Thursday 31 October 2013

Việt Nam và Vinashin

Đọc cái tin xóa bỏ "mô hình thí điểm" Vinashin này mới thấy tội nghiệp và cay đắng cho dân ta, vì ta cũng đã và đang bị biến thành chuột bạch cho các thí nghiệm các kiểu vài chục năm nay, để rồi bao xương máu, nước mắt đã phải đổ ra và tiền của đội nón ra đi để hiện thực hóa những suy nghĩ điên khùng của một bộ phận người đã và đang nắm vận mệnh đất nước và dân tộc.

Vinashin đã phải trả giá cho lỗi lầm của mình, trả giá hộ cho lỗi lầm của những kẻ khai sinh ra nó, còn dân Việt Nam đang và sẽ phải è cổ, bóp mồm, thắt đít trả giá hộ cho tất cả những lỗi lầm này, trong không chỉ một mà vài thế hệ, điều mà nhiều người giờ mới ngã ngửa ra khi được biết.

Chưa hết, dân Việt Nam vẫn đã và đang phải trả giá cho một "mô hình thí điểm" mà về quy mô thì lớn gấp ngàn lần Vinashin, đó là mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà theo đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kính yêu và thông thái thành thật tâm sự và chia sẻ: "Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa".

Đến đồng chí Trọng mà còn chưa biết thì ai biết đây? Thông thái gần bằng và nhìn xa hơn như tớ mà cũng chỉ lờ mờ cảm nhận rằng tương lai và tiền đồ của (công cuộc xây dựng) CNXH ở Việt Nam cũng mù mờ và sóng gió như, để rồi có kết cục giống của Vinashin hôm nay.

Vinashin đã đổ vỡ rồi, mô hình của nó đã phải bị xóa bỏ rồi (lời của báo Nhân dân nhé), liệu có hy vọng gì cho một khả năng tương tự như thế với mô hình CNXH mà ta đang nhắm mắt lao tới không? Và bao giờ đây? Sao các đồng chí chưa (hoặc cố tình không) tỉnh ngộ, rút kinh nghiệm từ Vinashin và thôi mang cái nước Việt khốn khổ này ra làm thí nghiệm nữa đi cho con dân được nhờ?


Áp lực lạm phát – Có hay không và đến từ đâu? (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 31/10/2013, bản gốc)

Chính phủ đang phấn đấu kiềm chế lạm phát trong các tháng còn lại của năm để đạt được mục tiêu giữ lạm phát cả năm dưới 7% năm nay, tạo đà để kiềm chế lạm phát trong năm sau xoay quanh mức này. Với lạm phát 10 tháng năm nay so cùng kỳ năm trước “mới” đạt mức 5,92%, nhiều người cho rằng mục tiêu lạm phát 7% năm nay là hoàn toàn khả thi. Mặc khác, cho dù có đạt được thì cũng cần phải thừa nhận rằng mức này vẫn là cao so với khu vực và thế giới.

Tuy vậy, với một số đề xuất và công bố về chính sách vi mô và vĩ mô mới đây, sẽ là không dễ phủ nhận sự gia tăng của áp lực lạm phát cho những tháng còn lại của năm và ít nhất là sang đến năm sau.
Nguồn gia tăng áp lực lạm phát đầu tiên phải kể đến là nguồn cung tiền từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên quan đến khoản trái phiếu chính phủ 170 nghìn tỷ đồng mà Chính phủ đang đệ trình Quốc hội phê duyệt cho phát hành thêm nhằm bổ sung nguồn vốn cho kế hoạch chi tiêu đề ra từ trước trong bối cảnh hụt thu ngân sách mạnh. Mặc dù một số đại diện của Chính phủ có giải thích rằng đây không phải là khoản tiền in thêm ra nên “người dân có thể yên tâm là sẽ không gây ra lạm phát”, nhưng điều này phải có điều kiện.

Như đã biết, tại mỗi thời điểm với một khối lượng cung tiền không đổi, khi Chính phủ phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư và chi tiêu,  hành động này sẽ hút bớt một phần vốn lẽ ra dành cho khu vực kinh tế phi nhà nước (tức khu vực kinh tế tư nhân). Lãi suất trái phiếu Chính phủ càng hấp dẫn thì lượng vốn hút vào trái phiếu càng tăng, và tức là lượng vốn còn lại dành cho khu vực tư nhân càng giảm. Cứ vậy, cho đến một lúc nào đó thì lượng vốn hút vào ngân sách sẽ đúng bằng lượng trái phiếu phát hành ra (trong trường hợp này là 170 nghìn tỷ đồng theo đề xuất của Chính phủ), và cũng đúng bằng lượng vốn chảy ra khỏi/lẽ ra dành cho khu vực tư nhân (170 nghìn tỷ đồng).
Như vậy, mục đích dùng để biện minh cho đề xuất phát hành thêm 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ là để tăng tổng đầu tư xã hội sẽ không thành hiện thực vì tổng đầu tư xã hội sau khi phát hành thêm 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu vẫn không thay đổi so với trước khi phát hành trái phiếu. Để hiện thực hóa mục đích này, cần phải có thêm một nguồn tiền mới hấp thu hết được 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu phát hành thêm, bên cạnh lượng tiền hiện có trong nền kinh tế.

Vậy nguồn tiền mới này có thể từ đâu đến? Nó có thể đến từ NHNN, thông qua việc bơm thêm thanh khoản cho các ngân hàng thương mại để họ mua trái phiếu Chính phủ. (Một phần) nguồn tiền đó cũng có thể đến từ các nhà đầu tư nước ngoài, mang ngoại tệ vào Việt Nam, đổi ra tiền đồng để mua trái phiếu, thông qua hệ thống ngân hàng trong nước. Một phần lượng trái phiếu trên cũng có thể được phát hành ra quốc tế, bằng ngoại tệ. Dù bằng nguồn nào thì rốt cuộc cung tiền (tiền đồng và ngoại tệ) trong nền kinh tế Việt Nam cũng tăng lên tương ứng, tạo thêm áp lực lạm phát, chứ không đơn giản như giải thích trấn an của Chính phủ.
Nguồn tăng áp lực lạm phát thứ hai đến từ việc chủ động phá giá tiền đồng nhằm hỗ trợ xuất khẩu, do tiền đồng đã lên giá mạnh, như tuyên bố của Thủ tướng. Mặc dù mức độ phá giá có thể là nhỏ (2% đến cuối năm), nhưng việc này cũng tạo ra thêm áp lực lạm phát (nhập khẩu) một thời gian đầu khi mới phá giá, nhất là khi việc phá giá tạo ra cơn sốc tâm lý mà Chính phủ không kiểm soát được, đẩy áp lực lạm phát nhập khẩu lên cao quá mức.

Cần lưu ý rằng hành động phát hành thêm trái phiếu với thanh khoản tăng thêm từ NHNN sẽ tạo điều kiện cho thị trường kỳ vọng lạm phát sẽ gia tăng, từ đó làm tiền đồng càng lên giá thực so với đô la Mỹ, càng tạo bất lợi cho xuất khẩu, và tức là càng tạo thêm áp lực phá giá hơn nữa tiền đồng, có thể quá mức mục tiêu 2% như tuyên bố của Chính phủ. Đến lượt nó, việc phá giá tiền đồng mạnh hơn sẽ càng tăng áp lực lạm phát, theo một vòng xoáy trôn ốc.
Nguồn tăng áp lực lạm phát thứ ba đến từ chính NHNN, trong một nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đạt mức 12% như đã đặt ra ban đầu. Cho đến tháng 10 này, tăng trưởng tín dụng mới đạt trên 6%, thấp xa so với con số mục tiêu trên. Nếu NHNN phải biến mục tiêu này thành hiện thực thì sẽ không khó hiểu khi thấy một lượng thanh khoản lớn sẽ tiếp tục đổ vào hệ thống ngân hàng, bên cạnh lượng tài khoản giúp cho các ngân hàng mua 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ nói trên. Đương nhiên, lúc đó áp lực lạm phát đến từ gia tăng tổng cầu do tăng cung tiền sẽ phải tăng lên mạnh.

Ngoài ra, một số biện pháp hành chính đang và sẽ được thực thi như không cho một doanh nghiệp/ngành nào đó tăng giá sản phẩm và dịch vụ (điện lực, xăng dầu, giáo dục, y tế...) có thể sẽ có hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát trong thời gian cấm tăng giá. Nhưng cũng có thể dễ dàng thấy khi được “buông” thì giá của chúng sẽ được tăng “bù” và thậm chí còn tăng nhiều hơn, như thực tế đã cho thấy.
Với những nguồn trên, và nếu mọi kế hoạch và đề xuất đều được thực hiện ráo riết, có thể nói rằng áp lực gia tăng lạm phát sẽ rất lớn, và, do đó, mục tiêu giữ lạm phát như đã đề ra cho năm nay và cả năm sau sẽ trở nên bất khả thi, chứ không đơn giản như người ta nghĩ.

(Bổ sung: Tớ viết vội quá nên ẩu. Đoạn về phá giá và kỳ vọng lạm phát lẽ ra nên để ở sau yếu tố thứ ba, vì hành động thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cũng làm tăng kỳ vọng lạm phát và do đó kỳ vọng phá giá hơn nữa do VND tiếp tục lên giá thực mạnh so với USD).

Friday 25 October 2013

Sao cứ phải nâng bội chi ngân sách? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=296367

08:28 | 26/10/2013
 
Thay vì nâng trần thâm hụt ngân sách để tăng nợ công, điều cần làm là phải thắt chặt kỷ luật thu chi ngân sách, đồng thời xây dựng các mục tiêu, kế hoạch mang tính thực tiễn, khoa học hơn, và quan trọng hơn, không buộc chúng phải đạt được bằng mọi giá, bất chấp hoàn cảnh khách quan và chủ quan.
Nguồn: vef.vn
Chính phủ đang trình Quốc hội nâng trần thâm hụt ngân sách để phát hành bổ sung 170.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014 - 2016. Lý do xin phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ, theo giải trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, là: bổ sung nguồn lực đầu tư toàn xã hội và thúc đẩy đầu tư các thành phần kinh tế khác; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa Việt Nam thành nước công nghiệp vào năm 2020; tái cơ cấu nền kinh tế, nhất là tái đầu tư công, huy động vốn đầu tư xã hội (gồm ODA); bổ sung nguồn để thực hiện các dự án đầu tư bằng trái phiếu Chính phủ dang dở.
 
Tuy nhiên, lý do sâu xa, nói ngắn gọn, là do giảm thu trong khi chi ngân sách vẫn tăng, dẫn đến khả năng thâm hụt ngân sách lớn hơn dự kiến, và tình hình này có thể kéo dài sang một vài năm sau trong bối cảnh kinh tế trong (và ngoài) nước đã và sẽ tiếp tục có nhiều bất ổn. Vậy, lẽ ra biện pháp chủ đạo cần phải làm trước tiên, trước khi xem xét và phê chuẩn chấp nhận cho Chính phủ tăng trần thâm hụt và phát hành thêm trái phiếu Chính phủ, là cắt giảm chi tối đa, nhất là các khoản chi lãng phí, không hiệu quả, đồng thời tăng cường thu tối đa từ các nguồn hiện có và các nguồn có thể bổ sung.
 
Biện pháp trên thoạt nghe tưởng chừng quá hiển nhiên, ai cũng nói được, cũng biết được, và cũng... làm được (và đã làm được). Nhưng xem xét lại báo cáo giải trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách mới thấy thực ra tình hình thực tế hoàn toàn không phải vậy.
 
Về thu ngân sách, báo cáo thẩm tra đã chỉ ra được một loạt những khoản thất thu, những bất cập trong công tác thu ngân sách, ví dụ như thất thoát và gian lận thuế, những khoản để ngoài ngân sách..., và kết luận rằng vẫn còn dư địa tăng thu. Về chi ngân sách, báo cáo thẩm tra cũng xác định được một loạt bất cập. Ví dụ, trong khi thu NSNN giảm nhiều, chi đầu tư phát triển vẫn tăng; phân bổ, bố trí vốn xây dựng cơ bản chưa khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, thi công kéo dài, gây lãng phí nguồn lực; vẫn còn nhiều dự án triển khai chậm tiến độ, phân bổ vốn không đúng cơ cấu, chương trình hỗ trợ được giao; còn tình trạng một số cơ quan, đơn vị thiếu kiên quyết trong cắt, giảm đầu tư công; khởi công dự án mới trái quy định; một số chính sách, chế độ hỗ trợ cho các địa phương còn bất cập...
 
Trong bối cảnh trên, không khó hiểu tại sao bội chi lại có khả năng tăng mạnh so với mục tiêu kế hoạch đặt ra ban đầu. Lẽ ra Chính phủ phải tập trung khắc phục những bất cập này, còn Quốc hội cần phải nghiêm khắc hơn với Chính phủ về kỷ luật tài chính thay vì thông qua kế hoạch tăng bội chi của Chính phủ. Nếu thực hiện nghiêm túc quá trình thực hiện và giám sát thực hiện kỷ luật tài chính của cả Chính phủ và Quốc hội thì chắc chắn thâm hụt ngân sách không lớn như hiện tại và dự toán cho năm nay và những năm sau như trong các báo cáo của Chính phủ và Quốc hội, và hoàn toàn có khả năng không cần thiết phải nâng trần thâm hụt và nợ công. Còn nếu cứ để mọi việc trôi theo đề xuất của Chính phủ như hiện nay thì bội chi ngân sách khó có khả năng cải thiện trong những năm sau, nếu không muốn nói là sẽ tệ hơn, vì bao giờ Chính phủ cũng có những lý do nghe rất xác đáng (như hiện tại) để biện minh cho sự không hoàn thành nhiệm vụ của mình.
 
Biện pháp thứ hai cần làm là xem xét lại và thay đổi toàn bộ quy trình lập, trình và phê chuẩn các kế hoạch, mục tiêu phát triển KT - XH của Chính phủ và Quốc hội. Bản thân Quốc hội cũng (nên) nhận ra rằng các con số kế hoạch mục tiêu không gắn bó chặt chẽ với nhau và bản thân các con số đó được đưa ra chủ yếu bởi cảm tính, định tính (dựa theo các năm trước, theo nghị quyết, hoặc cảm thấy cần phải ở mức đó thì mới là hợp lý v.v...). Và kể cả có một cơ sở nào đó khi đưa ra những kế hoạch này nhưng đôi khi chúng sẽ thành mục tiêu ảo, đơn giản vì hoàn cảnh kinh tế (trong và ngoài nước) lúc đó đã thay đổi, không đúng như dự tính ban đầu. Lúc đó, nếu cứ khăng khăng phải đạt được mục tiêu kế hoạch thì hoặc là duy ý chí, hoặc là có hại nhiều hơn lợi.
 
Hãy lấy một ví dụ minh họa. Tăng trưởng năm nay ước đạt 5,4%, so với mức 5% của năm trước. Nhưng người ta sẽ giải thích làm sao khi tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng đầu tư trên GDP năm nay lại giảm rất mạnh so với năm trước? Nghịch lý gì chăng? Không phải vậy. Nếu loại trừ khả năng các con số thống kê này là tạo dựng, thì đơn giản là chẳng có mối quan hệ rõ ràng và ổn định nào như kiểu, ví dụ, tăng trưởng tín dụng và đầu tư phải là x% để GDP tăng được y%. Trên nghĩa này, xin đừng “quyết tâm” với “quyết liệt” và “phấn đấu” để đạt được một con số mục tiêu vô căn cứ, duy ý chí nào đó, chẳng hạn tăng trưởng GDP phải là 6%,  hoặc tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP phải là 30%, hoặc tăng trưởng tín dụng phải là 12%, hoặc thâm hụt ngân sách phải là 5,3% GDP... bằng mọi giá để rồi nền kinh tế phải trả giá trong trung và dài hạn, vì sự những sự quyết tâm, quyết liệt và phấn đấu này không được dựa vào, không tuân theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường.
 
Tóm lại, thay vì nâng trần thâm hụt ngân sách để tăng nợ công, điều cần làm là phải thắt chặt kỷ luật thu chi ngân sách, đồng thời xây dựng các mục tiêu kế hoạch mang tính thực tiễn hơn, khoa học hơn, và quan trọng hơn, không buộc chúng phải đạt được bằng mọi giá, bất chấp hoàn cảnh khách quan và chủ quan.

Wednesday 23 October 2013

Bình ổn thị trường vàng – nhiệm vụ mù mờ và bất khả thi (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 24/10/2013, bản gốc)

Giá vàng trong nước sau một thời gian giảm giá liên tục đã lùi về gần mốc 37 triệu đồng/lượng hồi đầu tuần trước, do ảnh hưởng của giá vàng quốc tế. Điều đáng nói là chênh lệch khoảng cách giá vàng trong nước và thế giới sau một thời gian thu hẹp về mức 2-3 triệu đồng/lượng, được cho là công lao của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), gần đây lại tăng vọt lên, đạt mức gần 5 triệu đồng/lượng gần đây.

Tuy đã được nhiều người phân tích và chỉ ra những bất hợp lý trong chính sách quản lý thị trường vàng kiểu này của mình, nhưng NHNN vẫn khăng khăng bảo vệ quan điểm và cách làm như hiện nay. Trong bối cảnh chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới lại tiếp tục doãng rộng, điều này lại một lần nữa đặt ra một câu hỏi, liệu chính sách “bình ổn thị trường vàng” của NHNN có là khả thi, và, quan trọng hơn, nhằm mục đích gì?

Trong bài này, ta sẽ phân tích thêm về tính bất khả thi và mù mờ về mục đích của chính sách “bình ổn thị trường vàng” của NHNN.
Việt Nam đã nhập khẩu bao nhiêu vàng?

Cuối tháng 9, NHNN đã có báo cáo một số nội dung liên quan đến công tác quản lý thị trường vàng thời gian qua. Báo cáo cho biết trước đây mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 50-100 tấn vàng; toàn bộ lượng ngoại tệ để nhập khẩu vàng được lấy từ nền kinh tế, do vậy, nhập khẩu vàng trên quy mô lớn đã ảnh hưởng lớn đến tỷ giạ, lạm phát, sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Với lập luận trên, bản báo cáo của NHNN dường như ngụ ý rằng nhu cầu nhập khẩu vàng của Việt Nam kể từ khi NHNN tiến hành chính sách quản lý hiện tại đã giảm đi về quy mô so với con số trung bình hàng năm từ 50-100 tấn như nói trên.

Nhưng theo thống kê của Hội đồng Vàng Thế giới thì tổng nhu cầu tiêu thụ vàng nữ trang và vàng thỏi, vàng miếng đã đạt mức 23,2 tấn trong quý 2 năm nay, tăng tới 24% so với cùng kỳ năm ngoái là 18,8 tấn (Bảng 10, báo cáo: “Gold Demand Trend Q2 2013”). Nếu tính nhu cầu tiêu thụ trong 12 tháng kể từ tháng 6/2012 đến 6/2013 thì Việt Nam vẫn tiêu thụ tổng cộng tới 77,4 tấn vàng (Bảng 12).
Việt Nam là nước nhập khẩu hầu như toàn bộ lượng vàng tiêu thụ, và vì không thể coi con số nhu cầu 23,2 tấn hoặc 77,4 tấn nói trên là tổng lượng vàng có (sẵn) trong nền kinh tế, nên có thể coi nhu cầu tiêu thụ vàng do Hội đồng Vàng Thế giới cung cấp nói trên chính là nhu cầu nhập khẩu vàng thêm vào nền kinh tế hàng quý, hàng năm. Từ đó suy ra tiếp rằng tổng khối lượng nhập khẩu vàng vào nền kinh tế trong thời gian qua không có dấu hiệu giảm sút, nếu không muốn nói là ngược lại, kể cả sau thời điểm NHNN liên tục tung vàng ra thị trường qua đấu thầu.

Thêm nữa, nguồn cung vàng trước đây từ các nhà nhập khẩu vàng (kể cả nhập lậu) với ngoại tệ gom góp trong nền kinh tế, như NHNN khẳng định, thì nay được thay bằng nguồn cung từ NHNN qua đấu thầu. Đương nhiên, lượng ngoại tệ NHNN dùng để nhập khẩu vàng vẫn là lấy từ nền kinh tế (hoặc rút từ nền kinh tế về qua hoạt động mua ngoại tệ với các ngân hàng thương mại, và/hoặc sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối). Điều này cũng có nghĩa là cái lý do rằng độc quyền nhập khẩu vàng để hạn chế sức ép lên tỷ giá mà NHNN đưa ra để biện minh cho hành động của mình là không đúng.
Thị trường vàng đã được ổn định, tình trạng đầu cơ vàng đã được ngăn chặn?

Trong báo cáo trên, NHNN khẳng định thị trường vàng đã được ổn định, nhu cầu vàng miếng đã được đáp ứng, tình trạng đầu cơ vàng đã được ngăn chặn, cung cầu vàng miếng trên thị trường đã được thu hẹp.

Khẳng định trên là tự mâu thuẫn. Nếu nhu cầu vàng miếng đã được đáp ứng thì, như đã nói ở trên, tổng lượng vàng nhập khẩu vào Việt Nam phải ở mức (trung bình) như mọi năm. Mà như vậy thì có nghĩa rằng mục đích quản lý vàng của NHNN để không làm hao tổn ngoại tệ của nền kinh tế Việt Nam là không hiện thực. Nếu lượng vàng nhập khẩu quả thực là nhỏ hơn mức trung bình hàng năm thì điều này lại cho thấy khẳng định của NHNN rằng nhu cầu vàng miếng đã được đáp ứng là không đúng (và trên thực tế đã có một phần cầu vàng không được đáp ứng).
Về tình trạng đầu cơ vàng, bản thân dãn cách giá vàng trong và ngoài nước tăng mạnh đã cho thấy tình trạng đầu cơ vàng đã tăng lên khi một bộ phận nhà đầu tư (có thể là cả cá nhân) cho rằng giá vàng sẽ tăng lên tại một thời điểm nào đó nên họ tích cực gom vàng vào tại thời điểm hiện tại, bất chấp cái giá phải mua là quá cao so với giá quốc tế, với hy vọng rằng giá bán tại thời điểm nào đó trong tương lai sẽ lớn hơn giá mua hiện tại. Đây là điển hình của tình trạng đầu cơ, nên NHNN không có lý do gì để khẳng định rằng tình trạng đầu cơ đã bị ngăn chặn.

Mà cho dù dãn cách có thu hẹp lại thì vẫn có một bộ phận nhà đầu tư vẫn mua gom với hy vọng giá vàng thế giới (và, do đó, giá vàng trong nước) sẽ tăng lên trong thời điểm tương lai, lớn hơn giá tại thời điểm hiện tại, mang lại lợi nhuận cho họ. Để ngăn chặn tình trạng đầu cơ này, NHNN chỉ còn cách ngừng hoàn toàn cung, cấm hoàn toàn hành động mua bán vàng trên thị trường  để nhà đầu tư không thể tiếp cận được với nguồn cung (cả chính thức và không chính thức) và không đầu cơ được. Đương nhiên, điều này là không tưởng và bất khả thi.
Tương tự như vậy, lời khẳng định cung cầu vàng (chắc ý muốn nói là chênh lệch cung cầu vàng) đã được thu hẹp và thị trường vàng đã được ổn định cũng là vô căn cứ. Bản thân việc giá vàng trong nước xuống liên tục trong mấy tuần liền cho thấy hoặc dư cung, hoặc thiếu cầu vàng. Nói cách khác, chênh lệch cung cầu vàng đã tăng (nghiêng về cung). Như vậy, trừ khi NHNN có ý rằng thị trường ổn định có nghĩa là giá vàng (trong nước) đi xuống thì lời khẳng định trên mới phần nào có cơ sở. Nhưng kể cả có như vậy thì NHNN sẽ giải thích ra sao khi giá vàng trong nước lại tăng lên (theo đà tăng của giá vàng thế giới) như một vài hôm trước đây?

Khái quát hơn, vì NHNN, cho dù có độc quyền cung vàng trong nước, vẫn chỉ là một người tham gia cuộc chơi vàng toàn cầu và phải chấp nhận giá cả áp đặt bởi thị trường (price taker). NHNN không bao giờ có thể là người làm giá (price maker). Nên giả sử NHNN có thành công trong việc ổn định thị trường vàng trong nước với cái nghĩa là ổn định (chênh lệch) cung cầu thì thành công này chỉ mang tính thời điểm (thậm chí không kéo dài quá một ngày) vì giá vàng thế giới luôn biến động bất ngờ, kéo theo giá vàng trong nước, như đã được chứng kiến, cho dù mức độ tăng giảm của giá vàng trong nước không nhất thiết tỷ lệ thuận với mức độ tăng giảm của giá vàng thế giới tại cùng thời điểm. Và như thế có nghĩa là NHNN luôn là người chạy sau biến động của thị trường vàng thế giới (và, do đó, biến động của thị trường vàng trong nước), chưa kể tần suất can thiệp, nếu có, là quá nhỏ (tối đa thì cũng chỉ là một ngày một lần, thông qua đấu thầu như mấy tháng nay). Trong bối cảnh luôn phải “vuốt đuôi” thị trường như thế mà nhận rằng đã “bình ổn” được thị trường thì quả là quá ngôn.

Kết luận lại, những diễn biến phức tạp trong thị trường vàng trong nước suốt mấy tháng qua dưới chính sách quản lý vàng của NHNN cho thấy rõ thêm sự mù mờ về mục đích và tính bất khả thi của nó. NHNN càng ra sức biện minh thì càng bộc rõ những lúng túng và sai lầm trong lập luận của mình.

Tuesday 22 October 2013

Chuyện linh tinh

Tớ mới đi Penang nạp năng lượng về. Cũng chẳng có gì nhiều để nói ngoài mấy cái quan sát nhỏ nhặt. Tớ cũng đã đi vài nơi ở Malaysia nên thấy họ bảo vệ rừng khá tốt. Cây cối trên núi, trong công viên, trong rừng vẫn còn khá nguyên sơ. Thành phố khá vệ sinh, sạch sẽ.

Điểm không ngờ là giá nhà cửa tại Penang khá đắt đỏ. Những căn hộ condo tại những vị trí đắc địa lên tới vài triệu ringgit (hàng triệu đô Mỹ rồi). Tớ vốn chỉ quen với khái niệm nhà cửa đắt đỏ ở Sing, nhưng sang đây mới thấy mình nhầm. Đồng chí Jackie Chan còn chọn mua một căn hộ penthouse tại nơi này nữa (nghe đâu trị giá vài triệu đô Mỹ), chắc cũng có lý của mình.

Có một điểm chung giữa Malaysia và Indonesia mà tớ rất ghét là 2 nước này duy trì chế độ 2 giá tại nhiều nơi vui chơi, giải trí hoặc tại một số nơi (công cộng) khác. Giá vé bán cho người nước ngoài gấp tới dăm đến cả chục lần giá vé bán cho dân bản địa. Ngẫm ra Việt Nam mình còn tiên tiến chán. Trước đây ta cũng có chế độ 2 giá, nhưng hình như nay đã không còn phổ biến lắm (vẫn còn, tỷ như vào địa đạo Củ chi hay Bảo tàng chứng tích chiến tranh ở SG, lần tớ về đó hồi tháng 4). Bây giờ thành là người nước ngoài đối với mấy nước này nên tớ mới hiểu được cái cảm giác bực bội, thấy mình là mục tiêu chặt chém, làm tiền không chỉ của tư nhân mà còn cả của chính phủ từ trên xuống của người nước ngoài khác trước đây ở Việt Nam, và những lời kêu ca của họ.

Chuyển sang chuyện khác. Đọc bài về tỷ giá này trên VnEconomy, tớ lại càng thấy có sự "tự diễn biến", những chuyển biến theo hướng mà đồng chí X đã tuyên bố trong trả lời phỏng vấn Bloomberg (cũng lạ, tại sao trả lời phỏng vấn nước ngoài thì nói rõ vậy, nhưng phát biểu trong nước thì hình như chưa bao giờ tớ nghe thấy cái gì tương tự, từ đồng chí X hay từ bất kể đồng chí nào khác. Phải chăng Việt Nam muốn duy trì chế độ 2 chính sách về tỷ giá chăng?).

VnEconomy vốn là tờ có nhiều bài đăng (mà cụ thể là của đồng chí Minh Đức) về tỷ giá theo đường lối của NHNN. Nhưng xem ra trong bài này, tác giả đã hiểu biết và thận trọng hơn,và cố gắng khéo léo lái phát biểu của đồng chí X theo hướng mà NHNN đã mạnh mồm tuyên bố nhiều lần, mặc dù tớ chẳng thấy có cái gì chung cả. Tiếc rằng, những "chuyên gia" với "nguồn tin có thẩm quyền" được trích dẫn trong bài nay đã tắt loa về cái gọi là "không phá giá" mà chỉ "điều chỉnh" (nếu có) vì "cung cầu vẫn bình thường". Thay vào đó, chuyện "phá giá" do "VND bị định giá cao" nay đã chính thức được thừa nhận, nêu ra công khai, đúng từng chữ như thế, chứ không còn cái kiểu nói lái, nói tránh, vòng vo, đánh tráo khái niệm v.v... như các bài trước trên báo và trong các trả lời chất vấn, phát biểu chính thức của NHNN.

Ấy thế mà hôm trước, hình như trong một cuộc hội thảo, họp hành nào đó mà vẫn có nhiều đồng chí chuyên gia, gồm cả Phạm Chi Lan, phản đối phá giá, vẫn với những lý do cũ rích và vớ vẩn. Hình như vẫn chưa có thêm một ai lên tiếng theo, dựa hơi đồng chí X (như tớ!). Để rồi xem mấy đồng chí trung kiên với không phá giá có còn tiếp tục cái điệp khúc này nữa không.

Ngẫm ra, đúng là miệng nhà quan có gang có thép thật. Chỉ cần một câu của đồng chí X là tình hình xoay 180 độ, và các đồng chí chuyên gia ếch và đám bồi bút nay lại phải vắt óc xoay chuyển câu chữ và lời nói sao cho không lòi cái ngu, cái hèn, cái thối của mình ra, hoặc đơn giản là không đi ngược lại tinh thần của đồng chí X (nếu vẫn bảo thủ, nghĩ rằng mình suy nghĩ đúng, chỉ tại đồng chí X nói thế nên phải chịu). Giá mà xảy ra sớm một chút thì có phải là tiết kiệm bao nhiêu nước bọt trong các cuộc tranh luận giữa những người như tớ (có một dúm) với một đống quan chức và chuyên gia khác không nhỉ. Thật tiếc!

Thursday 10 October 2013

Xem ra thông điệp của đồng chí X đang được hiện thực hóa

Đọc bài này cần phải sắp xếp lại các ý tưởng một chút thì mới hiểu được cái bản chất của sự việc. Tác giả hình như cho rằng việc mua vào USD là một cơ hội tại thời điểm này khi tỷ giá đã hạ và nguồn cung thuận lợi (và cứ như những lập luận vẫn nghe thấy trước đây thì hành động này là có lợi và nên làm vì làm tăng dự trữ ngoại hối).

Tuy nhiên, nhìn ngược lại, có thể hiểu đây là hành động can thiệp của NHNN để làm giảm giá VND (hoặc giữ cho VND không lên giá cả thực và danh nghĩa thêm nữa) so với USD, bằng cách mua USD vào và tung VND ra. Nếu NHNN không tiến hành một chiến dịch bán tín phiếu nữa để trung hòa nguồn cung VND tăng lên thì chắc chắn đây là hành động phá giá VND (hoặc không để cho VND lên giá thêm), theo đúng tinh thần của đồng chí X mà tớ có đề cập đến trong entry tuần trước.

Nói lan man thêm. Nếu cứ như những lập luận trước đây thì rõ ràng NHNN phải lấy làm mừng vì nguồn cung USD dồi dào, làm giảm tỷ giá, tức là ít nhất thì họ không cần phải bận tâm và can thiệp vào tỷ giá bây giờ làm gì cả vì nó chỉ có xu hướng giảm chứ không tăng (mất giá VND, vốn là điều mà họ coi là bất lợi cho nền kinh tế). Thế nhưng, việc NHNN phải tiến hành can thiệp cho thấy những gì mà người ta hay viện dẫn đến trước đây (cung cầu ngoại tệ dồi dào nên không phải phá giá, không cần thiết phá giá) hoặc là một sự sai lầm không thể tha thứ, hoặc là một sự lừa dối cũng không thể tha thứ.

Nhưng dù sao thì cũng mừng vì mọi việc đang có vẻ đi đúng hướng hơn.

Tại sao dân chủ không luôn là điều tốt?


Cái kiểu dân chủ như trong bài báo này quả thật là nguy hiểm.
Trích: “Tuy nhiên, theo đề nghị của cử tri tỉnh Trà Vinh, để doanh nghiệp có đủ điều kiện sản xuất, ngân hàng cần ổn định mức lãi suất cho vay từ 9 - 9,5%, vì bình quân lãi suất khu vực chỉ có 6,55%, còn ở Việt Nam là 14%, có lúc cao hơn gây khó khăn cho doanh nghiệp và mất cân đối trong đầu tư phát triển.”

Và: “Ở ý kiến khác, đáng chú ý là cử tri tỉnh Gia Lai đề nghị Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định các tổ chức tín dụng giảm mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay xuống 2% thay vì 3% như hiện nay, để giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp trong giai đoạn sản xuất, kinh doanh đang gặp nhiều khó khăn.”

Rồi lại: “Dù đã nhiều lần đề cập đến, song có ý kiến cử tri vẫn tiếp tục đề nghị xem xét áp một trần lãi suất cho vay, 10%/năm thời điểm này, cho cả người dân và doanh nghiệp.”

Bình luận: Cứ để cho mấy đồng chí cử tri này lên tiếng, và nhỡ chẳng may các đồng chí Chính phủ lại ếch ương hoặc mị dân mà làm cái gì đó thuận theo, chẳng hạn hạ lãi suất xuống như theo yêu cầu thì... thôi, khỏi nói. May mà các đồng chí NHNN lần này cũng có bản lĩnh và có trình độ, trả lời khá ổn.

Nói tóm lại, tớ cũng tán đồng là nên có dân chủ, nhưng không phải là dân làm chủ, thò mũi vào, có quyền hạch sách mọi việc.

Đừng để bị các con số điều khiển (Bài đăng trên TBKTSG ngày 10/10/2013, bản gốc)


Thông thường, các kế hoạch phát triển kinh tế được các cơ quan chức năng của Chính phủ đặt ra cho một kỳ nào đó, có thể là cho 1 năm sau,  3 năm sau, hoặc 5 năm sau, với những chỉ tiêu cụ thể, ví dụ như tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, tăng trưởng tín dụng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại, nợ nước ngoài, xuất khẩu, nhập khẩu v.v... trong khoảng từ bao nhiêu đến bao nhiêu.

Các chỉ tiêu trên thường được Chính phủ trình trước Quốc hội để xin phê chuẩn. Quốc hội sau một số phiên họp và thảo luận sẽ phê chuẩn hoặc yêu cầu Chính phủ sửa đổi một số chỉ tiêu mà Quốc hội cho rằng là thích hợp hơn. Và khi đã được phê chuẩn thì các con số chỉ tiêu phát triển kinh tế đó gần như trở thành chỉ tiêu pháp lệnh. Việc hoàn thành như thế nào các chỉ tiêu này cũng là thước đo đánh giá chất lượng và năng lực hoạt động của Chính phủ. Bởi vậy, không hiếm khi trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu do chính mình đề ra, Chính phủ vấp phải những khó khăn chủ quan và khách quan để rồi không hoàn thành được kế hoạch và buộc phải xin Quốc hội cho điều chỉnh (một số) các chỉ tiêu này.

Điều đáng nói trong quy trình trên là việc đưa ra được các con số chỉ tiêu kế hoạch. Khi lập kế hoạch, các cơ quan chức năng của Chính phủ dựa vào các số liệu kinh tế vĩ mô và vi mô hiện tại, và có thể áp dụng một số mô hình kinh tế lượng, để tính toán và đưa ra được một số chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Cũng không hiếm khi các chỉ tiêu kinh tế có yếu tố duy ý chí, định tính, căn cứ vào các nghị quyết và quyết tâm chính trị nhiều hơn là các tính toán khoa học.

Chẳng hạn, có một luồng quan niệm khá phổ biến là tăng trưởng GDP phải đạt khoảng 7%/năm trở lên thì mới “đảm bảo” an sinh xã hội, việc làm và thu hẹp khoảng cách về thu nhập đầu người với các nước láng giềng. Bởi vậy, các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ngắn và trung hạn đều được xây dựng xoay quanh con số này và đã không hiếm khi đẩy nền kinh tế vào trạng thái nóng quá mức vì Ngân hàng Nhà nước buộc phải bơm tiền ra cấp tập còn Chính phủ thì cũng gia tăng vay mượn để “thúc” cho nền kinh tế đạt bằng được tốc độ tăng trưởng “đảm bảo” này.

Vào những thời kỳ khó khăn, người ta hiểu rằng không thể “thúc” nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và nguy hiểm như trên nữa nên buộc phải hạ chỉ tiêu tăng trưởng và một loạt chỉ tiêu khác có liên quan. Điều đáng lưu ý là việc điều chỉnh các chỉ tiêu đôi khi diễn ra dựa trên các phép tính số học đơn giản. Chẳng hạn, tăng trưởng GDP mấy năm trước trong khoảng 6%-7%/năm mà tốc độ tăng trưởng tín dụng đều trên 20%/năm, thậm chí trên 30%, thế nên người ta suy ra rằng để đạt tốc độ tăng trưởng  khoảng 5,5% như 1, 2 năm nay thì tốc độ tăng trưởng tín dụng phải tối thiểu phải đạt khoảng 20%. Nhưng rồi khi người ta nhận ra rằng con số này trở nên cao quá mức thì có cấp có thẩm quyền lại nói rằng tăng trưởng tín dụng phải là 15%, hoặc sau đó sửa xuống nữa còn 12%.

Dù là con số nào chăng nữa nhưng các con số khác nhau, liên tục được điều chỉnh, chứng tỏ 2 điều quan trọng. Thứ nhất, không có một cơ sở chắc chắn nào cho việc hình thành các chỉ tiêu kế hoạch, và việc các chỉ tiêu kế hoạch xa rời thực tế là điều phổ biến hơn, có thể tiên lượng được. Đôi khi, chỉ vì một biến cố ngoại lai bất ngờ xảy đến (ví dụ khủng hoảng tài chính), toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch cho dù trước đó có vẻ rất thực tế lại trở nên phi thực tế. Thứ hai, những nơi phê chuẩn các kế hoạch, như Quốc hội, lại càng không có một cơ sở chắc chắn nào làm chỗ dựa cho các quyết định của mình (duyệt hay không duyệt các chỉ tiêu kế hoạch do Chính phủ trình ra), ít nhất vì Quốc hội không nắm được nhiều thông tin, không có một lực lượng chuyên gia và công cụ trong công tác lập kế hoạch như của Chính phủ.

Trong bối cảnh đều có những bất cập từ cả 2 phía, phía xây dựng và đệ trình các chỉ tiêu kế hoạch (Chính phủ) và phía phê chuẩn các chỉ tiêu kế hoạch (Quốc hội), việc Quốc hội ép, nếu có, Chính phủ phải thực hiện cho được những chỉ tiêu kế hoạch của mình (Chính phủ), và/hoặc việc Chính phủ tự nguyện dốc hết sức, bằng mọi giá thực hiện cho bằng được các chỉ tiêu kế hoạch do chính mình đề ra thường sẽ không mang lại những kết quả thực tế tốt đẹp. Vì khi đó nền kinh tế được điều khiển bằng những “quyết tâm”, “quyết liệt”, “toàn hệ thống chính trị vào cuộc” v.v... chứ không phải bằng những công cụ và chính sách hợp với các quy luật kinh tế thị trường.

Tiếc rằng, nhiều người dường như không thấy được vấn đề và vẫn cứ loay hoay với việc điều chỉnh các chỉ tiêu kế hoạch đang diễn ra, ví dụ như việc xin nới trần thâm hụt ngân sách. Chắc chắn sẽ đến một lúc nào đó người ta sẽ phải nhận ra rằng nếu cứ để những con số vô tri, vô giác và vô nghĩa đó điều khiển mình thì nền kinh tế còn mãi sa lầy trong cái vòng luẩn quẩn bất ổn và tụt hậu.

Saturday 5 October 2013

Chọn mô hình nào cho đại diện chủ sở hữu nhà nước? (Bài đăng trên báo Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=294342

11:12 | 05/10/2013
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ 2 phương án về mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước. Dù chọn phương án nào, thì điều quan trọng là phải khẩn trương cổ phần hóa, tư nhân hóa càng nhiều doanh nghiệp nhà nước càng tốt.
 
Đề án Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được trình và thảo luận tại phiên họp Chính phủ cuối tháng 8.  Đề án đưa ra 2 phương án về mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước. Tại phương án thứ nhất, Chính phủ thành lập Ủy ban Quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước (UBQLGS) làm đầu mối thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước quan trọng, bao gồm cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Còn trong phương án thứ hai, bộ quản lý ngành thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước còn UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích trực thuộc.
 
Được biết, ban đầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiêng về phương án thứ nhất do sẽ giúp khắc phục được những hạn chế của việc chưa tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng đại diện chủ sở hữu và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, sau đó, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng nhìn nhận, phương án thành lập một cơ quan làm đầu mối thực hiện chức năng đại diện đối với toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước là không khả thi do quá tải nghiêm trọng trong quản lý. Và phương án này chỉ có thể thực hiện khi số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm đến mức tối thiểu.
 
Quả thực, phương án thứ nhất có một nhược điểm lớn. UBQLGS này (tạm gọi là UBQLGS cấp 1) chỉ làm đại diện chủ sở hữu nhà nước với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước quan trọng. Với hàng chục nghìn doanh nghiệp khác có vốn nhà nước (gồm cả doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ 100% vốn chủ sở hữu), thì về nguyên tắc sẽ phải lập ra một UBQLGS cấp 2 hay một cơ quan chức năng gì đó nữa để đảm nhiệm vai trò đại diện chủ sở hữu nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước không phải tổng công ty, tập đoàn quan trọng, nếu không muốn để xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc” như trước đây.
 
Việc phải có đến 2 UBQLGS để quản lý các đối tượng khác nhau đương nhiên sẽ dẫn theo sự cồng kềnh và chồng chéo về bộ máy, biên chế phình to, tốn một loạt các chi phí khác để duy trì cho cả 2 bộ máy hoạt động, là điều khó có thể chấp nhận trong bối cảnh hiện nay.
 
Ngoài ra, mới nghe qua thì cái từ “Ủy ban” có vẻ sẽ gọn nhẹ về biên chế và năng động hơn trong việc làm đại diện – là những tiêu chí quan trọng đối với việc thiết kế bộ máy quản lý nhà nước. Tuy vậy, sự thực chắc chắn sẽ khác nhiều. Với việc làm đại diện chỉ ở các tập đoàn, tổng công ty quan trọng của nhà nước thì có thể UBQLGS cấp 1 sẽ có bộ máy biên chế tinh giản, gọn nhẹ hơn. Nhưng với UBQLGS cấp 2 làm đại diện ở hàng vạn doanh nghiệp từ trung ương đến địa phương, thực tiễn chắc chắn sẽ đòi hỏi nó cũng phải được cơ cấu với bộ máy hoạt động cũng lan rộng từ trung ương đến địa phương để nắm sát được tình hình hoạt động có ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà nước ở các doanh nghiệp này.
 
Tóm lại, phương án thứ nhất trên thực tế hoàn toàn có thể vấp phải vấn đề cồng kềnh và kém hiệu quả trong hoạt động của bộ máy đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, chính là điều mà chúng ta đang tìm cách khắc phục.
 
Đối với phương án 2, điểm lợi lớn nhất và dễ thấy nhất là có thể tận dụng được bộ máy quản lý nhà nước hiện thời cho việc quản lý vốn chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, mặt hạn chế lớn nhất, và chính là lý do để chúng ta phải tìm một giải pháp khác, là trong cơ chế này thì chức năng quản lý nhà nước lại bị trộn lẫn với chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước, vì người thực hiện 2 chức năng này là một.
 
Nói cách khác, hiện tại, cả 2 phương án đều có những hạn chế lớn, không thể khắc phục, đòi hỏi phải có một phương án thứ 3. Và trong lúc chờ cho đến khi có sự ra đời của một phương án khả dĩ thì có lẽ phương án 2 vẫn phải là phương án chính, chủ yếu vì nó không mang lại sự xáo trộn lớn cũng như các chi phí tốn kém như trong phương án 1.
 
Nhưng khi thực hiện phương án 2, hoặc kể cả phương án 1, bên cạnh những giải pháp vi mô thường được đề cập như tăng cường năng lực quản lý của các bộ chủ quản, UBND cấp tỉnh, gắn chặt trách nhiệm quản lý với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp v.v..., điều quan trọng là phải khẩn trương cổ phần hóa, tư nhân hóa càng nhiều doanh nghiệp nhà nước càng tốt. Một khi quy mô và số lượng doanh nghiệp nhà nước đã thu hẹp lại đến mức tối thiểu thì việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước còn lại sẽ dễ dàng hơn nhiều và sẽ có nhiều lựa chọn khả thi hơn cho mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước lúc đó. Ngược lại, nếu không nhanh chóng giảm được quy mô và số lượng doanh nghiệp nhà nước thì tình trạng bùng nhùng này sẽ còn kéo dài vì không thể biết nên bắt đầu từ đâu và làm cái gì thì tốt hơn.

Thursday 3 October 2013

Cơ chế điều hành tỷ giá qua thông điệp của Thủ tướng (Bài đăng trên TBKTSG 3/10/2013, bản gốc)

Càng ngày tớ càng thấy nể và có cái nhìn khác về đồng chí X, thỉnh thoảng nói câu nào ra câu đó, bằng cả vài chục buổi phỏng vấn với điều trần của các cơ quan hữu trách. Tớ có vài lần nâng bi đồng chí X trong blog này rồi, nhưng bài này vẫn thấy cần phải nâng thêm lần nữa.
------------------------------


Trả lời phỏng vấn Bloomberg hôm 27/09 tại New York, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết Chính phủ có kế hoạch hạ giá VNĐ tối đa 2% vào cuối năm vì hiện tiền đồng được xem là có định giá cao so với USD.
Đây là một thông điệp ngắn nhưng chứa đựng những nội dung hết sức quan trọng liên quan đến chế độ tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam.

Nếu mới đây không xa, nhiều quan chức hữu trách và chuyên gia còn lên tiếng cho rằng không có áp lực để phá giá (hay điều chỉnh tỷ giá) vì cán cân cung cầu ngoại tệ đang có thuận lợi với dòng ngoại tệ dồi dào đang đổ vào nền kinh tế từ ODA, FDI và kiều hối v.v... Với dự đoán cán cân thanh toán tổng thể sẽ đạt thặng dư dăm tỷ đô la năm nay và lạm phát được kiềm chế ở mức cho phép, theo các quan chức và chuyên gia này thì điều chỉnh tỷ giá thậm chí còn mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Vì thế, họ ủng hộ một sự ổn định tỷ giá, hoặc nếu có “điều chỉnh” thì chỉ ở mức 2%-3% cho cả năm nay, như mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đề ra từ hồi đầu năm.
Điều đáng lưu ý trong quan điểm điều hành tỷ giá nêu trên là tỷ giá được quyết định chủ yếu bởi cung cầu ngoại tệ một cách thụ động. Nếu ngoại tệ đổ vào nền kinh tế dồi dào thì áp lực lên tỷ giá sẽ yếu hoặc không có, vì thế không cần phải phá giá (điều chỉnh tỷ giá tăng lên). Ngược lại, nếu cung ngoại tệ thiếu hụt so với cầu, gây áp lực lên tỷ giá thì NHNN sẽ có khả năng can thiệp giữ ổn định tỷ giá bằng cách tung dự trữ ngoại tệ ra.

Thực tế thời gian 2, 3 năm qua cho thấy với cơ chế quản lý tỷ giá như vậy, được hậu thuẫn bởi một quỹ dự trữ ngoại tệ đã lớn hơn về quy mô, NHNN đã duy trì thành công một tỷ giá tương đối ổn định. Nguồn vốn và ngoại tệ từ nước ngoài càng đổ vào nền kinh tế trong nước càng lớn thì công việc của NHNN xem ra càng dễ dàng vì tiền đồng không hề bị áp lực phá giá, nếu không muốn nói là lên giá. Ngược lại, nếu cung cầu ngoại tệ ở thế bất lợi như mấy năm trước (thiếu hụt ngoại tệ và suy giảm dự trữ ngoại hối), NHNN thường là buộc phải phá giá, mặc dù trước đó có không ít lần cam kết ổn định tỷ giá.
Nhưng cơ chế quản lý tỷ giá nói trên có một nhược điểm lớn. Như đã biết, nếu tỷ giá danh nghĩa tiền đồng/đô la Mỹ ổn định một cách tương đối hoặc tăng ở một tốc độ nhỏ hơn tốc độ tăng của chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ thì tiền đồng được gọi là đã lên giá thực so với đô la Mỹ, mặc dù tiền đồng vẫn mất giá so với đô la Mỹ về mặt danh nghĩa. Khi đó, giá cả các hàng hóa sản xuất trong nước trở nên đắt đỏ hơn một cách tương đối so với hàng ngoại nhập, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa đó sản xuất ở trong nước. Hậu quả là xuất khẩu sẽ giảm sút trong khi nhập khẩu được khuyến khích, dẫn đến nhập siêu và thâm hụt thương mại – một nguồn gốc gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

Có điều, cho đến nay dường như NHNN và các chuyên gia tỏ ra xem nhẹ tác động trái chiều của việc ổn định tỷ giá như trên. Họ luôn nhấn mạnh đến chuyện cung ngoại tệ dồi dào để phủ nhận sự cần thiết phải phá giá (điều chỉnh tỷ giá) để hỗ trợ xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, việc làm. Tuy họ có lúc thừa nhận sự bất lợi của tỷ giá lên xuất khẩu nhưng lại cho rằng có thể dùng các biện pháp khác để thúc đẩy xuất khẩu mà không cần phải phá giá.
Bởi vậy, thông điệp trên của Thủ tướng đã trực tiếp hay gián tiếp nhìn nhận rằng trong công tác điều hành tỷ giá, ngoài chuyện xem xét đến cán cân cung cầu ngoại tệ, điều quan trọng là phải duy trì năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam. Đây có thể nói là một sự thay đổi lập trường chính sách rất đáng hoan nghênh. Với sự cân bằng hơn trong cách điều hành này, tỷ giá sẽ được điều chỉnh không chỉ căn cứ vào cung cầu ngoại tệ mà còn dựa vào sự lên giá thực của tiền đồng so với đô la, và phải chủ động điều chỉnh (phá giá) kể cả khi cán cân cung cầu ngoại tệ không căng thẳng, nếu VND lên giá thực quá nhiều so với USD.

Tuy mức “hạ” giá 2% như Thủ tướng nói vẫn có thể là quá nhỏ so với mức lên giá thực của tiền đồng so với đô la Mỹ do chênh lệch lạm phát của Việt Nam và Mỹ quá lớn, và mức này có thể sẽ phải tăng thêm, tùy theo yêu cầu của thị trường, nhưng trước mắt nó cho thấy đã đến lúc các cơ quan hữu trách của Việt Nam cần phải hoặc thay đổi nhận thức về điều hành tỷ giá, hoặc thay đổi cách họ thuyết trình với công chúng về cơ chế điều hành tỷ giá của mình, trong đó không chỉ có nêu cung cầu ngoại tệ thâm hụt hay thặng dư bao nhiêu mà còn phải cho thấy rõ rằng tỷ giá như vậy có thuận lợi cho xuất khẩu hay không. Việc thay đổi này là bắt buộc để thống nhất với, và theo chỉ đạo điều hành tỷ giá của Thủ tướng chính phủ, đồng thời gây dựng được lòng tin vào chính sách của công chúng.

Tuesday 1 October 2013

Tập làm văn (tập 3)


Hắn không vội kể tiếp chuyện về mái tóc vàng, mắt xanh, và cái mũi Đức Mẹ, mặc kệ mọi người sốt ruột. Hắn đang chìm đắm trong hồi ức về những ngày trước đó, cũng góp phần định hình nên con người hắn như ngày nay, mà tóc vàng chỉ là một phần tác nhân, tuy rất quan trọng.

Thực ra hắn là người khá cầu toàn. Vào đại học một cái là hắn lên kế hoạch học một loạt những cái mà hắn cho là cần thiết, tất nhiên không phải chỉ phục vụ cho chuyện chim gái đâu nhé, hắn nghiêm mặt nhắc nhở các đồng chí. Tập này, hắn chỉ kể về chuyện hắn học võ và hành võ.

Thằng bạn của anh hắn là một võ sĩ Karate hình như từng có tên trong đội tuyển thi đấu quốc gia, đá cả tí Vịnh Xuân. Thế là hắn tuần mấy buổi đấm đá, luyện công ở chỗ thằng anh này. Mục đích đương nhiên không phải là cho khỏe khoắn mà là để có thể táng nhau với những thằng khác nếu có phải vậy. Hắn đã suýt nữa thành chiến sĩ an ninh nhân dân (hehe) khi hắn quyết tâm dự thi Đại học An ninh chỉ vì mấy lần ra đường va chạm bị mấy thằng lớn hơn, gấu hơn bắt nạt. Hắn nghĩ rằng thành công an thì chỉ có hắn bắt nạt được người khác chứ không ai bắt nạt được hắn (quá đúng, các đồng chí nhỉ?), và được học võ miễn phí! Nhưng rủi thay (hay may thay?), khi sơ tuyển, hắn bị loại vì… nhẹ cân, mặc dù thừa chiều cao. Và hắn không thể ngờ được sau này chuyện của hắn lại được mang ra làm giáo trình giảng dạy tại trường an ninh, nơi hắn đã từng mong muốn được vào như thế nào (hehe, các đồng chí cứ từ từ, đâu sẽ có đó)!

Học võ được một thời gian, một hôm thằng anh dạy võ quyết định dẫn cả lớp đi thực tập. Lượn lờ trên Hồ Tây suốt một tiếng đồng hồ mà không tìm ra được đối tượng. Chắc tại ngứa chân quá, thằng anh vớ tạm 2 thằng trọi con, chắc dạng lưu manh vặt đang ngồi ở hàng nước, tặng mỗi thằng một cước vào ngực. Tự nhiên hắn thấy thằng anh lưu manh quá. Cũng là vì một tối hôm khác đi thực tập khác ở hồ Ha Le, xui xẻo vớ đúng hôm gặp phải bọn giang hồ thứ thiệt. Hắn chỉ trang bị một cái khóa xích, mấy thằng trong lớp thì có gì dùng nấy. Đối thủ thì rõ ràng chuyên nghiệp hơn, với đồ lề đầy đủ. Tự nhiên hôm đó thằng anh dạy võ lại… hiền đột xuất. Dàn xếp thế nào đó mà 2 bên mới chỉ dàn quân hầm hè nhau, chưa xông vào nhau. Đột nhiên hắn thấy tối tăm mặt mũi, ngã bật ngửa ra đằng sau. Hóa ra, cả một hòn gạch củ đậu bay vèo từ tay một nghệ nhân ném bóng chày vô danh nào đó trong bóng tối lao đúng vào mõm hắn. Chỉ thấy lạo xạo trong miệng và vị máu, máu loang bên trong và máu chảy bên ngoài.

Chưa biết ai là tác giả của cú ném thiện nghệ, hắn điên lên lao vào thằng gần nhất thì nó nhanh chân té mất vào bóng tối. Vừa đau, vừa ngán bóng tối vốn rất thân thiện với những anh hùng núp như thằng tác giả của cú ném nên hắn quay lại tìm đồng bọn vẫn đang lơ ngơ tại chỗ, kể cả thằng anh dạy võ (thế mới khốn!).

Vụ đó hắn phải một thân một mình mò vào Xanh Pôn, nôn tiền ra trước rồi mới được đồng chí y tá tỏ lòng nhân từ khâu cho dăm mũi nơi khóe miệng. Kiểm tra tài sản cá nhân hắn thấy vơi mất nửa chiếc răng nanh. Tự thấy mình còn may vì viên gạch vẫn còn thương hắn mà không bay quá lên dăm phân nữa thì khéo hắn có nick mới là đồng chí X chột, hoặc giang hồ hơn chút là đồng chí X độc nhãn, chứ chẳng chơi.

Lâu sau này, khi mới ra trường được vài tháng, hắn đòi lại được hẳn nguyên một cái răng cửa từ mõm của một thằng quân khu khác nhà gần đường tầu trên đường Điện Biên Phủ. Hôm đó, hắn đang trên đường đến trung tâm ngoại ngữ, nhưng lần này là để dạy chứ không phải học (thay cho một đồng chí thân mến hắn), thì va phải 2 thằng quân khu mặc đồ dõng, đi xe máy. Hắn điếc không sợ súng, hình như còn gây sự trước với 2 thằng này. Thế là 2 thằng quẳng luôn xe máy xáp vô quần hắn. Nhưng chúng là quân khu thôi chứ không biết đấm đá ra hồn, nên hắn chơi cả 2 thằng tay bo một cách dễ dàng với một thằng sau này ở đồn công an khai rằng bị mất một chiếc răng cửa. Điên quá, 2 thằng dở đúng bản chất quân khu, một thằng cầm chai xăng bên đường, đập vỡ rồi lao vào gã, còn thằng kia thì giật lấy chiếc đòn gánh của bà bán rong bên đường. Hắn thấy sượt và nhói một phát bên mạng sườn. Nhắm tình thế tay không không lại được với bọn này, rất tỉnh táo, nhớ ra rằng chỗ này không xa chốt công an giao thông ở ngã năm (sáu?) Điện Biên Phủ, Hai Bà Trưng nên hắn vừa đánh, vừa rút chạy về hướng hắn nghĩ có công an.

Quả đúng như hắn tính, hắn nghe thấy còi huýt và một anh công an giao thông chạy tới. Chắc nhìn cái là biết ngay hắn là nạn nhân (hehe) nên anh công an rất tử tế tóm luôn một trong hai thằng quân khu. Còn mấy anh khác thì ra chỗ đánh nhau ban đầu tạm giữ hiện vật là xe máy và xe cuốc, giải về đồn công an phường, đâu như đầu đường Hai Bà Trưng thì phải.

Kết quả của vụ việc là hắn ăn vạ được một số tiền dư ra sau khi khai mất một số tài sản cá nhân, trong đó có một cái đồng hồ Rado bán ở chợ Đồng Xuân mà khi nghe hắn tả, anh cảnh sát phường nói thật, tao chưa nghe thấy có cái loại đồng hồ nào như thế! Tất nhiên là 2 chàng quân khu cũng phải đền bù tiền thuốc men cho hắn về cái vụ mạng sườn của hắn bị cào rách một miếng (lại may phúc tổ rằng nó không đi chệch hướng, chỉ để lại vết sẹo khâu vá chừng dăm phân, hình như cũng vẫn ở Xanh Pôn,thế mới khốn). Và đương nhiên là cả cái áo rách cũng được tính vào chi phí của hắn.

Nhưng đúng là lỗ hà ra lỗ hổng, mấy anh công an phường tự nhiên tỏ ra rất nhiệt tình trong việc bắt nhà 2 thằng kia bồi thường cho hắn trước khi chuộc được cái xe máy ra, để rồi lúc bọn kia về, mấy anh ngọt nhạt tỏ ý chia lộc (hehe). Thế là hôm lấy được tiền bồi thường, hắn phải cùng mấy anh công an phường ra quán bia gần đó, gọi bia cho mấy anh giải khát (còn hắn uống nước chè, làm mấy anh động lòng hỏi sao mày không uống cái gì đi?), rồi rút tiền trao cho các anh với lời cảm ơn chân thành nhất từ đáy lòng. Kể cũng chó thật, giá mấy anh này là mấy anh cảnh sát giao thông cứu hắn thì dù có cho cả, hắn cũng không tiếc. Tự nhiên, kể đến đây, hắn bảo muốn đ.m chúng nó quá, mặc dù chuyện đã xảy ra cả 2 chục năm có lẻ. Đ.m, đúng là đời hắn có nhiều duyên nợ với các anh công an các loại thật, mà thư thư hắn sẽ kể hết cho các đồng chí nghe.

(Còn tiếp, các đồng chí đón đọc nhé)

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).