Tuesday 25 February 2014

Ổn định vĩ mô – cái gì, tại sao và thế nào? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, ngày 25/2/2014, bản gốc)

Bản đăng trên DNSG ở link sau (biên tập khá lủng củng, theo tớ)
http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/02/1079852/on-dinh-kinh-te-vi-mo-cai-gi-tai-sao-va-the-nao/
----------------------------------------------------------

2 năm gần đây, nhiệm vụ “ổn định kinh tế vĩ mô” đã trở thành ưu tiên hàng đầu thay cho mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như ở trong chính sách phát triển kinh tế những năm trước đó. Tuy vậy, điều đáng ngạc nhiên là dường như cho đến nay vẫn chưa thấy một sự cắt nghĩa, giải thích chính thức và xác đáng về thế nào là “ổn định kinh tế vĩ mô”, mặc dù cụm từ này đã và đang được nêu ra bởi rất nhiều người và phổ biến ở mọi nơi ở Việt Nam hiện nay. Có thể chưa đến mức tệ như với trường hợp của cụm từ “tái cơ cấu kinh tế”, nhưng việc sử dụng cụm từ “ổn định kinh tế vĩ mô” vẫn tỏ ra là khá tùy tiện (chủ yếu vì chưa được hiểu đúng và đủ) và chưa thật sự đúng ngữ cảnh trong nhiều trường hợp.

Điểm lại nhiều bài nói và viết của các chuyên gia, các tổ chức liên đới trong và ngoài nước ở Việt Nam trong mấy năm qua, ta có thể thấy đa phần cách dùng của cụm từ “ổn định kinh tế vĩ mô” như một nhiệm vụ riêng biệt, song song với (một số trong) những nhiệm vụ/mục tiêu khác, ví dụ như “kiềm chế lạm phát”, “ổn định tỷ giá”, và “thúc đẩy/hỗ trợ/ổn định tốc độ tăng trưởng”. Chẳng hạn, ta vẫn hay nghe nói đến câu: “Phấn đấu ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát”, và cách dùng này có thể nói là đã trở nên phổ biến nhất trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay. Hiếm khi nó được sử dụng với cái nghĩa là bao hàm luôn cả (một số những) nhiệm vụ/mục tiêu khác này.

Thực tế, trên thế giới, cách dùng cụm từ “ổn định kinh tế vĩ mô” với nghĩa là bao hàm cả những mục tiêu khác như giữ ổn định các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng (tiệm cận với mức tăng trưởng tiềm năng), mức giá cả và tỷ lệ thất nghiệp... là cách dùng chuẩn mực và phổ biến. Cách dùng này đương nhiên dựa trên khái niệm về “kinh tế vĩ mô”, là một hệ thống kinh tế của cả một quốc gia và khu vực, với các chỉ tiêu đo lường “sức khỏe” của nó như tốc độ tăng trưởng thu nhập, thất nghiệp, lạm phát... Bởi vậy, ổn định kinh tế vĩ mô có nghĩa là giảm thiểu biến động (trong ngắn hạn) của những chỉ tiêu này. Mục đích của ổn định kinh tế vĩ mô là để tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư làm cải thiện tăng trưởng tiềm năng trong dài hạn.

Ngoài lý do là chuẩn mực và phổ biến, cách dùng với nghĩa này còn tránh được sự mơ hồ về mục đích như trong cách dùng đang phổ biến ở Việt Nam nói ở trên, mà vì thế có thể ngăn cản Chính phủ có các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô đúng đắn. Cứ như cách hiểu và dùng ở Việt Nam thì dường như ổn định kinh tế vĩ mô là cái gì đó khác và độc lập với ổn định giá cả/kiềm chế lạm phát, và càng khác và độc lập với thúc đẩy/hỗ trợ/ổn định tăng trưởng kinh tế, vì rõ ràng hiện nay việc thúc đẩy, duy trì tốc độ tăng trưởng (hiện đang được cho là ở mức thấp so với tăng trưởng tiềm năng) đã được gạt xuống hàng ưu tiên thứ yếu, sau mục tiêu “ổn định kinh tế vĩ mô”.

Nếu đã coi là khác và độc lập với lạm phát và tăng trưởng thì câu hỏi được đặt ra ở đây là, vậy thì cụ thể “ổn định kinh tế vĩ mô” là ổn định cái gì? Rất tiếc, câu trả lời từ việc lục tìm các bài viết và nói của Chính phủ, các tổ chức và chuyên gia trong ngoài nước lại có xu hướng liệt kê chính việc kiềm chế lạm phát là một biểu hiện và cũng là mục tiêu của ổn định kinh tế vĩ mô.

Như thế, có nghĩa là cách nói và nghĩ về ổn định kinh tế vĩ mô như hiện nay là chưa đúng và cần phải sửa lại theo cách chuẩn mực. Nhưng đến đây lại phát sinh ra một vấn đề mới là theo cách chuẩn mực thì ổn định kinh tế vĩ mô là việc đạt được sự ổn định trên nhiều chỉ tiêu, trong số đó có những chỉ tiêu mà việc thực hiện được chúng có tính đối nghịch với việc thực hiện những chỉ tiêu khác, ít nhất trong ngắn hạn, ví dụ như ổn định lạm phát và duy trì, ổn định tốc độ tăng trưởng.

Cụ thể hơn, với mục tiêu ổn định tốc độ tăng trưởng (hiện đang có xu hướng tụt thấp so với tăng trưởng tiềm năng) trong “gói” ổn định kinh tế vĩ mô, thì cần thiết phải khôi phục lại và ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế sao cho tiệm cận với tốc độ tăng trưởng tiềm năng. Điều này cần thiết đòi hỏi phải có sự nới lỏng chính sách tiền tệ (và/hoặc tài khóa) hơn. Nhưng, mặt khác, vì lạm phát đang ở mức khá cao như hiện nay, cần thiết phải duy trì một chính sách tiền tệ (và/hoặc tài khóa) một cách chặt chẽ hơn. Như vậy, trong ngắn hạn, ổn định kinh tế vĩ mô nói chung có khả năng không thể lồng ghép với sự phục hồi và duy trì tăng trưởng kinh tế. Điều này thì bản thân Chính phủ cũng đã nhận thức được nên mới tách mục tiêu tăng trưởng kinh tế ra khỏi “gói” ổn định kinh tế vĩ mô.

Loại bỏ mục tiêu tăng trưởng ra thì trong gói ổn định kinh tế vĩ mô, ngoài mục tiêu giữ cho giá cả ổn định (lạm phát thấp), sẽ còn những mục tiêu chính khác là hạ lãi suất, ổn định tỷ giá, việc làm, thâm hụt ngân sách, cán cân thương mại... Nhưng xét cho cùng, yếu tố chính chi phối việc đạt được những mục tiêu này vẫn là lạm phát thấp. Khi giá cả ổn định (lạm phát thấp) thì biến động việc làm sẽ có xu hướng giảm thiểu (vì chi phí sản xuất bao gồm chi phí tiền lương sẽ không bị tác động nhiều bởi lạm phát nên chủ doanh nghiệp có xu hướng duy trì ổn định số việc làm hơn). Khi lạm phát thấp thì áp lực phá giá nội tệ đến từ việc lên giá thực của nội tệ so với ngoại tệ sẽ không lớn nên tỷ giá sẽ được ổn định hơn. Đồng thời, tỷ giá ổn định do nội tệ ít bị lên giá thực sẽ tạo điều kiện duy trì một cán cân thương mại cân bằng hơn. Lạm phát thấp cũng có nghĩa là chính sách tiền tệ (và/hoặc chính sách tài khóa) thường là thắt chặt hơn nên thâm hụt ngân sách cũng ít bị áp lực gia tăng hơn.

Nói cách khác, khi nói đến ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam thì chỉ cần nói, đại loại, là “(phấn đấu) kiềm chế lạm phát (ở mức thấp) và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý (theo diễn biến của lạm phát)” là đủ và thích hợp vì đã chỉ ra được cái gì là ưu tiên (tức là lạm phát), cần tập trung thực hiện, và cái gì là thứ yếu.

Thursday 20 February 2014

Có tiền nên đầu tư vào đâu? (Bài đăng trên TBKTSG Online, ngày 21/2/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/blog/110697/Co-tien-nen-dau-tu-vao-dau?.html

Chuyện nên đầu tư vào đâu là một chủ đề luôn được quan tâm và khá nhức đầu với nhiều người có (chút) tài sản (nhàn rỗi). Nhưng mục đích của bài viết này không phải là để khuyên các nhà đầu tư tiềm năng nên bỏ tiền vào đâu, trong số các hạng mục tài sản như vàng, ngoại tệ, chứng khoán, gửi tiết kiệm, bất động sản hay một loại tài sản khác nào đó.

Thay vào đó, bài viết muốn chỉ ra rằng cơ hội đầu tư luôn luôn có ở mọi thị trường tài sản, và những nhà đầu tư không sợ rủi ro luôn có cơ hội nắm bắt được những cơ hội đầu tư này. Nếu biết (hoặc may khi) “nhảy vào”,  “nhảy ra” đúng lúc, nếu biết chọn lựa hình thức đầu tư phù hợp với số vốn, với khả năng chấp nhận mạo hiểm, nếu biết quản lý rủi ro, và nếu... thì nhà đầu tư luôn có khả năng đạt được tỷ suất sinh lợi mong muốn ở mọi thị trường tài sản có thể đầu tư.
Ta bắt đầu với một vài nhận định và khuyến nghị vẫn thường nghe thấy từ một vài cá nhân và tổ chức có uy tín trong giới đầu tư. Chẳng hạn, với thị trường vàng, người ta vẫn thường khuyên rằng giá vàng đang cao (so với thế giới) nên không nên đầu tư. Rồi thì là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cam kết ổn định thị trường vàng trong nước, nên sẽ không còn “cửa” để đầu tư kiếm chênh lệch.

Những nhận định như kiểu này đương nhiên vừa là cảm tính, vừa là phi logic. Giá vàng đang cao nhưng chẳng có gì đảm bảo là nó sẽ không cao hơn nữa, nên mua vào lúc hiện tại thì vẫn có cơ hội bán kiếm chênh lệch khi giá lên cao hơn. Nhìn lại diễn biến của giá vàng trong quá khứ thì đủ biết là giá vàng đâu có chịu dậm chân tại chỗ. Tất nhiên, nếu không may và tính sai, như nói ở trên, thì nhà đầu tư sẽ lĩnh đủ. Nhưng đó là ... nếu!
Còn chuyện cam kết ổn định thị trường vàng của NHNN, cứ cho là đúng như vậy đi, nhưng lưu ý là NHNN không cam kết ổn định giá vàng trong nước đâu nhé! Và diễn biến thực tế thị trường vàng trong mấy ngày qua cho thấy tuy NHNN đã khẳng định là thị trường vàng miếng đã ổn định nhưng giá vàng vẫn lao lên rồi lại lao xuống ầm ầm trong sự án binh bất động của NHNN, thừa đủ cơ hội để cho các nhà đầu tư “lướt sóng” vàng kiếm lãi bộn. Đương nhiên là không phải ai cũng may mắn nhảy vào và nhảy ra đúng lúc, nhưng đó là chuyện khác, và cơ hội đầu tư vẫn là cơ hội đầu tư, dành cho những ai khôn ngoan, liều, và cả may mắn. Còn nếu thấy vàng lên xuống mạnh quá, rủi ro quá, không hợp với “tạng” của mình thì tốt nhất là đừng làm gì cả, hoặc đem gửi tiết kiệm cho chắc ăn (nhưng hoàn toàn không hẳn là như thế, như nói thêm dưới đây).

Bởi vậy, vàng vẫn luôn là một kênh đầu tư, thậm chí là hấp dẫn, với nhiều nhà đầu tư, miễn là có “sóng”. Mà sóng thì không thiếu vì giá vàng thế giới luôn không chỉ lên cao hoặc chỉ xuống thấp một chiều trong dù chỉ là một phút.
Tương tự như vậy với thị trường bất động sản. Rất nhiều người cho rằng thị trường bất động sản đang đóng băng, giá cả có khả năng hạ nữa, hoặc đi ngang, thanh khoản đang yếu nên không nên đầu tư vào đây... Hiển nhiên đây cũng chỉ là những lời khuyên khá vô thưởng vô phạt, vì phải dấn thân vào mới thấy thị trường này không bao giờ thiếu hoặc hết cơ hội đầu tư, kể cả lướt sóng. Có những ví dụ thực tế như nhà đầu tư đi tìm những căn hộ trong ngõ, giá rẻ, tân trang lại rồi bán kiếm chênh lệch đến cả tỷ đồng... để minh chứng cho thấy nếu biết cách thì vẫn có thể bắt thị trường đang bị “trầm lắng” đẻ ra trứng vàng cho mình.

Còn chưa kể là với bất động sản, hay kể cả vàng và bất cứ loại tài sản nào khác, có thể sẽ không phải là cơ hội đầu tư theo kiểu lướt sóng, mua rồi lại bán nhanh để kiếm chênh lệch, nhưng với những nhà đầu tư dài hạn thì thị trường bất động sản hiện tại có khả năng là một cơ hội sinh lãi lớn trong dài hạn khi giá cả đã xuống đến mức “trong mơ” so với mấy năm trước.
Đối với ngoại tệ, tình hình có vẻ “nan giải” hơn một chút vì việc mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do đã bị đặt ra khỏi vòng pháp luật, với sự “vào cuộc” của công an và thanh tra. Nhưng bản thân sự tồn tại của thị trường ngoại tệ tự do tự nó cho thấy nhà đầu tư vẫn tìm thấy những kẽ hẹp để lách luật và mua bán ngoại tệ như bình thường. Không cần thiết phải kể ra những “thủ đoạn” (nhưng là hợp pháp) này mà chỉ cần đề cập đến những đợt sóng đầu cơ ngoại tệ trước những tin đồn phá giá tiền đồng để thấy rằng dù có vẻ bình lặng, bị kiểm soát gắt gao nhưng ẩn bên dưới thị trường ngoại tệ vẫn là những cơn sóng ngầm, những cơ hội lướt sóng dành cho những nhà đầu tư quyết dấn thân.

Bỏ qua thị trường chứng khoán (vì về cơ bản thì việc đầu tư vào đây cũng chẳng khác mấy đầu tư vào những tài sản khác như đã phân tích), ta quay lại với việc đầu tư “chắc ăn” bằng cách gửi tiết kiệm, như nhiều chuyên gia và quan chức vẫn khuyên là vừa có lãi lại vừa an toàn. Thật ra không hoàn toàn như vậy. Không cần phải nêu chi tiết mà chỉ cần nói rằng lạm phát có thể lấy đi phần lớn giá trị thực của khoản tiết kiệm sau một thời gian nào đó, đôi khi không phải là quá dài, như đã từng xảy ra đâu đó trong nhiều thời điểm quá khứ. Ở mặt này, cái may mắn cho những người gửi tiết kiệm, và là cơ sở để nhiều chuyên gia và quan chức khuyên người dân nên gửi tiết kiệm, là lạm phát ở Việt Nam có dấu hiệu được kiềm chế. Nhưng điều này mới chỉ đúng cho đến thời điểm hiện tại, và không ai tuyệt đối chắc chắn 100%, kể cả Thống đốc NHNN, rằng lạm phát sẽ không tăng lên trong quý sau, năm sau (và bởi tính bất trắc này mà người dân Việt Nam mới có thói quen tích trữ vàng).
Ngoài ra, vụ việc lừa đảo ngân hàng của bà Huyền Như đã cho thấy rủi ro cho người gửi tiền vào ngân hàng là tiền của mình mà hóa ra không còn là của mình nữa! Ngay cả có bảo hiểm tiền gửi thì người gửi tiền cũng chỉ được bồi thường một khoản nhất định cho mọi khoản tiền gửi của mình trong một ngân hàng nào đó khi nó phải đóng cửa.

Trên hết, kể cả giả thiết rằng các khuyến nghị về kênh đầu tư tốt nhất là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng với hành vi “bầy đàn”, việc các nhà đầu tư nghe theo khuyến nghị này đổ xô vào một loại tài sản nào đó sẽ làm tăng bất cân bằng cung cầu trên thị trường tài sản đó, làm thay đổi hoàn toàn bức tranh tỷ suất lợi nhuận và cơ hội kiếm lời trên thị trường đó. Rốt cuộc, đối với những kẻ chậm chân, không những vào muộn mà còn rút ra muộn, lời khuyến nghị đầu tư này trở thành lời nguyền. Cơn sốt chứng  khoán năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO và sự tụt dốc không phanh những năm sau đó là một bài học không thể quên cho hành vi bầy đàn được tiếp thêm lửa bởi những lời khuyến nghị có cánh.
Tóm lại, nên đầu tư vào đâu chỉ là một khái niệm tương đối, không bao giờ có câu trả lời xác đáng và luôn đúng. Nhưng có hai điều luôn đúng: rủi ro cao thì lợi nhuận cao; và không có khoản đầu tư nào là “chắc ăn”, không có rủi ro.

Monday 17 February 2014

Lãi suất của Việt Nam cao hay thấp? (Bài đăng trên TBKTSG Online, ngày 17/2/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/home/diendan/blog/110347/

Bản gốc này khác với bản đăng trên TBKTSG ở chỗ là tớ đã điều chỉnh lại vị trí của VN trong các xếp hạng, với các nước được xếp hạng từ cao đến thấp, thay vì từ thấp đến cao như trong bản trên TBKTSG dế gây hiểu lầm.
--------------------------------------------------------------
2, 3 năm gần đây lãi suất cho vay ở Việt Nam liên tục bị ngay cả nhiều chuyên gia phàn nàn là quá cao so với mức trung bình của thế giới và khu vực, làm cho các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với doanh nghiệp nước ngoài, nơi có lãi suất thấp hơn nhiều. Nhưng rất ít người có thể thấy được sự thật đằng sau bức tranh lãi suất danh nghĩa cao này.
Bài viết này sẽ sử dụng số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) để so sánh một số chỉ tiêu vĩ mô và tài chính ở Việt Nam với một số nước khác trên thế giới và khu vực để phân tích một số vấn đề liên quan đến lãi suất của Việt Nam trong mối tương quan với lãi suất ở những nước khác.

Lãi suất cho vay danh nghĩa của Việt Nam khá cao


Trong số 128 quốc gia có số liệu về lãi suất cho vay năm 2012 (cột 1) thì lãi suất cho vay trung bình cả năm của Việt Nam ở mức 13,5%/năm, đứng ở vị trí thứ 40 (xem bảng trên; giá trị xếp từ cao đến thấp). Mức lãi suất cho vay bình quân của 128 nước này là 12%/năm, mức trung vị là 10,6%, và của 5 nước ASEAN là 7%/năm. Như vậy, lãi suất cho vay danh nghĩa ở Việt Nam đứng ở thứ hạng khá cao so với thế giới và khu vực.
Nhưng lãi suất cho vay ròng của Việt Nam lại tương đối thấp

Tuy lãi suất cho vay danh nghĩa khá cao so với thế giới và khu vực, nhưng lãi suất cho vay ròng của Việt Nam (cột 2) lại ở mức rất thấp. Trong số 122 nước có số liệu lãi suất cho vay ròng năm 2012 thì Việt Nam đứng ở vị trí 96, với mức 2,3%/năm, so với mức trung bình 7% của thế giới, mức trung vị là 5,6%, và của khu vực là 4,7%. Ngay cả những nước mà ta cứ tưởng là có lãi suất cho vay thấp như Mỹ và Nhật nhờ chính sách lãi suất gần 0% của các Ngân hàng Trung ương, mà cũng đã có lãi suất cho vay ròng lên tới 1,5% và 2,3%, chưa kể đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam là Trung Quốc với 4,1%.
Như vậy, có thể nói lãi suất cho vay của Việt Nam hoàn toàn ở mức rất “chừng mực” so với thế giới và khu vực. Lý do ở đây chủ yếu là vì lạm phát của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của khu vực và thế giới, như nói dưới đây.

Nguyên nhân là do lạm phát của Việt Nam đứng ở mức cao
Trong số 202 nước có số liệu lạm phát năm 2012 (cột 3), Việt Nam có mức lạm phát đứng thứ 29 thế giới, ở mức 9,1%/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình  của thế giới là 5,6%, mức trung vị là 3,7% và của ASEAN 5 là 3,3%. Lạm phát cao làm cho lãi suất cho vay ròng (điều chỉnh theo lạm phát) của Việt Nam trở nên thấp tương đối so với quốc tế và khu vực.

 Với lạm phát của Việt Nam cao như vậy thì đương nhiên không thể đòi hỏi lãi suất (huy động và cho vay) thấp được.
Và hệ thống ngân hàng Việt Nam không hưởng siêu chênh lệch lãi suất cho vay và huy động

Một lời cáo buộc nữa thường thấy của các chuyên gia đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là các ngân hàng đã và đang hưởng chênh lệch lãi suất cho vay và huy động quá lớn. Thực tế, nhìn vào cột 4 ở bảng trên có thể thấy NIM của Việt Nam tuy ở mức 3%/năm nhưng chỉ là mức rất khiêm tốn so với thế giới và khu vực (ở vị trí thấp hàng thứ 124 trên tổng số 140 nước). Mức trung bình của thế giới là 7%, mức trung vị là 6,1% và của ASEAN 5 là 3,9%. Như vậy, thực tế này cho thấy lãi suất cho vay của Việt Nam đang ở mức hoàn toàn “có chừng mực” so với lãi suất huy động, chứ không phải quá cao để mà cần phải kéo tụt lãi suất cho vay xuống hơn nữa nhằm ngăn không cho các ngân hàng hưởng siêu lợi nhuận từ “siêu chênh lệch” giữa lãi suất cho vay và huy động.
Lời buộc tội lãi suất cho vay cao làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đúng một nửa!

Như đã nói ở trên, ngay cả nhiều chuyên gia cho rằng vì lãi suất cho vay danh nghĩa ở Việt Nam cao hơn nhiều so với thế giới và khu vực nên làm tăng giá thành hàng hóa và dịch vụ ở Việt Nam, làm giảm tính cạnh tranh của chúng trên thị trường quốc tế.
Thực tế chỉ đúng thế NẾU tiền đồng không được phá giá tương ứng so với mức chênh lệch về lãi suất giữa Việt Nam và các nước khác. Hãy lấy một ví dụ đơn giản. Giả sử lãi suất đi vay của một doanh nghiệp Việt Nam nào đó cao hơn 5 điểm phần trăm so với một doanh nghiệp Trung Quốc làm đội chi phí tài chính lên, dẫn đến giá thành sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam này cao hơn của doanh nghiệp Trung Quốc 2%. Trên thị trường xuất khẩu, quả là doanh nghiệp Việt Nam sẽ kém cạnh tranh hơn khi có giá thành cao hơn 2% nếu mọi yếu tố khác, như tỷ giá tiền đồng và nhân dân tệ so với đô la Mỹ, không thay đổi. Nhưng giả sử tiền đồng lúc này bị phá giá 3%, trong khi tỷ giá nhân dân tệ/đô la Mỹ không thay đổi. Lúc đó, mặc dù doanh nghiệp Việt Nam đã phải chịu lãi suất đi vay bằng tiền đồng cao hơn doanh nghiệp Trung Quốc đi vay bằng nhân dân tệ, nhưng chi phí sản xuất quy đổi ra đô la Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam lại thấp hơn của doanh nghiệp Trung Quốc nhờ tiền đồng phá giá ở mức lớn hơn chênh lệch chi phí sản xuất do chênh lệch lãi suất ở thời điểm trước khi phá giá. Điều đó có nghĩa là hàng hóa sản xuất ở Việt Nam với lãi suất tiền đồng cao hơn các nước khác nhưng tính cạnh tranh về giá vẫn có thể không bị suy giảm, thậm chí còn được cải thiện nếu tiền đồng được phá giá ở mức độ đủ lớn.

Nếu Việt Nam không phá giá đủ lớn, như đã xảy ra trong năm 2012 theo bảng trên, với mức phá giá chỉ có 1,6% so với năm 2011 (cột 5), trong khi mức phá giá trung bình của thế giới là 5,2%, mức trung vị là 3,2%, và mức trung bình của ASEAN 5 là 1,3%. Trong bối cảnh lãi suất cho vay danh nghĩa của Việt Nam cao hơn các nước khác rất nhiều (cột 1), việc phá giá tiền đồng ở mức không đáng kể như thế đương nhiên làm suy giảm nghiêm trọng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Bài học về tính cạnh tranh bằng giá cả ở đây là lãi suất cao bao nhiêu không quan trọng bằng phải xem lạm phát đã ở mức độ nào trong tương quan với lãi suất, và tỷ giá có được điều chỉnh một cách tương ứng và phù hợp hay không.

Tóm lại, phân tích các số liệu về lãi suất, lạm phát và tỷ giá đã cho chúng ta thấy được những sự thật và cả những hiểu lầm đằng sau bức tranh lãi suất danh nghĩa tưởng như rất rõ ràng, hiển nhiên.

Wednesday 12 February 2014

Làm ngược! (Bài đăng trên TBKTSG ngày 13/2/2014, bản gốc)

Sang năm 2014, thông điệp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn là giữ ổn định tỷ giá (biến động không quá 2 điểm phần trăm), lạm phát trong khoảng 6%-7% (không đổi so với năm 2013), và có thể hạ lãi suất thêm 1, 2 điểm phần trăm.

Điều đáng chú ý ở đây là quy trình làm chính sách ngược, nếu có thể nói vậy, của NHNN. Thông thường, lãi suất và tỷ giá tiền đồng tất cả đều phụ thuộc phần lớn vào mức lạm phát ở Việt Nam. Và đến lượt nó, lạm phát lại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHNN nới lỏng hay thắt chặt hơn. Bởi vậy, trước khi có thể hạ lãi suất, ổn định tỷ giá thì lạm phát phải được khống chế và hạ đi một vài điểm phần trăm so với mức hiện tại. Điều này có thể thực hiện được bằng cách thắt chặt thêm chính sách tiền tệ của NHNN, tức giảm bớt tốc độ tăng cung tiền.
Nay, trong cách làm hiện tại của NHNN, dường như cung tiền với lãi suất và tỷ giá chẳng có mấy liên quan, còn lạm phát cứ như là một yếu tố khách quan (ngoài tầm với, tầm can thiệp của NHNN), và NHNN thụ động ngồi chờ, nếu giảm thì mới cắt giảm lãi suất. Hoặc giả lãi suất là một yếu tố phi thị trường, NHNN thích cắt giảm, muốn cắt giảm thì cứ thế mà “ra lệnh” cho thị trường phải cắt giảm, và sẽ thành công.

Cách tư duy ngược này, hy vọng trên thực tế không phải là vậy, chắc chắn sẽ còn làm cho nền kinh tế tiếp tục bị rối loạn bởi các mệnh lệnh hành chính, phi thị trường, ví dụ quy định trần lãi suất, sự “quyết liệt vào cuộc” ổn định tỷ giá bằng các biện pháp rắn và hành chính, có công an tham gia; có sự tố cáo lẫn nhau trong nội bộ hệ thống ngân hàng với một ngân hàng nào đó mua đô la hoặc huy động/cho vay với lãi suất vượt trần... trong khi nền tảng cơ bản giữ ổn định cho cả hệ thống tài chính là chính sách tiền tệ mà cụ thể là cung tiền không được phân tích, mổ xẻ thấu đáo làm cơ sở cho mọi quyết định về và phương hướng diễn biến của lạm phát, lãi suất, tỷ giá ở Việt Nam.
Từ phân tích cơ bản nói trên có thể thấy, triển vọng có hạ được lãi suất và ổn định tỷ giá được hay không phần lớn sẽ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHNN, mà cụ thể là tăng trưởng cung tiền ở mức bao nhiêu phần trăm. Nhưng cần lưu ý rằng NHNN tuy là chủ thể thực hiện chính sách tiền tệ nhưng yếu tố chi phối chính đối với chính sách tiền tệ của NHNN chính là mục tiêu tăng trưởng GDP của Chính phủ. Một khi mục tiêu tăng trưởng GDP vẫn ở mức tham vọng và được Chính phủ “quyết liệt vào cuộc” ráo riết thực hiện thì chính sách tiền tệ của NHNN không thể tránh khỏi phải nới rộng thêm so với mức thận trọng cần có, từ đó có thể làm lung lay nền tảng cho lãi suất và tỷ giá ổn định, buộc NHNN phải viện đến các giải pháp phi kinh tế như đã nói ở trên.

Tất nhiên là tác động đến lạm phát và tỷ giá còn nhiều yếu tố khác, nhưng những yếu tố như tổng cầu vẫn còn yếu hay sự quản lý giá cả bằng các biện pháp hành chính...  sẽ chỉ có tác dụng phần nào góp phần thực hiện được các mục tiêu đặt ra cho năm 2014 của NHNN, nhưng không thể lạm dụng chúng mãi được.

Sunday 9 February 2014

Cảm hứng copy!

Các đồng chí đọc bài này của báo An ninh Thủ đô có thấy nó giống bài gì của tớ không?

http://www.anninhthudo.vn/tien-vang/ngan-hang-nha-nuoc-mua-vang-cua-dan-kho-hon-len-troi/535590.antd

bài này, hehe.

http://phan-minh-ngoc.blogspot.sg/2014/01/the-ket-bai-ang-tren-tbkts-online.html

Nói chung là tớ có nhiều duyên nợ với những cái gì là an ninh nói riêng và công an nói chung.

Nhưng hơn các đồng chí khác là đồng chí Phan Đức của An ninh Thủ đô này có thêm mắm thêm muối chứ không thèm chỉ dừng lại ở copy không thôi. Cũng là một cái tài chứ chả đùa.

Giờ tớ lại có thêm niềm tự sướng là tạo nên cảm hứng copy cho một số đồng chí khác, thích thế!

Friday 7 February 2014

Tập làm văn (phần 4) - Thời thổ tả

Hình như có lần hắn kể rằng hắn nộp đơn thi Đại học An ninh chỉ vì mục đích được bắt nạt thiên hạ chứ không để thiên hạ bắt nạt hắn, nhưng rồi bị loại ngay từ vòng sơ tuyển bởi nhẹ cân thì phải nhỉ. Nhưng hắn nhớ nhầm, hóa ra không phải vậy (vì hồi đó tuy hắn có gầy tí chút nhưng với bộ khung xương của hắn chắc cũng phải nặng hơn khối thằng khác của cái dân tộc vốn đa phần đói ăn, suy dinh dường từ trong bụng mẹ này).

Hôm rồi về ăn Tết với gia đình, ngồi cùng nhau ôn nghèo kể khổ, hắn mới nhớ lại hắn bị loại vì vấn đề lý lịch. Ông anh hắn hồi đó cũng từng nộp hồ sơ thi Đại học Hàng hải và cũng bị loại ngay từ vòng sơ tuyển. Chuyện chưa dừng lại ở đó, mà còn xảy ra thê thảm hơn với thế hệ của bố hắn.

Mọi chuyện mới vỡ lở ra nhân một lần bố hắn “lấy” được bộ hồ sơ cá nhân mà Phòng Tổ chức  của công ty bố hắn (Công ty Gang thép Thái Nguyên) đang giữ. Hồ sơ dán kín với dấu tuyệt mật đỏ choét bên ngoài. Bố hắn tò mò, thắng nỗi sợ hãi, mở ra xem và chết đứng với những dòng chữ vô cảm nhưng tàn nhẫn với một cuộc đời ba chìm bảy nổi như bố hắn. Tuy đã đốt bộ hồ sơ khá lâu như để gắng quên một nỗi đau, nỗi thù, nỗi hận những kẻ đê tiện đã làm hại đời mình, nhưng bố hắn vẫn còn nhớ gần như in mấy dòng chữ đó, đại loại:

Đồng chí Đ. (tức bố hắn) mẹ (tức bà nội hắn) là tiểu tư sản (nhà mặt phố Cát Dài, nên buôn bán gì đó), có bố (tức ông nội của hắn) làm cho (cái gì đó) của Pháp (thực ra ông nội hắn giỏi tiếng Pháp, đi làm chân nhân viên, hay thư ký gì đó cho một công ty Pháp), có anh rể (tức bác rể của hắn) làm cảnh sát (tức một cái chân cảnh binh gì đó thời Pháp thuộc), có anh rể nữa (tức một ông bác rể khác) thì làm tư sản bóc lột (vì có một cái máy in roneo, thuê 2 nhân công, còn bản thân cũng làm hùng hục như chó ấy, chứ có khác gì), có chị gái (tức bác ruột hắn) di cư vào Sài Gòn. Đề nghị cơ quan khi sử dụng đồng chí Đ. phải hết sức thận trọng!

Ký tên: Công an Thành phố Hải Phòng

Là lá la la! Thế là xong một cuộc đời!

Bố hắn là một người thông minh, thi đỗ vào Đại học Bách khoa khóa 2 thì phải. Vì lúc đó mới có Nhà máy Gang thép Thái Nguyên nên bố hắn “thức thời”, xin học Khoa Luyện kim, với suy nghĩ rằng đó là ngành “thời thượng”, kiểu như ngành dầu khí một hai chục năm về trước hay ngành lái tầu ngầm hoặc điện nguyên tử như bây giờ ấy mà (là hắn cứ suy ra thế thôi, chứ chẳng biết có phải những ngành này là thời thượng hay không). Và cũng rất vinh dự được học cùng với một số đồng chí sinh viên dạng “cử tuyển” dốt hơn bò (giải thích cho các đồng chí trẻ: cử tuyển tức là không cần phải thi, được đảng cử đi học. Thảo nào...!!!), trong đó có cả đồng chí Phạm Thế D. mà sau này làm to vãi (từ đi mượn).

Điều lạ là bố hắn đi học không được học bổng và chế độ gì cả. Năm đầu và (hình như) năm thứ hai như vậy, những năm sau thì khá hơn là có một chút học bổng, và đến năm cuối mới được toàn phần. Đói đến mức độ bố hắn suýt bỏ học mấy lần, phải ra cảng Phà Đen làm bốc vác lấy tiền ăn, và thỉnh thoảng chạy đến nhà bà chị cả (tức bác cả của hắn) ăn ké. May mà bác cả của hắn là đảng viên kỳ cựu nên cũng có địa vị và đủ cơm để cho thằng em đến ăn ké. Còn lúc đó thì nhà bố hắn ở Hải Phòng đã sa sút lắm rồi sau cái chết sớm của ông nội hắn, còn bà hắn thì đã già và thời thế làm cho kiệt quệ, không buôn bán gì được nữa.

Rồi bố hắn cũng ra trường, được phân công lên Gang Thép Thái Nguyên, chôn vùi cuộc đời ở đó đến hơn 10 năm, sau mới được bà chị ruột lạm dụng sức mạnh của đảng lôi tuột một phát từ Thái Nguyên về làm người Thủ đô. Cái lý lịch đó, mà công ty lấy từ công an địa phương, là vòng kim cô chụp lên đầu bố hắn để đến nỗi tuổi trẻ lúc đó hừng hực khí thế cách mạng do được tảy não lẫn nhồi sọ, phấn đấu các kiểu mà không được vào đoàn, chưa nói đến vào đảng. 10 năm trời cống hiến, với một kỹ sư trẻ học hành tử tế, có năng lực, con đường hoạn lộ lẽ ra phải thênh thang vậy mà kết cục là số 0 khi về đến Hà Nội. Thuyên chuyển qua một đôi nơi, đến cuối đời (sau 3 năm ở Tiệp lao động khổ sai để có tiền nuôi vợ con), chức vụ cao nhất chỉ là trưởng phòng của một cái trường dạy nghề.

Rồi đến cô ruột hắn. Cô cũng thông minh, học giỏi, thi phát năm đầu đỗ ngay trường Y Hà Nội hay Hải Phòng gì đó, nhưng không nhận được giấy báo đỗ thì phải. Cậy cục nhờ người lên hỏi “trển” thì mới vỡ lẽ ra là vì lý lịch “có vấn đề” nên không được học Y (chắc sợ học xong, là thành phần xấu nên sẽ có thiên hướng giết bệnh nhân chăng?). Thế là cô hắn đành gạt nước mắt, gác lại giấc mơ làm thầy thuốc, đi làm bốc vác cho Nhà máy Xi măng Hải Phòng để lấy tiền sống, năm sau quyết tâm theo đuổi giấc mơ đại học nhưng là Đại học Nông nghiệp, khoa Thú Y, vì cho rằng chắc người ta không đến nỗi nghĩ rằng mình sẽ can tâm đầu độc các con vật mình chữa trị như với người.

Rồi đến anh hắn. Cũng thông minh, học hành tài tử, ôm mộng làm giàu, theo trào lưu thời thượng lúc đó là được đi tầu Vosco (giải thích với các đồng chí chưa biết rằng Vosco là tên của một công ty vận tải viễn dương của VN cực kỳ nổi tiếng và sáng giá hồi đó; thủy thủ của tầu được các em gái săn đón như kiểu đại gia bây giờ) để được khuân về đồ bãi của Nhật đặng làm giàu, nên nộp hồ sơ thi vào trường Hàng hải. Nhưng cũng như hắn, hồ sơ bị loại ngay từ vòng sơ tuyển vì công an địa phương chỉ rõ rằng nhà hắn có một bà bác đang sống ở Bỉ (chính là người bác ruột di cư vào Sài Gòn, sau được con gái bảo lãnh cả gia đình sang Bỉ sống). Chắc công an “khuyến nghị” rằng nếu đỗ và đi làm nghề đi tầu viễn dương thì ông anh sẽ lái tầu trực chỉ Bỉ thẳng tiến xin tị nạn, mất cả tầu lẫn hàng chăng?

Rồi tất nhiên là đến đời hắn, với cái lý lịch trên thì đương nhiên là phải từ bỏ giấc mộng làm chiến sĩ an ninh, ngày đêm canh gác giữ gìn an ninh cho đảng. Hắn đành phải chuyển sang nghiệp viết như thế này mà lòng dạ lúc nào cũng bùi ngùi, thương cảm cho cuộc đời của bố hắn mỗi khi nhớ lại. Cũng không biết có phải vì cái lý lịch “hoen ố” này hay không mà hắn tuy đã nhảy việc đến chục nơi trong nước trước khi lang thang nước ngoài, kể cả Ngân hàng Nhà nước, mà không nơi nào “mời” hắn cho dù là đi học “cảm tình đảng”. Đảng viên thì đương nhiên là một danh hiệu quá cao quý và xa vời với hắn rồi, không thể mơ tới được. Cay cú quá nên sau này, mỗi khi thấy có bạn trẻ nào đó được kết nạp đảng, hắn lại nhắc nhở, cẩn thận nhé không thì sau này phải mất 3 cây vàng để “chạy” ra khỏi đảng đấy.

Cái nghiệp trướng của hắn và gia đình hắn chưa dừng ở đó. Khi gần ra trường, đến ngày hẹn đến trường để lấy bằng, hắn mới té ngửa ra là bằng đại học của hắn bị bên an ninh gửi công văn về trường yêu cầu trường hủy đi vì can tội làm gián điệp. Rồi thậm chí sau đó, qua một số biến cố, hắn còn có vinh dự được một đồng chí cấp cực cao trong ngành an ninh chỉ thẳng vào mặt thề rằng sẽ không cho hắn (và cả anh hắn) ngóc đầu lên được.

Lại Là lá la la!

(Disclaimer: Chuyện không nhất thiết là sự thật, chỉ là chuyện chép lại, tác giả không chịu bất cứ trách nhiệm gì)

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).