Tuesday 31 May 2016

Ngành dệt may đang và sẽ làm lợi nhiều hơn người ta nghĩ (Bài đăng trên CafeF, 31/5/2016)

http://cafef.vn/nganh-det-may-dang-va-se-lam-loi-nhieu-hon-nguoi-ta-nghi-20160529103129187.chn

Lâu nay chúng ta vẫn được nghe những lời phàn nàn, cảnh báo của nhiều người trong và ngoài ngành rằng ngành dệt may mang lại giá trị gia tăng thấp, do chủ yếu dựa vào gia công với tiền lương rẻ mạt, nên dù Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thành hiện thực thì ngành dệt may Việt Nam cũng khó có thể tận dụng được cơ hội mà TPP mang lại.

Đầu tiên, cần phải thừa nhận ngay rằng một bộ phận lớn trong ngành dệt may vẫn dựa trên gia công, sử dụng nhiều lao động với tiền lương chỉ vài triệu đồng/người/tháng, nên quả là giá trị gia tăng cho toàn ngành ở Việt Nam còn thấp, đặc biệt so với những phân khúc khác như thiết kế, phân phối và bán lẻ đa phần do người nước ngoài nắm giữ.

Nhưng cũng phải nhìn nhận một cách công bằng rằng giá trị gia tăng ngành dệt may không chỉ dừng lại ở tiền lương, và cho công nhân trong ngành dệt may. Ngành dệt may phát triển còn mang đến nhiều cơ hội phát triển lan truyền như những ngành sản xuất phụ kiện, bao bì, vận tải, phân phối, dịch vụ, năng lượng, xây dựng v.v... Đến lượt chúng, những ngành này lại lôi kéo theo sự phát triển của những ngành khác. Cứ như thế, các ngành liên quan sẽ thúc đẩy nhau cùng tăng trưởng, tạo ra giá trị gia tăng vượt trội hơn là nếu chỉ nhìn vào từng ngành riêng lẻ tự thân phát triển.

Thứ hai, cũng không thể bỏ qua đóng góp của ngành dệt may từ một vấn đề hết sức hiển nhiên nhưng hầu như không ai nghĩ đến khi bàn luận về sự đóng góp của ngành dệt may. Đó là ngành này mang lại cho ngân sách một khoản thu không hề nhỏ dưới dạng thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, doanh nghiệp, các loại phí theo quy định. Lấy ví dụ về thuế nhập khẩu, thuế suất ưu đãi nhập khẩu vải bông là 12%; một số loại vải nhập từ Trung Quốc còn có thuế suất cao hơn, lên đến 15%-20%. Do vậy, nếu tính sơ sơ thì riêng tiền thuế, phí các loại nộp vào ngân sách đã lên đến cả chục USD hoặc hơn tính cho một cái áo sơ mi có giá bán ở nước ngoài là 100 USD.

Cùng một lý do như vậy, tiền thuế và phí thu được các ngành “ăn theo” nói trên cũng nên và cần được tính vào đóng góp của ngành dệt may cho nền kinh tế Việt Nam.
Thứ ba, ngành dệt may là một trong những nền tảng ban đầu cần thiết để tạo ra bước chuyển biến trong cơ cấu kinh tế của hầu như bất cứ một nền kinh tế đang phát triển, dư thừa nhiều lao động với trình độ và tay nghề thấp, giá rẻ như Việt Nam trong những thập kỷ qua. Ngay cả những “con rồng châu Á” như Hong Kong, Đài Loan cũng từng có ngành dệt may phát triển khá thịnh trước khi đi vào suy vong vì giá nhân công ngày càng tăng lên đến mức đắt đỏ phi kinh tế theo đà tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế những vùng lãnh thổ này, buộc họ phải “di dời” ngành này ra các nước ở trình độ phát triển kém hơn, có chi phí nhân công rẻ hơn.

Với Việt Nam, cho dù có thể là ngành dệt may đang chỉ mang lại đồng lương khiêm tốn cho công nhân nhưng thử tưởng tượng nếu ngành dệt may ở Việt Nam không phát triển như bây giờ thì vài triệu nhân lực trong ngành này, cộng thêm một số lượng không nhỏ nữa trong những ngành “ăn theo”, liên đới sẽ đi về đâu, làm gì, sống ra sao?

Và cho dù có là ngành có giá trị gia tăng thấp thì ngành dệt may vẫn đang là “mảnh đất hứa”, một chiến trường cạnh tranh khốc liệt với nhiều quốc gia đang phát triển như Việt Nam, gồm Campuchia, Bangladesh, Sri Lanka, Pakistan, và Myanmar… Không có mấy nước đang phát triển lại coi rẻ, từ chối cơ hội phát triển của ngành này nếu có. Bằng chứng thực tế là nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang lên tiếng lo ngại về việc mất đơn đặt hàng vào tay các doanh nghiệp ở Campuchia và Bangladesh với giá nhân công rẻ hơn, trong khi những người ngoài cuộc thì lại cứ như muốn bàn ra về tương lai của ngành này ở Việt Nam.

Đương nhiên giải pháp trên giấy thì bao giờ cũng dễ, cũng hiển nhiên. Không ai không biết rằng trong công đoạn từ nguyên liệu ra đến sợi, vải, thiết kế, cắt, may, phân phối, bán lẻ thành phẩm thì khâu cắt may là khâu mang lại giá trị gia tăng kém nhất. Nhưng để nắm, thâu tóm được các khâu khác có giá trị gia tăng cao hơn thì không phải tự nhiên mà đa phần chỉ có các doanh nghiệp FDI ở các nước phát triển mới có thể làm được, khi họ trước đây cũng đã phải trải qua quá trình như Việt Nam hiện tại. Vậy thì không nên kỳ vọng sự phát triển thần kỳ theo kiểu nhảy vọt, đốt cháy giai đoạn trong ngành này ở Việt Nam, tuy các chất xúc tác như nêu ở điểm thứ tư dưới đây có thể thúc đẩy sự phát triển diễn ra nhanh hơn.

Thứ tư, có thể coi TPP là một chất xúc tác mạnh thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam. TPP mang đến hiệu quả giảm thuế nhập khẩu về 0% vào thị trường chính là Mỹ. Nhờ thuế giảm về 0%, sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may của Việt Nam so với các đối thủ hiện tại như Campuchia, Bangladesh và kể cả Trung Quốc tự nhiên tăng vọt sau một đêm (khi TPP có hiệu lực).

Giả sử cùng có giá bán lẻ là 100 USD ở Mỹ, một cái áo sơ mi của Việt Nam trước đây có giá xuất khẩu FOB là 60 USD, của Trung Quốc là 55 USD, và đều chịu thuế nhập khẩu vào Mỹ, ví dụ, là 10%. Khi được nhập khẩu vào Mỹ, áo của Việt Nam có tổng chi phí là 66 USD, lại càng cao hơn của Trung Quốc là 60,5 USD. Nhưng khi TPP có hiệu lực, áo của Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ chỉ còn chi phí đúng 60 USD nên thậm chí còn rẻ hơn cả áo của Trung Quốc vẫn có chi phí là 60,5 USD.

Câu chuyện hiệu quả của giảm thuế chưa dừng ở đây. Khi áo của Việt Nam trở nên rẻ hơn các đối thủ khác thì người Mỹ sẽ quay sang mua áo của Việt Nam nhiều hơn, mua của đối thủ khác ít hơn. Quy mô đơn đặt hàng vì thế tăng lên, giúp nhà sản xuất Việt Nam có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất (và việc làm), cắt giảm chi phí, gia tăng lợi nhuận, tạo điều kiện tái đầu tư, trang bị thiết bị tiên tiến hơn, thuê nhiều chuyên gia để “lấn” sang những khâu có giá trị gia tăng cao hơn như tự thiết kế, tự sản xuất hoặc mua nguyên liệu và tự bán sản phẩm. Nhưng cũng cần phải lặp lại rằng quá trình này cũng không thể tăng tốc đột ngột trong ngày một ngày hai, mà cần phải có thời gian tính bằng năm.

Chưa hết, TPP còn thúc đẩy sự phát triển công nghiệp thượng nguồn trong ngành dệt may với quy tắc “Từ sợi trở đi”. Đương nhiên là một bộ phận lớn ngành công nghiệp thượng nguồn này bước đầu (như hiện tại) sẽ nằm trong tay doanh nghiệp FDI, từ Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan, Malaysia hay Mỹ nhưng đó không phải là điều xấu (hổ) vì nó là hiển nhiên như với hầu hết mọi ngành công nghiệp khác trong giai đoạn nền kinh tế đang chuyển mình, đang phát triển, khi các nhà đầu tư trong nước chưa đủ tiềm lực tài chính, năng lực quản lý và công nghệ để cạnh tranh được với nhà đầu tư nước ngoài.

Nhưng chí ít thì các doanh nghiệp nước ngoài trong ngành công nghiệp thượng nguồn này cũng là một bộ phận cấu thành khăng khít của nền kinh tế nội địa, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu, đồng thời cũng nộp thuế, tạo công ăn việc làm, làm lan truyền vào chuyển giao công nghệ, thu hút những doanh nghiệp vệ tinh của địa phương v.v…tạo ra những nền tảng mới cho sự chuyển dịch cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Nói cách khác, ngành dệt may Việt Nam đã và đang đóng góp nhiều hơn, và có tầm quan trọng lớn hơn những gì mà nhiều người đang nhìn nhận. Vai trò và đóng góp này còn được kỳ vọng sẽ ở mức cao hơn nhiều khi TPP có hiệu lực.

Monday 30 May 2016

Thông tư 36 sửa đổi: Có khả năng… tiếp tục phải sửa đổi (Bài đăng trên CafeF, 30/5/2016, bản gốc)

http://cafef.vn/thong-tu-36-sua-doi-co-kha-nang-tiep-tuc-phai-sua-doi-20160530082022987.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã ban hành Thông tư 06/2016/TT-NHNN để thay thế Thông tư 36 sau một thời gian lấy ý kiến phản hồi cho bản dự thảo sửa đổi Thông tư 36. Nội dung của Thông tư 06 có 2 điều chỉnh lớn khác với dự thảo. Thứ nhất, quy định hệ số quy đổi rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản là 200% từ thời điểm 1/1/2017, thay vì 250% như trong dự thảo. Thứ hai, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn được giảm theo lộ trình từ 60% xuống 50% từ 1/1/2017 và 40% từ 1/1/2018, thay vì giảm ngay như trong dự thảo.
Có thể nói ngay rằng những sửa đổi trên là một hành động tích cực “lắng nghe” phản biện của thị trường của NHNN, vì lập trường ban đầu của NHNN khi đưa ra dự thảo sửa đổi Thông tư 36 tỏ ra rất quyết liệt, cứng rắn trong các luận điểm của mình để bảo vệ các nội dung dự thảo sửa đổi Thông tư 36.
Tuy vậy, hành động “lắng nghe” thị trường nói trên lại cho thấy rủi ro mà NHNN đang phải đối mặt. Do vẫn còn mang tính đối phó, và dễ bị “lung lạc” bởi thị trường nên cũng như một số quy định khác của NHNN, Thông tư này dễ có nguy cơ phải thay đổi, trì hoãn áp dụng sau khi được ban hành.
Nhìn lại bối cảnh của dự thảo sửa đổi Thông tư 36. Xuất phát điểm của dự thảo sửa đổi là lo ngại nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng nóng với nguồn vốn tín dụng ngân hàng đổ dồn vào khu vực bất động sản, và một tỷ trọng lớn của nguồn vốn tín dụng này lại có nguồn gốc từ huy động tiền gửi ngắn hạn. Trong quan điểm của mình, có thể NHNN thấy cần phải đối phó từ sớm với lo ngại này dựa trên kinh nghiệm những gì đã xảy ra trước đây. Do đó, hệ số quy đổi rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản được đề xuất nâng mạnh lên 250% từ mức 150% và tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm mạnh xuống 40% từ 60% như trong Thông tư 36.
Nhưng như đã được chỉ ra, thay vì đưa ra những mục tiêu mang tính đơn lẻ như siết tín dụng chỉ riêng vào lĩnh vực bất động sản, NHNN lẽ ra phải đưa ra những mục tiêu mang tính tổng quát như siết tín dụng vào những lĩnh vực, ngành nghề mang tính đầu cơ cao, nhiều rủi ro dẫn đến sự trồi sụt của nền kinh tế. Những mục tiêu này có thể đạt được bằng cách thắt chặt các quy định an toàn về hoạt động tín dụng như tỷ lệ nợ xấu được phép, tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, và tỷ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, và thậm chí là chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế hay riêng cho từng TCTD. Nếu làm tốt được việc này thì NHNN không bị sa vào chuyện điều tiết một cách quá vi mô nền kinh tế, cản trở một cách không đáng có sự tăng trưởng lành mạnh của một ngành nào đó (trong trường hợp này là ngành bất động sản, khi tất cả các bên liên quan đều cho rằng nó vẫn đang phát triển lành mạnh, chưa có nguy cơ tăng trưởng quá nóng), mà vẫn đồng thời ngăn ngừa được khả năng tăng trưởng nóng của một ngành nào đó chưa lộ diện rõ rang.
Trở lại với quy định tỷ lệ 200% thay vì 250% như đề xuất ban đầu trong lĩnh vực bất động sản nói trên. Có thể nói đây là kết quả chủ yếu của việc “thỏa hiệp” trước phản đối mạnh mẽ của thị trường. Nên cũng dễ hình dung rằng NHNN sẽ phải một lần nữa trong tương lai không xa đưa ra những sửa đổi hay trì hoãn áp dụng tỷ lệ này khi thị trường bất động sản có dấu hiệu đuối sức hay nền kinh tế chật vật tăng trưởng trong khi tín dụng không thể đẩy lên được. Cũng cần nhớ lại rằng tỷ lệ này đã được thay đổi đột ngột vài lần và trong một thời gian không quá dài, như trong Thông tư 36 và những thông tư trước đó.
Chưa hết, với những diễn biến nhanh chóng của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng trong mấy tháng qua, Thông tư 06 của NHNN lại đang phải đối mặt thêm với khả năng lạc nhịp.
Như đã nói, bối cảnh đưa ra dự thảo sửa đổi Thông tư 36 là khả năng tăng trưởng nóng của bất động sản, là rủi ro tăng cao khi tín dụng tăng trưởng mạnh nhưng lại dựa nhiều vào vốn huy động ngắn hạn. Nhưng hiện tại, tăng trưởng tín dụng nói chung đang có dấu hiệu chững lại trong tháng 5, trong khi tăng trưởng tín dụng cho bất động sản vẫn ở mức bình thường (chẳng hạn, theo NHNN Thành phố Hồ Chí Minh, tín dụng bất động sản chiếm tỷ lệ 12,7% trong tổng dư nợ trên địa bàn, trong khi tín dụng chung tăng trưởng 17,2% trong 4 tháng đầu năm so cùng kỳ năm trước). Điều này cho thấy khả năng NHNN sắp tới sẽ phải tìm cách “thúc” tăng trưởng tín dụng hơn nữa, mà một trong những cách hữu hiệu nhất là thông qua đẩy mạnh vốn vào bất động sản. Nhưng nếu theo hướng này thì NHNN lại phải tìm cách nới lỏng tỷ lệ 200% nói trên hay phải trì hoãn áp dụng tỷ lệ này khi nó vừa mới được áp dung.
Ngoài ra, tuy người viết vẫn ủng hộ việc siết tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn như là một phương pháp giảm thiểu rủi ro chung cho hệ thống ngân hàng, nhưng điều NHNN cần làm là phải xác định rõ cơ sở tại sao lại đưa ra quy định là 40% hay 50% mà không phải là một mức nào khác, kể cả 60% như hiện tại (lưu ý lại rằng mức này cũng vừa thay đổi trước đây không lâu)? Và quy định này có là nhất quán trong trung và dài hạn hay chỉ là một phản ứng nhất thời của NHNN?
Nếu chỉ là một phản ứng nhất thời, theo hướng thỏa hiệp với sự phản đối của thị trường thì, tương tự như trên, rất có khả năng NHNN lại phải thay đổi hoặc trì hoãn áp dụng tỷ lệ 50% vừa mới quy định trong Thông tư 06 ngay trong từ đầu năm 2017 khi tăng trưởng tín dụng tiếp tục xu hướng giảm nhịp như hiện tại, dẫn đến tăng trưởng cả năm chậm hơn dự kiến, kéo giảm tăng trưởng GDP.
Tóm lại, rất có thể NHNN sẽ phải thay đổi, điều chỉnh hoặc trì hoãn áp dụng một số nội dung trong Thông tư 06 vừa mới ban hành thay cho Thông tư 36 trong tương lai gần khi tình hình diễn ra khác với bối cảnh khi xây dựng thông tư này. Bài học rút ra ở đây là NHNN cần phải nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, với tầm nhìn dài hạn, nhất quán, và tiên liệu được nhằm đảm bảo cho thị trường vận hành thông suốt.

Friday 27 May 2016

Thêm về chuyện Mỹ “nợ” Việt Nam hàng chục tỷ USD (Bài đăng trên CafeF, 27/5/2016)

http://cafef.vn/4-thong-tin-can-biet-ve-chuyen-my-no-viet-nam-hang-chuc-ty-usd-20160527102726445.chn

Báo Trí thức trẻ mới đây có bài viết “phát hiện” ra Việt Nam đang là một trong những chủ nợ của Chính phủ Mỹ khi Việt Nam đang nắm hơn 12,1 tỷ USD trái phiếu dài hạn của Chính phủ Mỹ. Trong bài này, chúng ta sẽ phân tích sâu thêm về chuyện Mỹ “nợ” Việt Nam để trả lời một số câu hỏi có liên quan mà nhiều người thắc mắc.

Câu hỏi đầu tiên là Việt Nam thực sự nắm bao nhiêu tài sản tài chính ở Mỹ?

Như báo đã đưa tin, Việt Nam đang nắm giữ 12,1 tỷ USD trái phiếu dài hạn của Chính phủ Mỹ. Chính xác ra thì đây là các loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 2, 3, 5, 7, 10 và 30 năm và trả lãi cứ 6 tháng một lần, gọi là Treasury bond và Treasury note.

Ngoài trái phiếu dài hạn nói trên, Việt Nam rất có thể nắm giữ các loại tín phiếu (Treasury bill) có kỳ hạn 4, 13, 26, và 52 tuần, được phát hành dưới mệnh giá (ví dụ, mệnh giá là 100 USD, giá phát hành chỉ là 99,98 USD, khi đáo hạn thì nhà đầu tư được lĩnh đủ 100 USD). Nhưng Bộ Tài chính Mỹ không tách bạch số liệu này cho Việt Nam.

Thay vào đó, họ gói gộp khoản này vào với các hạng mục tài sản nợ với nước ngoài được báo cáo bởi các ngân hàng và các công ty tài chính của Mỹ. Các hạng mục tài sản nợ nước ngoài này gồm chứng chỉ tiền gửi của nước ngoài có hoặc không thương lượng, trái khoán ngắn hạn của Chính phủ Mỹ (gồm tín phiếu), và các loại tài sản nợ khác.

Tổng trị giá các hạng mục tài sản nợ của các ngân hàng và công ty tài chính Mỹ với Việt Nam đứng ở mức 6,8 tỷ USD tính đến hết tháng 3/2016.

Từ các số liệu trên, có thể nói rằng Việt Nam đang nắm giữ khoảng gần 19 tỷ USD tài sản tài chính ở Mỹ, dưới dạng trái phiếu và tín phiếu Chính phủ cũng như các giấy tờ có giá khác ở các ngân hàng và công ty tài chính Mỹ.

Tuy nhiên, con số thật sự có thể chưa dừng ở mức này vì những số liệu trên chỉ mới là số liệu về nắm giữ trực tiếp của cá nhân, tổ chức ở Việt Nam và Chính phủ Việt Nam (với phía Mỹ thì gọi chung là foreign residents). Ngoài ra, cá nhân, tổ chức và Chính phủ Việt Nam có thể đã mua các trái phiếu, tín phiếu của Mỹ gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng, các công ty môi giới tài chính, công ty bảo hiểm, và các quỹ tín thác, quỹ đầu tư của Mỹ và nước ngoài v.v…

Các giao dịch này được thống kê vào các hạng mục tương ứng (của Mỹ, của nước khác) nên rất có thể là người Việt Nam còn nắm giữ một lượng tài sản tài chính đáng kể khác ở Mỹ, ngoài con số 19 tỷ USD nói trên, và không được phản ánh đầy đủ vào con số thống kê của Bộ Tài chính Mỹ.

Câu hỏi thứ hai là giả sử người Việt chỉ sở hữu 19 tỷ USD các loại trái phiếu và tín phiếu của Chính phủ Mỹ. Vậy số tài sản này mang lại bao nhiêu tiền lãi cho Việt Nam hàng năm?

Để dễ trả lời, ta bắt đầu với khoản 12,1 tỷ USD trái phiếu kỳ hạn từ 2 đến 30 năm như nói trên. Lợi suất trái phiếu vào ngày 24/5 là 0,92%/năm cho kỳ hạn 2 năm và tăng dần lên đến 2,65%/năm cho kỳ hạn 30 năm. Vậy khoản trái phiếu 12,1 tỷ USD hàng năm mang lại cho Việt Nam từ ít nhất là 110 triệu đến tối đa 318 triệu USD, tùy thuộc vào cơ cấu kỳ hạn của trái phiếu mà Việt Nam nắm giữ (càng dài hạn thì lợi tức trái phiếu thu về càng cao).

Với khoản 6,8 tỷ USD tài sản tài chính khác, giả sử chỉ gồm toàn tín phiếu Chính phủ Mỹ (kỳ hạn từ 1 năm trở xuống), thì lợi suất giao động từ 0,28%/năm cho loại kỳ hạn 1 tháng đến 0,69%/năm cho kỳ hạn 1 năm, và, do đó, Việt Nam sẽ thu về thêm khoảng từ 19 triệu đến 47 triệu USD hàng năm.

Lưu ý rằng một số loại tài sản tài chính khác Việt Nam đang nắm giữ ở các ngân hàng và công ty tài chính Mỹ hoặc nước ngoài có thể đang mang lại lợi suất cao hơn lợi suất tín phiếu Chính phủ Mỹ. Nhưng vì ta không có số liệu bóc tách nên không thể tính toán chi tiết hơn được.

Câu hỏi thứ ba là tính thanh khoản của các tài sản tài chính này như thế nào?

Với các loại trái phiếu và tín phiếu Chính phủ Mỹ thì tính thanh khoản cực kỳ cao. Nhà đầu tư có thể bán lại ngay một cách dễ dàng các trái khoán này qua nhiều kênh, nhiều đối tượng, ở nhiều nước, thậm chí là bán lại ngay cho chính Bộ Tài chính Mỹ, tất nhiên là với một khoản chiết khấu nhỏ trong giá bán.

Còn các loại giấy tờ có giá khác, các chứng chỉ nhận nợ của các ngân hàng và các tổ chức tài chính ở Mỹ hoặc nước ngoài thì đương nhiên sẽ có tính thanh khoản kém hơn, và do đó có thể phải bán lại với mức chiết khấu cao hơn, tùy thuộc loại hình và tổ chức phát hành. Nhưng bù lại thì thường những tài sản tài chính này đem lại lợi nhuận lớn hơn cho nhà đầu tư theo đúng nguyên tắc “lợi nhuận cao thì rủi ro cao”.

Câu hỏi thứ tư là bản chất của khoản tiền này là gì, có phải là đầu tư kiếm lời không hay vì lý do khác; nếu là đầu tư thì ai quyết định?

Điều có thể nói ngay là một phần đáng kể trong số tài sản tài chính nói trên (tạm coi là 19 tỷ USD) là thuộc sở hữu của, do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đầu tư trực tiếp hoặc thông qua một bên thứ 3. Lý do để NHNN làm việc này là vừa đa dạng hóa danh mục tài sản dự trữ ngoại hối, vừa đem lại lợi nhuận, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo tính an toàn và thanh khoản cao của khoản đầu tư để lúc cần có thể chuyển đổi ngay thành tiền mặt hoặc các loại tài sản khác đáp ứng các nhu cầu đột xuất trong nước.

Với một loạt tiêu chí khá mâu thuẫn, đồng thời phải đáp ứng cùng một lúc như vậy thì đầu tư vào trái phiếu và tín phiếu Chính phủ Mỹ là một điều bắt buộc, và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dự trữ ngoại hối của Việt Nam.

NHNN cũng là chủ sở hữu một số giấy tờ có giá khác gồm chứng chỉ tiền gửi, các khoản đầu tư trực tiếp hoặc thông qua một bên thứ 3 với mục đích chính là sinh lãi (tính an toàn và thanh khoản xếp hàng sau), nhưng vì đây không phải là mục đích chính của việc quản lý quỹ ngoại hối quốc gia nên tỷ trọng của những tài sản này trong số tài sản dự trữ ngoại hối NHNN mang ra đầu tư nước ngoài là khá nhỏ.

Số còn lại trong 19 tỷ USD nói trên là tài sản thuộc cá nhân và các tổ chức tài chính, các tổ chức khác ở Việt Nam. Tuy vậy, mục đích đầu tư cũng rất đa dạng, từ kiếm lời đến đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro, phòng ngừa rủi ro v.v…

Chắc chắn bạn đọc sẽ còn nhiều câu hỏi liên quan nữa, xin vui lòng gửi cho tác giả thông qua tòa soạn để được giải đáp thỏa đáng.

Thursday 26 May 2016

Trả lời bạn đọc (tiếp)

Đồng chí bạn đọc hồm trước tiếp tục comment, và tớ tiếp tục trả lời như dưới đây.

Đồng chí bạn đọc viết: Trong phần comment trước, em muốn nêu ý kiến rằng thật ra SBV cũng chưa thực hiện chính sách cụ thể gì để nới lỏng tiền tệ và do vậy, việc lãi suất chưa giảm cũng không phải do các NHTM chiếm dụng vốn funding cho các khoản nợ xấu đang tồn đọng.
Về việc
SBV đã thực sự thực hiện biện pháp nới lỏng tiền tệ hay chưa: hoàn toàn đồng ý với anh răng việc SBV mua hơn 6 tỷ USD, bơm VND ra là 1 một hình thức nới lỏng CSTT. Tuy nhiên, nếu so với năm 2015 SBV bán ra gần 9 tỷ USD hút VND vào thì về tổng thể từ đầu 20145 tới nay, SBV vẫn đang hút ròng từ hệ thống NHTM khoảng 45k tỷ VND . Như vậy đâu phải do SBV nới lỏng tiền tệ. {phần này em nhầm về số liệu, xin phép edit bỏ đi ạ}

Trả lời: Tớ không sai tẹo nào cả! Đồng chí chỉ nghĩ đến chuyện bơm/hút tiền để mua/bán USD mà quên mất rằng ngoài việc này SBV đã có thể bơm tiền vì mục đích khác, ví dụ, cứu thanh khoản. Tất cả đều phản ánh qua con số thực tế đã công bố, chứ tớ chẳng bịa ra được.

Nói cách khác, ai đó có khả năng bị ung thư phổi, đồng chí là bác sĩ, lại phán rằng chắc không phải, vì hỏi bệnh nhân và được trả lời rằng không hút thuốc!

Đồng chí
bạn đọc viết:  Về việc các NHNN tận dụng nguồn nới lỏng để tài trợ cho nợ xấu: trong phần trả lời của anh rằng "nhu cầu giữ lại vốn huy động giành cho nhu cầu nội tại là có thật" thì em hoàn toàn đồng ý với anh. Tuy nhiên, nhu cầu này không phải chỉ xuất hiện từ 1-2 năm nay mà nó đã có từ rất lâu hồi 2011-2012, khi NHNN bắt đầu quá trình tái cơ cấu ngành ngân hàng. Tới cuối 2015, khi hoàn tất quá trình tái cơ cấu, thì nguồn funding cho "cục máu đông" này năm chủ yếu ở các ngân hàng 0 đồng, kiểm soát đặc biệt, và dạng NHNN nhận ủy quyền của các cổ đông lớn, ... Và như vậy, gói hỗ trợ (nếu có) cũng chỉ funding cho nhóm ngân hàng này chứ không phải cho cả hệ thống NHTM. Tuy nhiên, theo em suy đoán, thì SBV đã có những phương thức khác funding cho các ngân hàng này mà không làm tăng cung tiền của toàn hệ thống (ví dụ như ép các nh có vốn nhà nước hỗ trợ vốn cho nhóm này).

Trả lời: Lập luận này cũng sai về logic. Đúng là nhu cầu nội tại là có từ lâu (và tớ đã đúng khi đoán thế nào cũng có người lôi chi tiết này ra!) nhưng đồng chí bỏ qua khả năng là nhu cầu nội tại này đã lớn lên (đột xuất) cùng với thời gian. Ví dụ, những năm trước đây khi chưa có VAMC, khi chưa bị thanh tra tỷ lệ nợ xấu thực tế thì các ngân hàng không cần phải trích dự phòng nhiều. Nhưng 2, 3 năm gần đây tình hình đã khác, khi nợ xấu được phanh phui và buộc phải trích lập dự phòng đầy đủ; và kể cả khi có VAMC thì hàng năm vẫn phải trích lập 20% cho nợ xấu.

Đồng chí bạn đọc viết: Như vậy, em muốn khẳng định quan điểm rằng : SBV chưa thực sự nới lỏng chính sách tiền tệ dù dư địa chính sách còn khá nhiều. Hiện nay, SBV có rất nhiều công cụ hạ lãi suất mang tính thị trường chứ không phải chỉ có chính sách hành chính kiểu như hạ dự trữ bắt buộc, trần huy động cho vay, ... Như các cụ chuyên gia về hưu, 5 năm nay không cập nhật tình hình hoạt động của NHNN đem ra bàn bạc (nói cái này thì khối cụ giận : )

Trả lời: Như tớ nói ở trên, rằng tớ không bịa ra được số liệu nên căn cứ vào những gì đã được công bố thì không thể kết luận khác được, và phản biện của đồng chí là không có căn cứ, như tớ đã giải thích ở trên.

Đồng chí bạn đọc viết: Em cũng rất đồng ý với anh rằng thứ SBV cần cân nhắc trước khi thực hiện các chính sách nới lỏng là lo ngại yếu tố lạm phát. Ngoài ra, em cho rằng nếu có nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất thì có thực sự hỗ trợ được cho các doanh nghiệp tư nhân (vốn đang rất khó khăn tiếp cận vốn vay ngân hàng) để thúc đẩy tăng trưởng GDP hay không? Hay việc giảm lãi suất cũng chỉ làm giảm nhẹ gánh nặng nợ lãi cho các DNNN ăn hại, đang kéo dài chút hơi tàn trước khi phá sản như Tisco, Vinacomin, Dung Quất, ...và như vậy thì việc gì phải cổ vũ cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ

Trả lời: Trong khuôn khổ thể chế và thị trường hiện hành thì đương nhiên là chỉ một phần vốn đến được doanh nghiệp tư nhân. Nhưng, về logic, khi mọi thứ không thay đổi, trừ cung tiền được nới lỏng, thì vốn ngân hàng sẽ chảy nhiều hơn đến các doanh nghiệp tư nhân. Không nới lỏng thì tình hình có khi còn tồi tệ hơn khi các DNNN (và Chính phủ) càng tìm cách giật lấy số vốn ít ỏi có trong nền kinh tế.

Phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước thì không chống đô la hóa được! (Bài đăng trên CafeF, ngày 25/5/2016)

http://cafef.vn/phat-hanh-trai-phieu-ngoai-te-o-trong-nuoc-thi-khong-chong-do-la-hoa-duoc-20160525082320065.chn

Gần đây rộ lên kiến nghị xem xét lại chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD xuống 0%. Chính sách này vốn là một trong những giải pháp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhằm giảm tình trạng “đô la hóa”. Nhiều người cho rằng chính sách này đã dẫn đến tình trạng một lượng ngoại tệ nhiều tỷ USD “nằm chết” trong két sắt của người dân, trong khi nền kinh tế đang thiếu vốn. Theo họ, đây là một sự lãng phí lớn nên Chính phủ cần phải tìm cách huy động sử dụng nguồn lực lớn này.

Có điều, nếu huy động và trả lãi cho số ngoại tệ này thì sẽ gây ra hiệu quả phụ là làm trầm trọng hóa tình trạng đô la hóa nền kinh tế Việt Nam. Bởi vậy, một vài chuyên gia đã đề xuất cách thức huy động nguồn vốn này bằng cách Chính phủ phát hành trái phiếu ngoại tệ ở thị trường trong nước. Còn để chống đô la hóa thì các chuyên gia này đề xuất Bộ Tài chính cam kết, khi đáo hạn vẫn thanh toán lãi bằng ngoại tệ nhưng quy đổi ra VND với tỷ giá tại thời điểm thanh toán. Như vậy, ngân sách huy động được nguồn ngoại tệ trong nước bằng cách này sẽ không ảnh hưởng gì tới việc chống đô la hóa và còn có thể giảm được lãi suất VND.

Đề xuất trên xuất phát từ sự hiểu sai về đô la hóa. Theo cách hiểu chính thống, đô la hóa là tình trạng một quốc gia chính thức hoặc không chính thức sử dụng bản tệ của một nước khác làm phương tiện giao dịch và thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ quốc gia. Khi ngoại tệ càng thay thế bản tệ trong các giao dịch thì nạn đô la hóa ở nước này càng trầm trọng, thậm chí đến mức cực điểm là ngoại tệ thay thế toàn bộ bản tệ, như với trường hợp ở một số nước có siêu lạm phát.

Trở lại với đề xuất huy động ngoại tệ (trong trường hợp này là USD) thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ ở thị trường trong nước nói trên. Bản thân việc cho phép cá nhân và tổ chức (thường trú) tại Việt Nam được mua trái phiếu bằng USD đã là một hành động “tiếp sức” cho nạn đô la hóa, ở cái nghĩa là USD được công nhận và sử dụng một cách chính thức tại Việt Nam, thay thế cho VND, dù chỉ là để mua trái phiếu.
Giả sử Chính phủ vẫn sẵn sàng chấp nhận tình trạng đô la hóa một phần bằng việc nhận về USD khi phát hành trái phiếu ngoại tệ, còn khi đáo hạn thì thanh toán tiền gốc và lãi cho số ngoại tệ này cho trái chủ bằng VND theo tỷ giá tại thời điểm đáo hạn. Liệu cách này có thật sự khả thi không?

Chắc chắn là phương thức huy động kiểu này chỉ có lợi cho Chính phủ nên sẽ chẳng thu hút được mấy sự quan tâm của nhà đầu tư. Đơn giản nhất là lý do ít người tin vào tỷ giá hối đoái chính thức được dùng làm tỷ giá tham chiếu để hoán đổi USD ra VND. Do hầu như luôn có sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do, nên người nắm giữ USD luôn bị thiệt thòi lớn khi không may đến hạn thanh toán gốc và lãi trái phiếu này mà thị trường lại đang ở trong thời kỳ căng thẳng cung cầu USD làm VND bị mất giá mạnh nhưng tỷ giá chính thức lại bị “neo” cứng ở mức bất hợp lý như đã nhiều lần xảy ra trong quá khứ.

Như vậy, việc huy động được số USD “nằm chết” trong dân không thể xảy ra đồng thời với chống đô la hóa một cách hoàn hảo, và cho dù có chấp nhận bị đô la hóa một phần thì chắc chắn cũng khó huy động thành công được vì cách thức huy động nửa vời này sẽ đặt nhà đầu tư vào tình trạng phải đối mặt với rủi ro là tài sản của mình trước khi mua trái phiếu là con voi, đến khi đáo hạn thành con chuột.

Đó là chưa kể đến lý do nữa là nhà đầu tư khi đáo hạn, được Chính phủ thanh toán và nhận về toàn VND, nhưng sẽ không dễ dàng đổi ra được USD như trạng thái ban đầu vì không thể mua được lại số USD cần thiết từ hệ thống ngân hàng do những quy định chặt chẽ về quản lý ngoại hối. Nếu chạy ra thị trường tự do để mua thì, ngoài rủi ro tỷ giá, nhà đầu tư còn phải chịu thêm rủi ro bị tịch thu và xử phạt vì giao dịch này là trái pháp luật.
Ngoài ra, khi đáo hạn, thanh toán cho trái chủ tiền gốc và lãi USD bằng VND, thì hoặc Chính phủ phải huy động VND ở đâu đó để trả cho nhà đầu tư, hoặc Chính phủ phải bán USD (vay nợ thêm từ trong nước hay quốc tế) để lấy VND trả cho nhà đầu tư. Cả 2 cách này đều làm tăng đột biến cầu VND dẫn đến tăng áp lực lên lãi suất VND, chứ không phải là giảm đi như các chuyên gia nói trên lập luận.

Chưa hết, nếu Chính phủ dùng một phần USD huy động được ở trong nước cho chi tiêu trong nước thì Chính phủ phải chuyển đổi lượng USD này ra VND, cũng sẽ làm tăng áp lực lên lãi suất vì cầu VND đã tăng lên. Lúc đó, để ổn định lãi suất thì NHNN phải chạy theo bằng cách tung VND ra để mua số USD này về. Nhưng việc này lại làm gia tăng áp lực lên tỷ giá VND/USD. Hay nói cách khác, lãi suất không những không giảm mà tỷ giá sẽ thêm bất ổn từ hành động huy động USD của Chính phủ rồi chi tiêu (một phần) trong nước, và đây chính là biểu hiện, là hậu quả của nạn đô la hóa được tiếp sức một cách chính thức.

Monday 23 May 2016

Trả lời bạn đọc


Có đồng chí bạn đọc gửi comment cho bài Chính sách tiền tệ đang được nới lỏng?”, nhưng hình như không publicly shared nên tớ không biết làm cách nào để trả lời, bèn copy ra riêng một entry để trả lời cho thấu đáo vậy.

Đồng chí bạn đọc viết: Em thấy tín dụng tháng 4 tăng nhanh so với các tháng đầu năm chủ yếu là do các khoản vay chưa giải ngân giai đoạn Tết và tháng giêng (âm lịch) dồn vào tháng 4 thôi. thực tế thì nếu lấy tăng trưởng tín dụng (cả usd và vnd) cuối tháng 4/2016 (tăng khoảng hơn 4 %) so với cuối tháng 3 (khoảng 3%) thì chỉ tăng khoảng 1% , theo em thì cũng chưa phải là tăng nhanh.

Trả lời: Tớ đồng ý là nếu chỉ so sánh tháng 4 với tháng 3 thì thấy là “chỉ” hơn nhau có 1 điểm %, nên cũng khó kết luận là tăng nhanh hay không, nhất là khi ở Việt Nam đã quen với con số tăng trưởng đủ loại lên đến thậm chí 2 con số. Nhưng như đã nêu trong bài, một trong những cơ sở để biết tăng trưởng như vậy là nhanh hay không là so sánh với cùng kỳ năm trước (để loại bỏ yếu tố thời vụ, như chuyện Tết và tháng giêng), cũng là cách mà các cơ quan chức năng của Việt Nam hay công bố, ví dụ như Bộ Kế hoạch đầu tư hay Tổng cục Thống kê. Mà so với năm trước thì rõ ràng tốc độ tăng trưởng của tháng 4 là nhanh hơn nhiều, đủ để kết luận rằng chính sách tiền tệ đang được nới lỏng mạnh mẽ.

Đồng chí bạn đọc viết: Ngoài ra, cung tiền M2 tăng nhanh chủ yếu là do yếu tố SBV mua USD dẫn đến VND được bơm ra. theo em ước tính đến cuối tháng 4 thì SBV đã mua vào hơn 6 tỷ USD (khoảng 140k tỷ VND, tương đương hơn 2% M2). về số tuyệt đối thì số này cũng tương đương số tăng trưởng tín dụng 4 tháng đầu 2016. Nếu nhìn nhận việc SBV mua USD chỉ là để bù lại dự trữ ngoài tệ đã bị hụt đi do năm 2015 phải bán để ổn định tỷ giá (khoảng 9 tỷ USD, không tính 1 tỷ USD bán FW) thì cho tới nay vẫn chưa thấy SBV có hành động cụ thể gì để nới lỏng tiền tệ.
Trả lời: Hành động mua USD, tung VND ra mà không sterilize chính là một hình thức (chủ ý) nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng cung tiền. Nên không thể nhìn nhận hành động này chỉ là để bù lại dự trữ ngoại tệ đã bị thâm hụt. Nói cách khác, bất kể hành động nào của NHTW dẫn đến làm tăng cung tiền thì đều phải, đều được coi là nới lỏng chính sách tiền tệ.

Đồng chí bạn đọc viết: Như vậy phần tiền VND được bơm thêm vào hệ thống cũng xấp xỉ với dư nợ tăng thêm, các NHTM cũng chả giữ được gì cho nhu cầu vốn nội tại. SBV ngoài nước bọt thì cũng chả giúp đỡ được gì, chưa kể mấy năm nay các NHTM cũng cống hiến không ít cho cái danh hiệu "trader of the year" của SBV :D

Trả lời: Lý giải trên của đồng chí không giải thích được tại sao lại có chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng cung tiền với tăng trưởng tín dụng như báo cáo chính thống. Một khả năng là ngoài chuyện tung VND ra mua USD như đồng chí nêu, NHNN vẫn đã bơm thêm tiền qua, ví dụ, thị trường mở, mua trái phiếu Chính phủ v.v… nên tốc độ tăng cung tiền mới lớn hơn tốc độ tăng tín dụng.

Đồng chí bạn đọc viết: Thực tế, đến cuối quá trình tái cơ cấu, sau khi đã cho thanh tra quần nát bét các NHTM thì con số tổng nợ xấu mà bác Bình có lần lỡ mồm thòi ra cũng chỉ tầm hơn 10%. Số nợ xấu các ngân hàng hiện nay khoảng 7% (chưa đến 5% bán cho VAMC và khoảng hơn 2% theo các NHTM công bố), chênh khoảng hơn 3%, tương ứng khoảng 130k tỷ, chủ yếu nằm ở mấy bank đang được sbv "chăm sóc đặc biệt"

Trả lời: Tớ không rõ lắm về mối liên hệ của đoạn trên với bài viết, nhưng đoán rằng đồng chí muốn nói là nhu cầu giữ lại vốn huy động dành cho nhu cầu nội tại như nợ xấu thực ra cũng không lớn lắm. Nếu đúng là vậy thì đây vẫn là một nhu cầu có thật, đang tồn tại, đang “tiêu” mất một số vốn huy động của ngân hàng, và do đó giải thích được lý do tại sao lại có chênh lệch giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng tín dụng.

Đồng chí bạn đọc viết: Em là đàn em, biết tí thông tin do đang làm......, có mấy ý tưởng gửi anh để trao đổi học hỏi thêm. Nếu anh thấy vớ vẩn quá thì bỏ qua ạ.

Trả lời: Úi chết, tớ phải nói rất thành thật là cám ơn comment của đồng chí, vì vừa biết được thêm thông tin (tớ ngồi bên này thì chịu không thể biết được), vừa biết được người đọc hiểu về vấn đề này thế nào, hiểu về bài viết của mình ra sao.

Qua đây, tớ thấy được là nhiều người, kể cả những “chuyên gia” kỳ cựu như Trương Văn Phước, vẫn hiểu mơ hồ về chính sách tiền tệ và nới lỏng chính sách tiền tệ, coi đó là một cái gì đó rất phức tạp, cao siêu, và “phạm húy” nữa.hêm. Nếu anh thấy vớ vẩn quá thì bỏ qua ạ.

Saturday 21 May 2016

Chính sách tiền tệ đang được nới lỏng? (Bài đăng trên CafeF, 21/5/2016)

http://cafef.vn/chinh-sach-tien-te-dang-duoc-noi-long-20160521150943397.chn

Tăng trưởng cho vay của các ngân hàng thương mại đang tăng tốc mạnh trong những tháng gần đây. Theo Tổng cục thống kê, nếu như đến 21/3, tăng trưởng tín dụng mới chỉ đạt 1,54% so với cuối năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 1,25%), thì đến 20/4, tăng trưởng tín dụng đã vọt lên mức gần gấp đôi, 2,99%, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư trình Chính phủ.
Trước thực tế này, một số người cho rằng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế. Nhưng cũng có người phản đối, cho rằng chưa có biểu hiệu nào chứng tỏ chính sách tiền tệ của NHNN đang được nới lỏng. Ví dụ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn giữ nguyên, không hề kéo xuống thấp trong vài năm nay; tái cấp vốn cũng có liều lượng, cung ứng vốn qua các công cụ của NHNN không có biểu hiện của việc nới lỏng chính sách.
Nhưng nhìn vào số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê về cung tiền M2, hay còn gọi là tổng phương tiện thanh toán, đến thời điểm 21/3/2016, M2 tăng 3,08% so với cuối năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 2,09%). Một tháng sau, tính đến ngày 20/4, M2 đã tăng vọt lên 4,54% so với tháng 12/2015 (cùng kỳ năm 2015 là 2,57%), cũng theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư. 
Như vậy, rõ ràng NHNN đang đẩy mạnh cung tiền ra nền kinh tế, hay nói cách khác, chính sách tiền tệ của NHNN đang được nới lỏng mạnh mẽ trong năm nay, đặc biệt là so với năm 2015.
Nhưng đến đây nẩy sinh ra một vấn đề, tại sao, theo như dư luận nhìn nhận từ thực tế nhiều ngân hàng đã tham gia cuộc đua tăng lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất đang có xu hướng tăng lên, bất chấp thực tế là NHNN đã và đang nới lỏng mạnh chính sách tiền tệ, gia tăng cung tiền?
Trước tiên, nhìn vào bảng số liệu dưới đây của NHNN về diễn biến lãi suất huy động và cho vay trong 2 tháng qua so với cuối năm 2015, có thể thấy ngoại trừ lãi suất cho vay liên ngân hàng có biến động tương đối đáng kể (nhưng không theo chiều hướng tăng lên hay giảm đi rõ rệt), các lãi suất huy động và cho vay phổ biến của ngân hàng thương mại rất ổn định trong mấy tháng qua so với cuối năm 2015. Nếu giả sử những số liệu thống kê này của NHNN là chính xác và đáng tin cậy thì có thể khẳng định rằng chuyện lãi suất đang bị áp lực gia tăng nếu có xảy ra thì chỉ là mang tính cục bộ, ngắn hạn, chứ không thành xu hướng rõ rệt, có khả năng kéo dài.
 
Nhưng nếu đúng như vậy thì sẽ có người đặt vấn đề ngược lại là, nếu thực sự NHNN đang nới lỏng mạnh chính sách tiền tệ để gia tăng cung tiền thì tại sao lãi suất huy động và cho vay phổ biến của các ngân hàng thương mại lại không thể hiện xu hướng đi xuống như lẽ ra phải thế?

Lý do đơn giản cho vấn đề này là thực tế thì tăng trưởng tín dụng cũng đã tăng nhanh và mạnh. Như trên đã cho thấy, không chỉ tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 mà cả tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng đã gia tăng mạnh trong mấy tháng đầu năm nay so với cuối năm 2015. Nói các khác, gia tăng cung tiền đã và đang được thực hiện bám sát tốc độ và mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong những tháng qua và có lẽ là cả thời gian tới với mục đích ổn định và, tham vọng hơn, tiến tới giảm dần lãi suất cho vay trung dài hạn.

Cũng sẽ có người đặt câu hỏi, tại sao tăng trưởng cung tiền M2 có tốc độ gia tăng lớn hơn đáng kể so với tăng trưởng tín dụng mà mặt bằng lãi suất lại không có dấu hiệu suy giảm?

Có thể trả lời câu hỏi này từ thực tế là mặc dù các ngân hàng cũng đã và đang đạt được mức tăng trưởng huy động cao hơn tăng trưởng tín dụng cho vay (ví dụ, tính đến 21/3, tăng trưởng huy động đạt 2,26% so với cuối năm 2015, trong khi tăng trưởng tín dụng chỉ là 1,54%), nhưng các ngân hàng thương mại luôn phải giữ lại một phần vốn huy động để giải quyết các nhu cầu nội tại như cân đối nguồn vốn, dự phòng và giải quyết nợ xấu, dự phòng rủi ro, và cho các mục đích đầu tư, kinh doanh v.v...
Như vậy, mặc dù chính sách tiền tệ đang được nới lỏng, nhưng lượng tiền cung ứng gia tăng này không đi hết vào nền kinh tế thông qua kênh tín dụng của ngân hàng thương mại mà được các ngân hàng huy động và giữ lại một phần để đáp ứng các nhu cầu nội tại, từ đó làm nảy sinh chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng cung tiền (cũng như tốc độ tăng trưởng huy động) và tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại.
Từ phân tích trên, điều có thể rút ra là để các ngân hàng thương mại hạ lãi suất cho vay thì một trong những điều kiện tiên quyết là NHNN phải tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ mạnh hơn nữa để gia tăng cung tiền nhằm hậu thuẫn cho các ngân hàng thương mại tăng cường huy động với lãi suất thấp hơn để cho vay cũng với lãi suất thấp hơn. Đương nhiên, rủi ro cho việc này là lạm phát sẽ gia tăng trở lại. Vì lạm phát mục tiêu năm nay đã được xác định ở mức 5% trong khi lạm phát thực tế 5 tháng đầu năm nay đã ở mức ước tính gần 2% nên dư địa để NHNN tăng mạnh hơn nữa cung tiền sẽ không còn nhiều, không thể mạo hiểm.
Do đó, có nhiều khả năng NHNN sẽ giữ nguyên tốc độ và nhịp gia tăng cung tiền như hiện tại cho đến hết năm để tiếp tục ổn định mặt bằng lãi suất (chứ không hy vọng là giảm đi), và đây cũng đã là một thành công khi họ phải “căng mình” giữa 2 mục tiêu mâu thuẫn là, một mặt, gia tăng cung tiền nhằm gia tăng tăng trưởng tín dụng để đạt tốc độ tăng trưởng GDP năm nay cao hơn năm 2015, mặt khác, phải kiềm chế lạm phát trong phạm vi mục tiêu 5%.

Friday 20 May 2016

Công ty vỏ bọc: không bất hợp pháp, cũng chẳng tốt đẹp! (Bài đăng trên TBKTSG, 20/5/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/146564/Cong-ty-vo-boc-khong-bat-hop-phap-cung-chang-tot-dep.html

Sự công bố danh tính của nhiều cá nhân và tổ chức ở Việt Nam có tên trong Hồ sơ Panama cũng đã gây ra một cơn bão trong nước từ suốt tuần qua. Dư luận có một số quan điểm khác nhau. Nhiều người đã lên tiếng đặt dấu hỏi về sự trong sạch của những cá nhân và tổ chức này, trong khi nhiều người khác thì tỏ ra công tâm hơn, với quan điểm có tên trong hồ sơ này không đồng nghĩa với phạm pháp. Vậy nên nhìn nhận vụ việc này thế nào?


Điều làm đa phần dư luận trong và ngoài nước “dị ứng” nhất với những cá nhân và tổ chức sở hữu và/hoặc quản lý các công ty vỏ bọc (shell company) là các công ty này chỉ tồn tại trên giấy, không có trụ sở làm việc, không tài sản, không nhân viên, mà cũng chẳng có một ngành nghề kinh doanh cụ thể nào. Chủ sở hữu thực sự của công ty thậm chí có thể dùng các chi tiết cá nhân của một người khác khi đăng ký thành lập công ty để đảm bảo tính riêng tư, bảo mật, che giấu sự liên quan của mình với công ty. Các công ty này thường được đăng ký tại địa chỉ của một công ty làm dịch vụ thành lập những công ty vỏ bọc tại một quốc gia hoặc lãnh thổ được gọi là “thiên đường thuế” như Bahamas, Bermuda, Cook, quần đảo Cayman, Panama, Jersey, quần đảo Virgin..
Chưa hết, người ta cũng có thể dễ dàng mua lại một công ty vỏ bọc khác có lịch sử “hoạt động” từ vài năm trước. Khi hoạt động dưới vỏ bọc của công ty có “thâm niên” này, người chủ của nó sẽ gặp thuận lợi hơn trong nhiều giao dịch, ví dụ như vay vốn, vốn sẽ khó khăn hơn rất nhiều nếu là dưới tư cách của một công ty mới được thành lập tuần trước, tháng trước… Nếu người chủ của nó là tội phạm thì việc sở hữu công ty như vậy sẽ làm mờ dấu vết tội phạm của người này.
“Công dụng”
Mặc dù là hợp pháp song do tính chất “ma” như trên, dễ bề được sử dụng cho những hành vi phạm pháp nên dù chưa bị “lộ” thì các công ty vỏ bọc này và các ông chủ của chúng vẫn thường có hình ảnh rất xấu và phảm cảm trong con mắt của dư luận. Chẳng phải ngẫu nhiên mà chưa biết thực hư thế nào nhưng khi Hồ sơ Panama xuất hiện, nó đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình đây đó trên thế giới đòi các quan chức có tên trong hồ sơ này từ chức ngay lập tức.

Mục đích chủ yếu đầu tiên các công ty vỏ bọc thường hay được sử dụng là để tránh thuế. Bằng các thủ thuật kế toán để chuyển giá, các công ty xuyên quốc gia thường xuyên chuyển lợi nhuận về các công ty vỏ bọc ở các thiên đường thuế nhằm tránh phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp ở những nước có mức thuế lên tới vài chục phần trăm, gồm có Việt Nam. Tuy không ít người ở trong và ngoài nước cho rằng hành vi này không phải là bất hợp pháp nhưng thực tế thì những nước như Mỹ đã và đang tìm cách truy thu hàng tỷ đô la tiền thuế mà những doanh nghiệp này đã “né” được bấy lâu nay. Điều tương tự cũng đang được quyết tâm thực hiện ở Việt Nam khi ai cũng thấy một điều hiển nhiên vô lý là các công ty lớn như Coca Cola và Pepsi liên tục tăng trưởng doanh thu và mở rộng hoạt động nhưng luôn báo lỗ để không phải trả một đồng thuế thu nhập doanh nghiệp nào tại Việt Nam.

Mục đích thứ hai là che giấu tài sản ở dưới dạng, ví dụ, bất động sản ở nước ngoài, hay tài khoản tại Thụy Sĩ. Che giấu sự sở hữu những tài sản này không chỉ nhằm trốn thuế, tránh thuế, mà còn để trốn tránh những quy định và luật lệ khác tại nơi cư trú như luật lệ về phòng chống tội phạm, luật lệ về công khai hóa và minh bạch tài sản, hay các luật lệ về tài chính.
Người chủ thực sự của những tài sản này có thể là một quan chức Chính phủ nhưng vì không muốn để lộ danh tính thực nên trên giấy tờ pháp lý thì những tài sản này là thuộc sở hữu của một công ty vỏ bọc. Nhưng khi người ta muốn khám phá sâu hơn nữa người chủ thực sự của công ty này là ai thì sẽ vấp phải bức tường bảo mật. Hành vi che giấu một cái gì đó thì không hẳn là phạm pháp hay đáng lên án. Nó chỉ trở thành hành vi phạm pháp khi các cơ quan chức năng chứng minh được sự dính dáng trực tiếp giữa quan chức này với công ty vỏ bọc đó, hay thông qua một loạt các mối liên hệ nhằng nhịt với các công ty vỏ bọc khác để không phải khai báo và chịu sự chế tài của các luật lệ và quy định ở nơi cư trú.
Mục đích thứ ba của việc sử dụng công ty vỏ bọc là để lợi dụng khe hở pháp luật trong đầu tư nước ngoài. Không phải ngẫu nhiên mà, ví dụ, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc từ Hong Kong luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều người từ Trung Quốc chuyển tiền sang công ty vỏ bọc mở ở Hong Kong để rồi đầu tư ngược lại vào Trung Quốc dưới tư cách là nhà đầu tư nước ngoài nhằm hưởng những ưu đãi mà chính quyền Trung Quốc dành cho nhà đầu tư nước ngoài.
Mục đích thứ tư, và không nhất thiết là mục đích cuối cùng, là giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro pháp lý khi đầu tư vào những nước có hệ thống pháp luật yếu kém. Giả sử nhà đầu tư nước ngoài có một liên doanh ở Việt Nam với đối tác là một pháp nhân Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài lo ngại rằng khi có tranh chấp thì tòa án địa phương sẽ ra phán quyết ưu ái hơn cho đối tác Việt Nam. Để tránh tình trạng này, nhà đầu tư nước ngoài mở một công ty vỏ bọc ở quần đảo Virgin thuộc Anh được chế tài bởi luật pháp của Anh.
Tác động
Điểm qua bốn “công dụng” chính nói trên của các công ty vỏ bọc tại các thiên đường thuế thì thấy chỉ có mục đích thứ tư là có ý nghĩa tương đối tích cực, nhưng tất nhiên là đối với cá nhân nhà đầu tư. Còn ba mục đích còn lại thì không chỉ làm lợi cho cá nhân mà, ngược lại, thậm chí là phạm pháp và/hoặc có ý nghĩa rất tiêu cực với quốc gia, với xã hội. Quốc gia mất đi một nguồn thu thuế lớn. Giới tội phạm và gian lận có một công cụ đắc lực để rửa tiền, che giấu tài sản (có được từ các hành vi phạm pháp). Xã hội thì thêm phân hóa bởi bất bình đẳng giầu nghèo giãn rộng với giới có thu nhập cao thì ngày càng giầu một phần bởi những hành vi cả phạm pháp lẫn hợp pháp thông qua các công ty vỏ bọc.

Cần làm gì?

Tóm lại, mặc dù hoàn toàn có thể là hợp pháp nhưng rõ ràng sự tồn tại của các công ty vỏ bọc và việc sử dụng chúng cho một mục đích nào đó thường chỉ có hại, hoặc chí ít thì chẳng tốt đẹp gì, nếu nhìn từ lợi ích quốc gia và trật tự xã hội.

Quay trở lại với các trường hợp bị nêu danh tính ở Việt Nam. Điểm chung đầu tiên có thể thấy là các cá nhân liên đới nhanh chóng lên tiếng khẳng định sự bình thường trong sự dính líu của mình với các công ty vỏ bọc. Một số người thì phân bua sự “trong sạch” theo kiểu “không khảo mà xưng” của mình bằng cách chỉ ra rằng họ đã đóng cửa, thoát ra khỏi các công ty này từ vài năm trước (Vậy tại sao phải mở hoặc tham gia vào các công ty này trước đây?). Người thì cho rằng mình là nhà đầu tư quốc tế, là Việt kiều, nên chuyện đầu tư vào công ty vỏ bọc là bình thường! (Ai đầu tư vào công ty vỏ bọc ở thiên đường thuế mà không phải là nhà đầu tư nước ngoài?). Người thì chứng minh sự bình thường của mình bằng việc tiết lộ rằng họ chỉ mua lại công ty khác ở nước ngoài (Lưu ý về mục đích của việc mua lại công ty vỏ bọc như phân tích ở trên).

Những lời biện bạch, giải thích trên đương nhiên là quá sơ sài, ít ỏi, và thậm chí là không có ý nghĩa gì để chứng tỏ cho xã hội thấy họ là người đàng hoàng, trong sạch (tất nhiên là dưới góc nhìn từ lợi ích của toàn xã hội). Trong khi đó, mặc dù giữ thái độ thận trọng cần thiết, nhưng các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cần khẩn trương làm việc với từng cá nhân và tổ chức có tên trong Hồ sơ Panama để làm rõ động cơ và lịch sử những giao dịch của họ liên quan đến các công ty vỏ bọc.

Cũng cần nói thêm một số kiến giải và khuyến nghị xem ra có phần “chệch hướng” của một số chuyên gia. Nhiều người đề nghị hướng điều tra tập trung vào chuyện chuyển tiền ra nước ngoài, xem đó có phải là đầu tư, kinh doanh hay không, hay tiền gửi có hợp pháp hay không, có vi phạm các quy định quản lý ngoại hối hay không…

Đương nhiên là khi có giao dịch chuyển tiền chính thống (qua ngân hàng) thì các khoản chuyển tiền này phải là hợp pháp, “đúng quy trình”, đúng mục đích đã khai báo thì mới thực hiện được. Vấn đề đáng nói là mục đích thật sự chứ không phải là mục đích danh nghĩa của các khoản tiền này. Ví dụ, mục đích thật sự là tẩu tán tài sản thông qua một giao dịch chuyển tiền thanh toán hóa đơn nhập khẩu hoàn toàn hợp pháp cho một nhà xuất khẩu là một công ty “ma” ở Cayman. Làm sao để phát hiện ra và chứng minh được mục đích thật sự này mới là việc khó và cần phải làm của cơ quan chức năng Việt Nam. Cần tránh những tuyên bố và khẳng định thiếu thuyết phục như “hiện nay, các văn bản về quản lý ngoại hối đã có đầy đủ các quy định về giao dịch thanh toán, chuyển tiền vào và ra khỏi Việt Nam đối với các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, mở tài khoản ở nước ngoài...” nên có thể …yên tâm!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).