Thursday 16 February 2017

Bàn thêm về Thông tư 39 (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 16/2/2017, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/ban-them-ve-thong-tu-39/1102753/

Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 39 Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, có hiệu lực thi hành từ 15/3/2017. Thông tư 39 có một số điều khoản bất hợp lý như dưới đây mà NHNN có thể cần thiết phải xem xét, sửa đổi cho phù hợp trước ngày Thông tư này có hiệu lực.

Điều 6, về sử dụng ngôn ngữ, Thông tư 39 quy định thỏa thuận cho vay được lập bằng tiếng Việt hoặc đồng thời bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, điều khoản này là bất hợp lý nếu cả khách hàng và ngân hàng cho vay đều là nước ngoài. Trong trường hợp này, quy định thỏa thuận cho vay phải bằng tiếng Việt không những là thừa mà còn là một trở ngại không đáng có cho việc vay vốn tương ứng.

Điều 7 quy định khách hàng phải có phương án sử dụng vốn khả thi. Quy định này có thể là hợp lý nếu khách hàng là, ví dụ, doanh nghiệp vay vốn để sản xuất kinh doanh. Nhưng sẽ là bất hợp lý, hoặc trở nên thừa, nếu khoản vay chỉ là để cho những mục đích như tiêu dùng, là cái mà không thể nói/yêu cầu phải có phương án sử dụng vốn “khả thi”.  
Điều 8 quy định về những nhu cầu vốn không được cho vay, trong đó có nhu cầu để trả nợ khoản nợ vay tại chính tổ chức tín dụng cho vay. Có một nghiệp vụ cho vay thông dụng trên thực tế là vay để đảo nợ. Chẳng hạn, khi khách hàng mở một tài khoản thẻ tín dụng với ngân hàng và được ngân hàng cấp cho một hạn mức tín dụng cụ thể nào đó. Khách hàng có thể vay nhiều lần trong hạn mức này dưới một số hình thức, ví dụ như chuyển số dư (balance transfer), trong thời hạn 6 tháng. Giả sử hạn mức này là 100 triệu đồng, khách hàng trong lần vay thứ nhất chỉ vay 50 triệu đồng trong 6 tháng, thì người này vẫn có thể được ngân hàng cho vay thêm 50 triệu đồng trong lần vay thứ hai (với mục đích tùy ý, mà có thể là để trả nợ lần vay đầu tiên). Nay, nếu Thông tư 39 quy định không được cho vay để trả nợ khoản nợ vay tại chính tổ chức tín dụng cho vay thì điều khoản này hoặc là thừa hoặc là không thực tế. Dù có hay không điều 9 này thì cả ngân hàng và khách hàng đều không thể hiện trên giấy tờ mục đích của lần vay thứ hai là đảo nợ, dù thực tế là vậy, và việc cho vay kiểu này không thể bị “xử lý” bằng pháp luật được, trừ khi cấm mọi hình thức cho vay nhiều lần cho cùng một khách hàng.
Cũng tại điều 8, nhu cầu vay để trả nợ khoản nợ vay tại tổ chức tín dụng khác và trả nợ khoản vay nước ngoài cũng bị cấm. Điều này cũng là bất hợp lý với những khoản vay để, ví dụ, tất toán một hợp đồng vay vốn mua bất động sản với một ngân hàng bằng khoản vay mới cho cùng mục đích tại một ngân hàng khác, khi người vay thấy ngân hàng khác cho vay với các điều khoản và điều kiện dễ chịu hơn. Đây là một giao dịch vay vốn rất phổ thông ở nước ngoài nên nếu bị cấm thì có nghĩa là cả người vay và ngân hàng đã bị tước đi những lợi ích tiềm năng, trong khi sự cạnh tranh trên thị trường lại bị hạn chế. Trên hết, dù có bị cấm thì mục đích cho vay này vẫn có thể thực hiện được mà không thể bị phát hiện hay “xử lý” được khi mà việc vay vốn trên giấy tờ là để cho mục đích tiêu dùng, trong khi mục đích thực tế là để trả khoản vay tại một ngân hàng khác.

Khoản 2, điều 13 quy định về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn cho nông nghiệp, nông thôn; sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu; kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; công nghiệp hỗ trợ; và kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Điều khoản trên liệu có là cần thiết khi chỉ quy định khống chế mức trần lãi suất ngắn hạn cho những khoản cho vay mà thường là trung và dài hạn như trên? Quan trọng hơn, điều khoản trên (và những điều khoản khác trong Thông tư 39) không đề cập thêm về quyền lợi của tổ chức tín dụng sẽ được hưởng khi phải cho vay trong giới hạn trần lãi suất thường là thấp hơn thị trường, gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng. Nếu không cho tổ chức tín dụng được hưởng những quyền lợi nào đó, ví dụ, được vay NHNN với lãi suất ưu đãi, thì hoặc là điều khoản này là duy ý chí, đi ngược nguyên tắc thị trường (và vì thế không thể có hiệu lực được), hoặc là các tổ chức tín dụng sẽ chủ động giảm thiểu cho vay trong những lĩnh vực này (vì không có lợi bằng cho vay trong những lĩnh vực khác), tức là cũng đi ngược với chủ trương và mong muốn của NHNN.

Khoản 4, điều 13 quy định trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả. Thực tế với nhiều khoản vay thì lãi chậm trả không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả là quá thấp, thấp hơn cả lãi suất cho vay thông thường trong một số khoản vay, và điều này sẽ khuyến khích người vay trì hoãn trả nợ và lãi đúng hạn. Bởi vậy, điều khoản này cần thiết phải sửa đổi cho phù hợp hơn.
Cũng khoản 4, điều 13 quy định, trong trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Có thể nó luôn rằng mức lãi suất phạt bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn này là quá “mềm” so với lãi suất áp dụng cho các khoản vay chi tiêu qua thẻ tín dụng lên đến trên 20%/năm, gây thiệt hại một cách bất công cho các tổ chức tín dụng, khi lãi suất vay trong hạn chỉ là, ví dụ, 10%/năm.

Điều 14 quy định về các loại phí liên quan đến các hoạt động cho vay, nhưng không thấy đề cập đến những loại phí khác, ví dụ phí thay cho lãi suất. Chẳng hạn, có một số khoản vay ngắn hạn, thay vì đưa ra một lãi suất nào đó, ngân hàng lại chào một khoản phí một lần, gọi là phí xử lý khoản vay, theo một tỷ lệ nào đó tính trên số dư cho vay. Không rõ những loại phí tương tự kiểu này có được đề cập ở một văn bản quy phạm pháp luật liên quan nào đó như nêu trong điều 14 này hay không.
Điều 16 về cung cấp thông tin, có quy định khách vay phải báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử dụng đúng mục đích ghi trong thỏa thuận cho vay. Tuy nhiên, điều này là không cần thiết hoặc quá trói buộc với những khoản vay, ví dụ, tiêu dùng.

Điều 23 quy định thỏa thuận cho vay phải được lập thành văn bản. Quy định này là lỗi thời và/hoặc quá trói buộc với một số loại hình cho vay mà hoàn toàn có thể thực hiện thông qua điện thoại có ghi âm sau khi ngân hàng đã tiến hành các bước cần thiết để xác định/nhận danh tính người vay, và giải thích đầy đủ cho người vay các điều kiện và điều khoản cho vay, cũng trên điện thoại, có xác nhận (là đã hiểu) bằng lời của người vay. Ở nước ngoài, những khoản vay cá nhân lên tới hàng trăm nghìn đô la vẫn được thực hiện qua hình thức gọi điện này mà không cần phải có bất cứ một văn bản nào. Nói cách khác, quy định này cần phải để mở hơn.
Điều 24 quy định khách hàng phải báo cáo và cung cấp tài liệu chứng minh việc sử dụng vốn vay theo yêu cầu của tổ chức tín dụng. Điều này không phải là luôn cần thiết với những khoản vay tiêu dùng như đã lấy ví dụ ở trên. Với những khoản vay này nếu bắt buộc ngân hàng phải yêu cầu và khách hàng phải chứng minh việc sử dụng vốn thì đây là một điều trói buộc không cần thiết. 
 

Tỷ giá tăng là phù hợp trên mọi lẽ (Bài đăng trên CafeF, 16/2/2017, bản gốc)

 http://cafef.vn/ty-gia-tang-la-phu-hop-tren-moi-le-20170216101403094.chn

 Tuần này đã chứng kiến sự tăng mạnh của tỉ giá VND/USD trong hệ thống ngân hàng với mức tăng hàng trăm đồng và đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Sự gia tăng này có thể là điều khó hiểu với một số người nếu cứ xét theo những yếu tố “thuận lợi” ủng hộ sự ổn định tỉ giá vẫn được viện dẫn đến từ trước đến nay như cán cân cung cầu ngoại tệ không có đột biến, nguồn cung USD vẫn dồi dào do FDI vẫn khả quan và có thặng dư thương mại, đã qua mùa cao điểm thanh toán cuối năm thường làm tăng cầu USD v.v…

Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn những biến động các yếu tố cơ bản trong ngắn và trung hạn thời gian qua thì sẽ thấy sự gia tăng tỉ giá như hiện nay không chỉ là kết quả tất yếu của những yếu tố thị trường khách quan mà còn phù hợp ngay với những định hướng chính sách của Chính phủ nói chung và Ngân hàng Nhà nước (NHNNN) nói riêng.

Trước tiên, xét về yếu tố thị trường khách quan, phải kể đến sự lên giá đáng kể của đồng USD trong nửa tháng qua, bắt đầu đi lên từ mức 99,512 ngày 31/1 và tăng một mạch lên mức 101,24 ngày 15/2 là mức cao nhất trong hơn một tháng qua (Biểu 1). Như vậy, USD đã lên giá 1,7% so với rổ các đồng tiền chủ chốt dùng để xác định chỉ số dollar.

Trong khi đó, như ở Biểu 2 cho thấy, tỉ giá VND/USD cũng có xu hướng đi lên khá rõ rệt trong cả 1 tháng qua, trừ một số ngày chững lại và/hoặc giảm nhẹ. Nếu xét trong cùng kỳ từ ngày 31/1 đến 15/2 thì tỉ giá VND đã tăng 0,6%, từ mức tương ứng là 22,643 lên 22,773. Trong bối cảnh có sự mạnh lên của USD, và tương ứng với đó là sự yếu đi tương đối của các đồng tiền chính trên thế giới, việc VND mất giá so với USD là điều gần như tất yếu, tuy sự mất giá của VND vẫn còn khá khiêm tốn so với mức mất giá chung của các đồng tiền khác (tương ứng là 0,6% so với 1,7%), và điều này có được chính là nhờ việc đồng USD vẫn có mặt bên cạnh các đồng tiền chủ chốt khác trong rổ các đồng tiền để NHNN làm một cơ sở xác định tỉ giá trung tâm và điều hành tỉ giá.  

Chuyển sang yếu tố định hướng chính sách của Chính phủ và NHNN. Trong năm 2017 Chính phủ yêu cầu NHNN kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần tăng trưởng kinh tế hợp lý; điều hành tỉ giá hợp lý, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước.
Trong yêu cầu và định hướng trên, rõ ràng lạm phát được xác định là mục tiêu số 1. Ổn định tỉ giá như các năm trước đã không còn được đặt ra, thay vào dó là để cho tỉ giá diễn biến “phù hợp” với các yếu tố trong và ngoài nước. Ý nghĩa của định hướng này là NHNN có nhiều dư địa chính sách hơn với tỉ giá, có thể để biến số này biến động nếu thực tiễn đòi hỏi phải vậy.
Quay trở lại với diễn biến tỉ giá gần đây. Lạm phát có dấu hiệu tăng mạnh tháng 1 như là kết quả của việc NHNN đã bơm mạnh thanh khoản trước Tết (một phần thông qua việc mua vào hàng tỉ USD trong tháng 1). Để giảm áp lực lạm phát, NHNN gần đây hơn đã phải liên tục hút bớt thanh khoản qua thị trường mở OMO. Nhưng điều này lại dẫn đến một kết quả không mong muốn là làm gia tăng áp lực lên lãi suất, gây khó khăn cho việc vay vốn với lãi suất thấp hơn của doanh nghiệp, đi ngược lại với yêu cầu của Chính phủ với NHNN là điều hành chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng.
 
Để tránh tình trạng tiến thoái lưỡng nan trên, NHNN buộc phải chuyển sang hỗ trợ tăng trưởng thông qua kênh tỉ giá, tức là để VND yếu đi so với USD qua đó kích thích xuất khẩu để bù đắp tác động tiêu cực của việc thắt chặt hơn cung tiền làm tăng áp lực lên lãi suất.    

Lưu ý rằng việc nới lỏng tỉ giá vẫn có thể thực hiện được trong bối cảnh NHNN đã chủ động thắt chặt lại hơn cung tiền thông qua việc ngừng bán hoặc bán USD với giá cao hơn nhằm đẩy tỉ giá lên. Và việc để tỉ giá biến động đi lên như vừa qua cũng hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách quan là USD đã mạnh lên so với các đồng tiền khác, đúng như chỉ đạo của Chính phủ. Chủ trương nới lỏng tỉ giá này của NHNN cũng được thể hiện rõ qua sự biến động đáng kể theo hướng đi lên của tỉ giá trung tâm mấy ngày gần đây.
Cũng lưu ý thêm rằng việc VND mới chỉ mất giá vừa phải so với USD trong khi các đồng tiền chủ chốt khác mất giá nhiều hơn cho thấy thực ra VND đã lên giá so với các đồng tiền chủ chốt nói chung, và , do đó, đã có tác động tiêu cực lên xuất khẩu của Việt Nam. Như thế có nghĩa là vẫn còn nhiều áp lực làm VND suy yếu đáng kể hơn nữa để tỉ giá thực sự hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu, nhất là nếu USD tiếp tục xu hướng lên giá so với các đồng tiền khác trong những tuần tới.

Tóm lại, trong bối cảnh có sự thay đổi trật tự ưu tiên các mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ và những diến biến bất lợi trong và ngoài nước, việc tỉ giá VND/USD có xu hướng đi lên là tất yếu và sẽ còn tiếp tục nếu những diễn biến bất lợi này tiếp tục kéo dài trong thời gian tới.   


Monday 13 February 2017

Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng và xử lý nợ xấu: Muộn còn hơn không! (Bài đăng trên TBKTSG, 13/2/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/156707/Luat-Ho-tro-tai-co-cau-cac-ngan-hang-va-xu-ly-no-xau-Muon-con-hon-khong.html


Phát biểu tại hội nghị triển khai kế hoạch năm 2017 của VietinBank diễn ra ngày 9-1-2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Minh Hưng cho biết cần có khuôn khổ pháp lý để xử lý nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng. NHNN sẽ phối hợp để xây dựng luật tạm gọi là Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng và xử lý nợ xấu.
Theo đó, những vấn đề về xử lý các ngân hàng trong diện tái cơ cấu chưa có quy định của luật thì sẽ được luật hóa để có hành lang pháp lý rõ ràng, có công cụ để hệ thống ngân hàng thuận lợi trong việc thực hiện đề án tái cơ cấu. Về xử lý nợ xấu, những vướng mắc tồn tại trong quy định pháp luật, ví dụ, các quy định liên quan đến thu giữ tài sản đảm bảo để đảm bảo quyền lợi của người cho vay, cũng sẽ được đưa vào luật để tháo gỡ các khó khăn khi xử lý nợ xấu. Về xử lý sở hữu chéo, sẽ đưa vào luật những quy định chặt chẽ hơn để hạn chế thao túng, sử dụng ngân hàng nhằm mang lại lợi ích cho công ty sân sau.
Đã và sẽ rất cần thiết
Có thể nói ngay rằng xây dựng và ban hành một luật như trên là một điều rất cần thiết, lẽ ra đã phải làm ngay trước khi NHNN thực hiện những động thái liên quan đến tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mua lại bắt buộc các ngân hàng thương mại (NHTM) với giá 0 đồng, và xử lý nợ xấu mà chủ yếu thông qua việc cho ra đời Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), hay “tạm” trích lập dự phòng, từ mà ông Hưng nêu ra trong hội nghị.


Vì sự thiếu vắng những cơ sở pháp lý như vậy mà dư luận tỏ ra không hoàn toàn thông suốt với những hành động mạnh tay xử lý các vấn đề tồn tại trong hệ thống ngân hàng như việc NHNN mua lại bắt buộc các NHTM với giá 0 đồng mà không cần sự đồng ý của các cổ đông hiện hữu, hay việc VAMC loay hoay với “đống” nợ xấu mua về khó xử lý vì các quyền hạn của ngân hàng với tư cách chủ nợ liên quan đến tài sản bảo đảm chưa được pháp luật đảm bảo…
Nên có những nội dung cụ thể nào?


Tuy NHNN không hé mở những nội dung, điều khoản cụ thể trong luật mà mình đề xuất nhưng căn cứ vào những động thái và phát biểu gần đây của các quan chức NHNN thì rất có thể sẽ có những nội dung được luật hóa liên quan đến việc các NHTM lớn, có vốn nhà nước, như Vietcombank, VietinBank và BIDV, tự nguyện hay được hoặc bị NHNN chỉ định tham gia tái cơ cấu các ngân hàng 0 đồng và các NHTM cổ phần thuộc dạng yếu kém khác. Những nội dung này có thể là quyền lợi, nghĩa vụ của các NHTM lớn này, sự ưu đãi từ cơ chế để đổi lấy việc tự nguyện hay chấp nhận tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, cơ chế để xử lý, giảm thiểu các hậu quả và thiệt hại mang lại cho các NHTM có vốn nhà nước này sau khi tham gia tái cơ cấu.


Có một nội dung quan trọng mà nếu không được luật hóa thì sẽ là một thiếu sót lớn. Các NHTM lớn trên tuy có vốn nhà nước nhưng về nguyên tắc vẫn là các ngân hàng cổ phần, có các cổ đông tư nhân. Dù luật đề xuất nói trên có thể có các điều khoản bảo đảm lợi ích khi các ngân hàng này tham gia tái cơ cấu nhưng điều này không có nghĩa là tất cả cổ đông của các ngân hàng này đều sẽ “vui vẻ” đồng thuận tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém khác. Tất nhiên là cổ đông nhà nước mà đại diện là NHNN có thể lấy tư cách là cổ đông chi phối để loại bỏ sự phản đối của các cổ đông khác, nhất là những cổ đông nhỏ, lẻ. Nhưng sự lấn lướt này sẽ tạo ra thêm những bất đồng, những tiền lệ không hay cho mô hình hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Bởi vậy, luật đề xuất nói trên nên có thêm những điều khoản mở rộng quyền của các cổ đông nhỏ, lẻ, không chi phối trong việc quyết định có tham gia hay không việc tái cơ cấu các ngân hàng khác, chẳng hạn bằng việc nâng cao tỷ lệ bỏ phiếu chấp thuận trong hội nghị cổ đông.

Ngoài ra, nếu lấy lý do nguồn lực trong nước hạn chế, chuyện bán cổ phần cho nước ngoài còn nhiều rào cản… để cho rằng việc tái cơ cấu các NHTM yếu kém nhất thiết phải có sự tham gia của các NHTM có vốn nhà nước thì sẽ chưa thuyết phục.


Không nói đâu xa, Chính phủ đang có chủ trương huy động vàng trong dân để phát triển kinh tế. Nói điều này để cho thấy nguồn lực trong nước vẫn còn rất nhiều tiềm năng và điều thiếu vắng chỉ là cơ chế phù hợp để huy động nguồn lực này, kể cả vào việc tái cơ cấu các ngân hàng. Một trong những cách có thể thực hiện được là song song với việc ghi giảm giá trị sổ sách các khoản nợ xấu (nhất là các khoản nợ xấu ít có khả năng thu hồi) của mình, các ngân hàng yếu kém tiến hành chứng khoán hóa các khoản nợ xấu đỡ “xấu” hơn dưới sự bảo lãnh của Chính phủ (có thu phí), và có thể dùng các chứng khoán này làm tài sản thế chấp cho các giao dịch khác. Đây là một cách làm được áp dụng ở nhiều nơi, mà điển hình mới đây nhất là sự tái cơ cấu ngân hàng Popolare di Mari ở Ý.


Đồng thời, chuyện bán cổ phần cho nước ngoài còn nhiều rào cản hoàn toàn có thể khắc phục được cũng chính bằng luật hóa, hoặc sửa đổi luật hiện tại để loại bỏ những rào cản này, làm cho nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia thuận lợi vào việc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, một lĩnh vực chắc chắn cũng rất hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư ngoại mà vướng mắc chỉ là rào cản pháp lý. Không sửa những bất cập trong luật hiện hành mà chỉ chăm chăm nghĩ đến ban hành một luật mới làm lối thoát trong cùng một lĩnh vực là điều khó hiểu, khó chấp nhận được. Nếu lo ngại sự tham gia ngày càng tăng của nhà đầu tư ngoại vào hệ thống ngân hàng Việt Nam thì cần nhớ rằng ngay các NHTM có vốn nhà nước cũng có cổ đông (không nhỏ) là các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài!

Thursday 2 February 2017

Quản trị rủi ro ngân hàng: Kỳ vọng vào Basel III, IFRS 9 (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, 2/2/2017, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.doanhnhansaigon.vn/tai-chinh-chung-khoan/quan-tri-rui-ro-ngan-hang-ky-vong-vao-basel-iii-ifrs-9/1102410/

Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007-2008, nhiều nước trên thế giới đã rút ra được những bài học cần thiết và bắt đầu thực thi nhiều luật lệ, quy định mới nhằm củng cố sức khỏe hệ thống tài chính của mình để đề phòng những cuộc khủng hoảng tương tự có khả năng nổ ra sau này.
Thế giới đang thay đổi
Hai trong số những quy định tài chính mới và quan trọng nhất được đề xuất áp dụng năm 2018 là tỷ lệ đòn bảy của các ngân hàng thương mại quy định bởi Ủy ban Basel về Giám sát tài chính và nằm trong bộ tiêu chuẩn giám sát tài chính mới là Basel III, và IFRS 9 (Tiêu chuẩn Báo cáo Tài chính Số 9) được quy định bởi Ủy ban Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế. Những quy định khác trong Basel III yêu cầu các ngân hàng thương mại ngừng sử dụng các thước đo nội bộ để đánh giá rủi ro sẽ được áp dụng từ năm 2017.
Basel III được đề xuất nhằm giảm sự tùy tiện của các ngân hàng, tuy là đúng luật, trong việc hạch toán rủi ro. Theo quy định mới có hiệu lực đầu năm 2017, các ngân hàng thương mại sẽ không còn được phép sử dụng các mô hình đánh giá rủi ro nội bộ để đánh giá rủi ro của các đối tác và khách hàng của họ. Từ năm 2018, quy định mới này sẽ được áp dụng mở rộng ra cả việc chứng khoán hóa. Trong những năm sau đó, các ngân hàng sẽ phải đánh giá các khách hàng vay vốn của họ dựa trên các tiêu chuẩn đề xuất bởi Ủy ban Basel.
Trong khi đó, IFRS 9 thay thế cho phiên bản trước đó là IAS 39. IFRS gồm 3 chủ đề: phân loại và đo lường các công cụ tài chính, ghi nhận sớm tổn thất kỳ vọng cho các tài sản tài chính, và hạch toán phòng ngửa rủi ro.
Các quy định mới sẽ tác động mạnh đến các ngân hàng
Dù chưa có hiệu lực ngay trong năm 2017 này nhưng Basel III hiện đang bị phê phán là đã làm giảm mức độ thanh khoản toàn cầu và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Nên khi nó chính thức có hiệu lực đầu năm 2018 thì tác động của nó sẽ còn được lớn hơn thế nhiều. Khi được thực thi, những luật lệ này được cho là sẽ bóp nghẹt hơn nữa việc cho vay của các ngân hàng thương mại, buộc các ngân hàng thương mại có xu hướng chỉ cho vay những doanh nghiệp tốt nhất. Và như thế có nghĩa là có thể sẽ làm gia tăng “dịch” phá sản trên toàn cầu vì nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay ngân hàng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa, cũng giống nhiều quy định tài chính khác trước đây, tác động của những luật lệ mới về tài chính sẽ đến sớm hơn là ngày chúng có hiệu lực. Có nghĩa là ngay trong năm mới 2017 này các luật lệ tài chính mới đã bắt đầu tác động đến các chủ thể trong nền kinh tế mặc dù ngày có hiệu lực của chúng là đầu năm 2018. 

Còn với việc thực thi IFRS 9, thì theo nhiều chuyên gia phân tích tín dụng, nó sẽ làm tăng nợ xấu tại một số ngân hàng thêm lên ít nhất 1/3. Vì khi nợ xấu, hay sự ghi nhận chúng, tăng lên, các ngân hàng sẽ phải tăng vốn chủ sở hữu lên tương ứng. Nói cách khác, các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn kém hơn khi cho vay khách hàng.
Theo các quy định mới ở trên, với khác hàng là các doanh nghiệp có doanh thu cao hơn và tỷ lệ đòn bảy thấp hơn thì các ngân hàng thương mại sẽ cần ít vốn chủ sở hữu hơn (vì doanh nghiệp khách hàng của họ ít rủi ro hơn). Như vậy, các ngân hàng thương mại có động cơ chỉ cho vay các doanh nghiệp lớn nhất, cạnh tranh nhất (và tức là có doanh thu và lợi nhuận cao nhất), để giảm thiểu rủi ro. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp nhỏ hơn sẽ có rất ít cơ hội được vay vốn để phát triển.        
Việt Nam đi chậm hơn
Khác với thế giới đang tiến lên Basel III, ở Việt Nam bắt đầu từ tháng 2/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới chỉ định 10 ngân hàng thương mại, gồm BIDV, VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và VIB, thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II, “người tiền nhiệm” của Basel III.
Basel II có 3 trụ cột: yêu cầu về vốn tối thiểu, giám sát tuân thủ, và kỷ luật thị trường. Basel III cũng 3 trụ cột như trên, nhưng có thêm chữ “tăng cường”, có nghĩa là các tiêu chuẩn của Basel III sẽ cao hơn của Basel II. Ví dụ, về yêu cầu vốn tối thiểu, Basel III yêu cầu các ngân hàng phải duy trì một lượng vốn tối thiểu là 4,5% của tổng tài sản (tính theo trọng số rủi ro) từ cổ phiếu phổ thông, so với mức 2% trong Basel II. 
Khác biệt lớn khác là về phương pháp ước tính rủi ro tín dụng. Basel II khuyến khích các ngân hàng tự phát triển và áp dụng phương pháp đánh giá tín dụng nội bộ (IRB) để xác định lượng vốn tối thiểu ngân hàng cần phải nắm giữ đối với mỗi một khoản cho vay. Tại mỗi ngân hàng thương mại áp dụng Basel II, IRB được xây dựng dựa trên sự ước tính rủi ro tín dụng của mỗi khoản cho vay.

Trong khi đó, như đã nói ở trên, từ đầu năm 2017 thế giới sẽ thực thi quy định mới không cho phép các ngân hàng thương mại sử dụng các mô hình đánh giá rủi ro nội bộ để đánh giá rủi ro của các đối tác và khách hàng của họ. Lý do là, như trong một nghiên cứu của Ủy ban Basel về Giám sát tài chính năm 2013 cho thấy, cùng một tài sản nhưng mỗi ngân hàng lại áp dụng một trọng số khác nhau, nhiều khi chênh lệch nhau đến 20%, để tính rủi ro tín dụng chung (bình quân gia quyền) của ngân hàng đó (cho tất cả các tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ), dẫn đến kết quả tính toán rủi ro tín dụng không nhất thiết phản ảnh đúng bàn chất rủi ro của các tài sản mà các ngân hàng đang nắm giữ.

Giảm thiểu tác động bất lợi
Tuy là một phiên bản cũ nhưng việc thự thi Basel II cũng đã và sẽ khá khó khăn và chật vật ở Việt Nam vì nhiều nguyên nhân. Trước tiên, Basel II đòi hỏi quốc gia áp dụng phải có một hệ thống tài chính phát triển và mạnh, vì sự áp dụng sớm Basel II ở những nước có nguồn lực hạn chế sẽ làm phân tán các nguồn lực dành cho các ưu tiên cấp bách, làm loãng thay vì củng cố sự giám sát rủi ro tài chính. Tiếp đó, áp dụng thành công Basel II đòi hỏi phải có số liệu chính xác, đáng tin cậy và kịp thời. Nếu rủi ro không được tính toán, hay bị phóng đại hoặc bị tính thấp đi có thể làm vô hiệu hóa tác dụng tích cực của Basel II. Ngoài ra, việc thiếu vắng đội ngũ chuyên gia phân tích rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại, cũng như chi phí tốn kém để áp dụng Basel II cũng là những trở ngại cho việc thực thi các tiêu chuẩn của Basel II ở Việt Nam.

Do đó, việc thực thi Basell II ở Việt Nam có thể được nhìn nhận như một bước tập dượt cho Basel III, phiên bản cao hơn và đòi hỏi nhiều hơn so với Basel II. Tuy vậy, cũng giống như Basel III và những luật lệ mới được áp dụng từ năm 2017, Basel II cũng sẽ sự phân biệt giữa các đối tượng cho vay là doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ hơn vì doanh nghiệp nhỏ hơn thường được xem là có độ rủi ro cao hơn các doanh nghiệp lớn, và, do đó, đòi hỏi các ngân hàng phải có nhiều vốn hơn. Nếu không có các biện pháp khắc phục phù hợp thì nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ không thể tiếp cận được vốn ngân hàng. Việc xây dựng các quỹ bảo lãnh tín dụng hay giải quyết các vấn đề về tài sản thế chấp vay vốn là một trong những biện pháp như vậy, tuy chỉ có tác dụng hạn chế. Bởi vì, ví dụ, quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ có thể ở quy mô nhỏ do hạn chế về nguồn vốn, trong khi việc phân tích, đánh giá rủi ro để ra quyết định bảo lãnh của các quỹ này thường không thể tốt bằng các ngân hàng thương mại nên dễ dẫn đến khả năng “cụt vốn” khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ được bảo lãnh vay vốn mất khả năng thanh toán.   
Bên cạnh đó, việc để cho các ngân hàng thương mại áp dụng sử dụng các mô hình đánh giá rủi ro nội bộ để đánh giá rủi ro của các đối tác và khách hàng của họ theo quy định của Basel II cũng là điều cần được xem xét và điều chỉnh. Bởi chính vì quy định lỏng lẻo này đã góp phần làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 và Basell III được ra đời để khắc phục bất cập này. Do đó, để tránh những bất ổn và đổ vỡ trong hệ thống ngân hàng, song song với việc thực thi nhiều quy định trong Basel II, Việt Nam cần thiết phải thống nhất và áp dụng một mô hình đánh giá rủi ro chung, có thể dựa trên những tiêu chuẩn mà Ủy ban Basel đưa ra, cho tất cả các ngân hàng thương mại để tránh tình trạng các rủi ro không được lượng hóa đầy đủ và hợp lý. Nếu thấy rằng các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro của Ủy ban Basel đưa ra là quá cao, quá khó thực hiện cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì cần có một sự thỏa hiệp nào đó nhưng phải đảm bảo các tiêu chuẩn chung đánh giá rủi ro ở Việt Nam sẽ phải cao hơn các tiêu chuẩn cũ theo Basel II.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).