quá khứ mà thôi.

Ở thời điểm hiện tại thì việc dừng mua USD của NHNN có thể là cần thiết vì Việt Nam đang có thặng dư thương mại lớn với Mỹ và quỹ dự trữ ngoại tệ đã đủ lớn (trên mức tối thiểu cần có là 3 tháng nhập khẩu). Tuy nhiên, trong tương lai, NHNN vẫn có thể nối lại việc mua USD trong một chính sách tổng thể làm yếu VND để kích thích xuất khẩu nếu thặng dư thương mại với Mỹ giảm đi hoặc đảo chiều, và dự trữ ngoại hối tụt giảm tương đối so với nhập khẩu v.v... mà không sợ bị Mỹ cáo buộc thao túng tiền tệ.


Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).