Thursday 27 October 2022

Tăng lương: Nên ưu tiên hơn cho ngành y tế, giáo dục (Bài đăng trên KTSG, 27/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/tang-luong-nen-uu-tien-hon-cho-nganh-y-te-giao-duc/

Hiện Bộ Nội vụ đang đề xuất tăng lương cơ sở từ 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng/tháng. Theo bộ này, sự điều chỉnh tăng này là rất hợp lý, tạo ra được động lực mới, giảm hiện trạng công chức, viên chức xin thôi việc.

Cũng theo Bộ Nội vụ, tính từ 1-1-2020 đến 30-6-2022, ở 63 tỉnh thành có 39.552 công chức, viên chức nghỉ việc, thôi việc. Đa phần trong con số này, 35.523 người, là viên chức (chiếm 89,81% tổng số nghỉ việc, thôi việc).

Về ngành nghề, bộ cho biết số nghỉ việc, thôi việc chủ yếu rơi vào hai ngành là giáo dục (chiếm 41,53%) và y tế (30,84%).

Về địa bàn, thống kê cho thấy việc nghỉ việc chủ yếu diễn ra ở các địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, đặc biệt các nơi có khu công nghiệp, chế xuất lớn. Còn các vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên thì có số lượng nhỏ.

Từ những số liệu thống kê sơ bộ nói trên có thể rút ra mấy nhận định. Thứ nhất, nếu cần tăng lương cơ sở cho công chức, viên chức thì cần tránh việc tăng lương trong đồng loạt trong tất cả các ngành, mà cần có sự chọn lọc ưu tiên, cụ thể là cho ngành y tế và giáo dục.

Cũng cần thấy rằng tỷ lệ nghỉ việc, thôi việc của công chức, viên chức ở Việt Nam như trên (gần 40 ngàn người trong 2,5 năm, trên tổng biên chế “toàn hệ thống chính trị” giai đoạn 2022-2026 là 2,234 triệu người, tức khoảng dưới 2%/2,5 năm hay dưới 1%/năm) vẫn là rất chừng mực nếu so với, ví dụ Singapore. Nước này được biết đến rộng rãi với mức lương cho giới chức rất cạnh tranh so với khu vực tư nhân, nhưng cũng đã phải chứng kiến sự ra đi của tới 9,9% lượng cán bộ quản lý sơ trung cấp trong năm 2021 (và điều này đã kích hoạt đợt xét tăng lương cho giới chức nước này từ 5% đến 12% trong năm nay).  

Nói cách khác, dù lương cơ sở hiện tại có thể thấp nhưng nó đã không gây ra sự nghỉ việc, thôi việc trên diện rộng ở các ngành khác ở Việt Nam. Do đó, tăng lương cơ sở cho các ngành ngoài y tế và giáo dục với mục đích giảm hiện trạng công chức, viên chức xin thôi việc, nghỉ việc (một cách chung chung) là không thỏa đáng, phù hợp với thực tế.

Nhận định thứ hai có thể rút ra ở đây là, do đa phần số nghỉ việc, thôi việc là viên chức (tỷ lệ công chức chỉ chiếm 10,19% tổng số nghỉ việc, thôi việc) nên nếu có tăng lương cơ sở để giữ chân nhân lực thì cũng cần sự ưu tiên, chọn lọc, chú trọng vào đối tượng là viên chức, và, xin nhắc lại một lần nữa, chỉ trong hai ngành là giáo dục và y tế.

Thứ ba, sự nghỉ việc diễn ra chủ yếu ở các địa bàn có điều kiện tốt hơn cho thấy việc tăng lương cơ sở thêm 20% (dẫn đến tăng thu nhập hàng tháng thêm một hai triệu đồng gì đó) có lẽ là không đủ, không phải là lý do để níu kéo công chức, viên chức thôi nghỉ việc trong các địa bàn này, so với cơ hội tăng thu nhập lớn hơn nhiều nếu họ làm việc bên ngoài khu vực nhà nước. Nên, một lần nữa, tăng lương cơ sở, nếu có, cũng cần mang tính lựa chọn, có mức tăng khác nhau, tùy theo đối tượng và mức sống. Cụ thể, nếu tăng lương cơ sở thì có thể xem xét tăng ở mức cao hơn (trên 20%) cho các đối tượng là viên chức trong hai ngành là giáo dục và y tế ở các trung tâm kinh tế lớn, có thu nhập và chi phí sinh hoạt cao hơn mức trung bình cả nước.

Nhưng nếu mục đích tối thượng của việc tăng lương cơ sở chỉ đơn giản là cải thiện thu nhập cho giới chức nói chung (chứ không phải để giữ chân họ ở lại, như tuyên bố) thì phải quay lại từ điểm xuất phát là tính cạnh tranh của lao động thuộc khu vực công và tư, cho cùng một đầu/loại hình công việc và vị trí.

Lại lấy ví dụ về Singapore. Để vào làm việc tại khu vực công của Singapore, người lao động cần có thành tích học tập tốt trong phân khúc của mình, tức rất chú trọng đến điểm số, thậm chí là kết quả thi tốt nghiệp từ cấp... tiểu học! (Điều này thực ra thì cũng rất có lý, bởi giữa hàng trăm, hàng ngàn ứng cử viên, điều phân biệt rõ ràng nhất, phản ánh sát thực nhất về trình độ và khả năng của các ứng viên là điểm số và bằng cấp – tất nhiên đi kèm với đó là nơi đào tạo, tốt nghiệp).

Mà các kỳ thi, các loại bằng cấp của nước này rất tiêu chuẩn, trắng đen rõ ràng nên không có chuyện chỉ cần có bằng đại học (loại giỏi)... Đông Đô như ở Việt Nam là đủ để làm công chức, viên chức trong các vị trí cần có bằng đại học. Thậm chí, với bằng cấp từ nước ngoài, cũng có danh sách các trường được công nhận cho từng nước.

Người viết có biết một vài trường hợp xin việc trong khu vực công ở đây, với đầy đủ bằng cấp, thậm chí cả bằng tiến sĩ, tốt nghiệp ở các nước phát triển khác, có kinh nghiệm làm việc nhiều năm trong ngành, mà trượt từ vòng gửi xe.

Nói vậy để thấy rằng làm công chức, viên chức, nếu đúng chuẩn mực, phải là những người đứng đầu, có thực lực trong phân khúc, lĩnh vực của mình và như thế mới xứng đáng được hưởng mức lương cạnh tranh so với khu vực tư nhân. Còn để biết sự cạnh tranh này đang như thế nào một cách đúng đắn và phù hợp thì căn cứ vào tỷ lệ nghỉ việc của công chức, viên chức. 

Ở Việt Nam, việc tăng lương mà không xét đến trình độ, thực lực, tính cạnh tranh của công chức, viên chức sẽ là điều bất cập. Tuy mang tiếng “lương thấp” nhưng thực tế không có nhiều người thôi việc, bỏ việc (thể hiện qua các con số thống kê, phân tích ở phần trên) cho thấy “lương” thực tế không hề thấp, không hấp dẫn chút nào và/hoặc trình độ, thực lực, sự cạnh tranh của số đông công chức, viên chức cũng chỉ xứng đáng với “lương thấp” như vậy mà thôi.

Tóm lại, để cải thiện, nâng cao tính hợp lý, cạnh tranh của tiền lương cho công chức, viên chức thì trước tiên cần thanh lọc, tuyển dụng chỉ những người giỏi, xứng đáng nhất trong phân khúc tương ứng dựa trên các chuẩn mực về điểm số, bằng cấp và nơi đào tạo (và kinh nghiệm làm việc cạnh tranh nếu là người chuyển ngang từ khu vực tư nhân).

Việc tăng lương, trên nguyên tắc chung, sẽ chỉ được điều chỉnh khi có dấu hiệu rõ ràng về sự sụt giảm tính cạnh tranh với lương/thu nhập của khu vực tư nhân (thể hiện khách quan qua tỷ lệ nghỉ việc lớn và/hoặc tăng nhanh). Trong bối cảnh tiền lương/thu nhập của người lao động ngoài khu vực nhà nước không có sự cải thiện rõ ràng hoặc cải thiện không đáng kể, việc tăng lương cho công chức, viên chức cần được trì hoãn hoặc chỉ được điều chỉnh nhẹ tương ứng với sự cải thiện nhẹ, nếu có, của khu vực tư.

Trong những phân khúc/ngành/địa bàn cụ thể có tỷ lệ nghỉ việc lớn hơn nhiều so với mức trung bình (cụ thể là viên chức, ngành giáo dục và y tế, ở các địa bàn phát triển) thì cần có sự chủ động, linh hoạt hơn trong việc tăng lương so với nguyên tắc chung áp dụng cho toàn bộ khu vực nhà nước. 

Monday 24 October 2022

‘Sống chung’ với lãi suất tăng (Bài đăng trên KTSG, 21/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/song-chung-voi-lai-suat-tang/

Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam ngày càng trở nên căng thẳng hơn. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã phải chính thức tăng lãi suất điều hành sau khi lãi suất huy động và cho vay đã tăng đáng kể trên các thị trường ngay từ đầu năm.

Việc tăng lãi suất điều hành của NHNN diễn ra sau các đợt tăng lãi suất cơ bản liên tiếp của Fed, ngân hàng trung ương Mỹ. Fed tăng lãi suất làm tiền đồng mất giá mạnh nếu NHNN không can thiệp. Kênh can thiệp bán đô la Mỹ đã làm giảm mạnh quỹ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam, buộc NHNN phải dựa nhiều hơn vào kênh can thiệp lãi suất.

Và trong bối cảnh lạm phát ở Việt Nam còn “thấp”, vẫn dưới mức mục tiêu 4% mà Quốc hội đặt ra từ đầu năm, nhiều người cho rằng mục đích nâng lãi suất điều hành của NHNN là để bảo vệ tỷ giá, chứ không phải kiềm chế lạm phát. Bản thân phát ngôn của các lãnh đạo NHNN cũng đôi lúc có chút mâu thuẫn, không rõ ràng về chuyện này (mục đích chính là bảo vệ tỷ giá hay kiềm chế lạm phát?) nên lập luận về bảo vệ tỷ giá càng có cơ sở.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức lạm phát theo tháng ở Việt Nam đã tăng khá mạnh trong năm nay, thậm chí lên tới 1% hồi tháng 2 so với tháng 1. Đến tháng 8, đã tưởng đâu lạm phát được kiềm chế thành công, khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng này chỉ tăng nhẹ 0,005% so với tháng 7, nhưng rồi lại tăng mạnh trở lại vào tháng 9 (+0,4% so với tháng 8). Và so với tháng 12/2021 thì CPI tháng 9 đã tăng 4,01%, còn so với tháng 9/2021 thì tăng 3,94%, tức đều đã ngấp nghé hoặc vượt mức mục tiêu 4% đặt ra cho cả năm. Cần lưu ý thêm rằng mức mục tiêu 4% này cũng không phải là “thấp” để mà an tâm khi CPI vẫn nằm trong ngưỡng này, để cho rằng lạm phát không phải là thách thức vĩ mô chính hiện nay.

Một điều quan trọng nữa là kỳ vọng lạm phát. Lạm phát hiện tại có thể vẫn dưới mục tiêu, trong vòng kiểm soát, nhưng kỳ vọng lạm phát vẫn còn nguyên đó, càng tăng tiến theo đà tăng một cách bướng bỉnh của lạm phát ở nhiều nước trên thế giới, bất chấp các đợt tăng lãi suất rầm rộ, mạnh mẽ, quy mô toàn cầu.

Bởi vậy, việc tăng lãi suất của NHNN là tất yếu, không thể tránh khỏi. Nhưng không chỉ có tác dụng giảm áp lực lạm phát và lạm phát kỳ vọng, tăng lãi suất tất nhiên còn hỗ trợ tỷ giá nên gián tiếp giảm áp lực lạm phát. Do đó, không cần thiết phải tranh luận mục đích tăng lãi suất để làm gì mà chỉ cần biết tăng lãi suất là điều bắt buộc phải làm, thậm chí còn được làm khá muộn ở Việt Nam.

Nhìn về phía trước, khả năng Fed có thêm các đợt tăng lãi suất trong năm nay và đầu năm tới là cao nên NHNN cũng khó tránh khỏi phải tăng lãi suất điều hành (hoặc ít ra thì ngầm để lãi suất tăng trên thị trường mà không công bố chính thức, như đã chứng kiến). Nói cách khác, lãi suất dù trên thực tế hay danh nghĩa của Việt Nam đều sẽ tăng nếu Fed tăng lãi suất của họ. Doanh nghiệp vay vốn cũng sẽ tất yếu phải chịu mức lãi vay cao hơn (ngầm định và/hoặc chính thức), bất chấp động thái trấn an của NHNN gần đây rằng sẽ “bình ổn” lãi suất cho vay.

Điều đáng nói ở đây là chuyện lãi suất tăng này không phải là “ngày tận thế” với doanh nghiệp. Nếu có tăng một vài điểm % thì mức lãi suất cho vay này vẫn không phải là cao đột biến so với diễn biến trong quá khứ, đã từng có lúc lên đến gần 20%/năm. Cũng xin đừng ai lập luận rằng lợi nhuận doanh nghiệp làm ra chỉ quanh quẩn 7%-10%/năm hoặc thấp hơn mà phải trả lãi vay tới, ví dụ, 12%/năm thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ và phá sản. Chuyện này đã được nói đến nhiều và được chứng minh là một quan niệm sai lầm rồi.

Ngoài ra, để biết doanh nghiệp có chịu được mức lãi suất cao như thế không thì cần nhìn vào triển vọng kinh tế trong thời gian tới. Doanh nghiệp sẽ chịu được hầu như bất kỳ mức lãi suất đi vay cao như thế nào, miễn là họ chuyển được chi phí vay đắt đỏ này vào giá bán và tiêu thụ được sản phẩm của mình, cũng tương tự như khi lạm phát cao nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn sống khỏe.

Một trong những căn cứ để Fed mạnh tay và kiên định với chính sách thắt chặt tiền tệ của mình là diễn biến tích cực của nền kinh tế Mỹ, được thể hiện một phần qua chỉ số tạo việc làm mới. Chỉ số này tiếp tục được duy trì, cải thiện có nghĩa là việc tăng lãi suất của Fed không ảnh hưởng “chết chóc” đến nền kinh tế Mỹ, đến doanh nghiệp Mỹ nói chung.

Điều tương tự cũng cần được xem xét ở Việt Nam. Việc tăng lãi suất không chính thức ở Việt Nam từ đầu năm vẫn không cản bước Việt Nam đạt được các con số tăng trưởng GDP ấn tượng qua các quý cho đến nay. Trong các quý tới, NHNN sẽ phải dự báo, quan sát diễn biến của nền kinh tế thực (chứ không phải, ví dụ, tỷ giá) để quyết định tần suất và mức độ tăng lãi suất của mình.

Nếu tăng trưởng chững lại, thậm chí quay đầu nhanh chóng thì NHNN nhiều khả năng sẽ phải ngừng việc điều chỉnh lãi suất bất chấp Fed có tiếp tục tăng lãi suất nữa hay không. Nhưng lúc đó cũng đừng lo quá về áp lực tỷ giá hay lạm phát, bởi đơn giản là khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại cũng đồng nghĩa với tổng cầu tăng trưởng chậm lại, sẽ góp phần giảm áp lực tỷ giá hay lạm phát.   

Friday 21 October 2022

Mục đích nới biên độ tỷ giá (Bài đăng trên KTSG, 21/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/muc-dich-noi-bien-do-ty-gia/ 

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 17-10-2022 đã quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay đô la Mỹ/tiền đồng từ mức +/-3% lên +/-5%, có hiệu lực ngay cùng ngày.

Bối cảnh của động thái này, cũng như NHNN cho biết, là xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất của Fed (ngân hàng trung ương Mỹ) và các ngân hàng trung ương trên thế giới.

Đồng thời, cũng cần nhận thức được thêm một bối cảnh nữa đằng sau động thái này của NHNN là sự liên tục chạm trần tỷ giá của tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng tại các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây, cho thấy hoặc biên độ tỷ giá, hoặc bản thân tỷ giá trung tâm do NHNN công bố hàng ngày, đã trở nên không còn phù hợp với biến động tỷ giá hiện nay.

Sự không còn phù hợp này cũng sẽ hoặc là dẫn đến sự bùng phát của thị trường ngoại tệ “chợ đen” khi ngân hàng thương mại không thể nâng cao giá mua/bán đô la Mỹ quá mức mà thị trường đòi hỏi, hoặc sẽ dẫn đến việc “lách luật” của ngân hàng thương mại, tiến hành mua/bán với giá cao hơn giá trần, làm cho việc quy định biên độ tỷ giá trở nên vô nghĩa.

Tỷ giá trung tâm của NHNN tuy được xây dựng dựa trên sự tham chiếu tỷ giá của một rổ tiền, nhưng nó vẫn không hoàn toàn khách quan bởi vẫn chứa đựng các yếu tố chủ quan gồm “các cân đối kinh tế vĩ mô và tiền tệ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ (của NHNN)”. Nên có thể coi tỷ giá trung tâm là một công cụ điều hành của chính sách tiền tệ thiên về phần chủ quan của NHNN.

Để cải thiện tính khách quan, tính thị trường cho tỷ giá ngân hàng, NHNN áp dụng biên độ tỷ giá. Do được biến động trong một phạm vi nhất định giữa sàn và trần lãi suất (dựa trên tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá) nên tỷ giá ngân hàng gần với tỷ giá thị trường, tỷ giá chợ đen hơn so với tỷ giá trung tâm. Biên độ tỷ giá càng lớn thì mức chênh lệch của tỷ giá ngân hàng với tỷ giá thị trường/chợ đen càng nhỏ, đặc biệt những lúc căng thẳng tỷ giá.

Trong bối cảnh tỷ giá có xu hướng gia tăng do Fed tăng lãi suất và việc can thiệp bán đô la Mỹ cũng như nâng lãi suất tiền đồng của NHNN không có nhiều tác dụng trong việc chặn đà tăng này, NHNN chắc chắn đã phải đi đến quyết định “lỏng cương” với tỷ giá.

Nhưng do bị ràng buộc bởi yêu cầu “ổn định vĩ mô”, NHNN cũng không thể điều chỉnh quá mạnh tỷ giá trung tâm dù cần thiết, bởi có thể bị thị trường nhìn nhận như một hành động “phá giá” tiền đồng – một từ “húy” và nhạy cảm đối với nhiều người.

Do vậy, cách tốt nhất để tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng tăng mạnh hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ trói buộc của cơ chế tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá trước đó, là điều chỉnh mạnh biên độ tỷ giá, chứ không phải tỷ giá trung tâm.

Tỷ giá tại ngân hàng thương mại có tăng mạnh thêm, ví dụ, 1% chủ yếu bởi nới biên độ sẽ là dễ giải thích (“do cung cầu thị trường”), dễ được chấp nhận và cũng dễ được thực hiện hơn là tăng tỷ giá trung tâm thêm 1% trong khi lại giữ nguyên biên độ tỷ giá. Đây chính là lý do dẫn đến sự điều chỉnh biên độ tỷ giá hôm 17-10.      

Nâng biên độ tỷ giá chắc chắn sẽ mở đường cho tỷ giá ngân hàng tiếp tục tăng mạnh hơn đáng kể so với hiện nay trong các tháng tới mà không cần phải phụ thuộc quá nhiều vào tỷ giá trung tâm.

Nhờ đó, NHNN một mặt không còn phải bận tâm chạy theo thị trường hàng ngày và “đau đầu” với việc đặt tỷ giá trung tâm bao nhiêu là phù hợp để vừa không trói tay quá mức ngân hàng thương mại hoặc dẫn đến các hành vi lách luật, vừa vẫn không làm thị trường bị sốc hoặc hoảng loạn nếu tăng quá mạnh, chẳng hạn 1% thay vì chỉ vài (chục) đồng/ngày như vẫn diễn ra cho đến nay.

Mặt khác, NHNN không còn phải tự làm khó mình thêm nữa với nghĩa vụ phải bán ra đô la Mỹ để can thiệp khi tỷ giá ngân hàng căng thẳng, chạm trần tỷ giá, đơn giản bởi tỷ giá bán can thiệp của NHNN có thể đặt cao hơn trong biên độ tỷ giá cao hơn so với trước đây mà không gây ra mấy thắc mắc, “tâm tư” gì cho hệ thống ngân hàng. Tỷ giá bán của NHNN càng cao thì nhu cầu/cơ hội mua đô la Mỹ của ngân hàng thương mại từ NHNN đương nhiên càng giảm đi, giúp ngăn cản sự cạn kiệt thêm nhanh chóng dự trữ ngoại hối quốc gia vốn đã giảm rất mạnh trong mấy tháng gần đây.   

Nhìn chung, việc nâng mạnh biên độ tỷ giá như hôm 17-10 cũng tương đương với một bước đi đáng kể tiến đến gần hơn với chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát tương tự như ở nhiều nước khác, thay vì chính sách tỷ giá neo gắn tiền đồng với đô la Mỹ (chính sách tỷ giá ổn định) mà Việt Nam nỗ lực theo đuổi suốt bao năm qua cho đến nay dù thường xuyên dẫn đến các đợt căng thẳng về tỷ giá và vẫn không tránh được xu hướng phải “phá giá” tiền đồng đáng kể qua từng năm.

Monday 17 October 2022

Lạm bàn về doanh nhân (Bài đăng trên KTSG, 13/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/lam-ban-ve-doanh-nhan/

Doanh nhân, theo wikipedia, là người giải quyết các vấn đề cho người khác để kiếm lợi nhuận. Ở Việt Nam, doanh nhân là một từ được giới truyền thông sử dụng để xác định một tầng lớp gắn với thành phần kinh tế tư nhân và chủ nghĩa tư bản xuất hiện sau những năm 1990.

Lần lại lịch sử ở Việt Nam, có lẽ giới doanh nhân có tiền thân là giới công thương, và Ngày Doanh nhân Việt Nam, 13/10, được ra đời từ năm 2004 dưới thời Thủ tướng Phan Văn Khải, cũng chính là ngày Bác Hồ gửi thư cho giới công thương Việt Nam (ngày 13/10/1945).

Thời điểm năm 1945 đương nhiên là không có khái niệm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và/hoặc thành phần kinh tế nhà nước. Nên cũng đương nhiên là giới công thương/doanh nhân chỉ gồm những người có tư bản (nhà tư bản), bỏ vốn thuê người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nào đó.

Năm 2011, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 09 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (1). Nghị quyết này dường như cũng xác định giới doanh nhân là giới tư bản, chủ doanh nghiệp tư nhân, không liên quan gì đến DNNN hay khu vực kinh tế nhà nước.

Vào thời điểm được xây dựng, Nghị quyết 09 hay trước đó là Quyết định của Thủ tướng Phan Văn Khải, Việt Nam đã có một nền kinh tế đa sở hữu, gồm cả DNNN và DNNN được cổ phần hóa (tư hữu hóa) nhưng có một phần sở hữu của Nhà nước, hay DNNN liên doanh với doanh nghiệp tư bản nước ngoài... Ngay đối với doanh nghiệp tư nhân, cũng có doanh nghiệp 100% thuộc sở hữu cá nhân hoặc doanh nghiệp/công ty cổ phần, nơi các cá nhân chỉ nắm sở hữu một phần doanh nghiệp thông qua phần góp vốn của mình.

Nếu coi doanh nhân là chủ nhân của các doanh nghiệp, theo đúng nghĩa đen là sở hữu 100% doanh nghiệp, thì chắc giới doanh nhân Việt Nam sẽ bị tổn hại đáng kể về mặt số lượng thành viên. Nên chắc Bộ Chính trị hay Thủ tướng Chính phủ hồi đó cũng không chặt chẽ gì câu chữ mà xác định giới doanh nhân bao gồm luôn cả giới chủ sở hữu... một phần của mọi doanh nghiệp tư nhân (phi nhà nước). Và tất nhiên là giới chủ một phần này chắc cũng phải tham gia lãnh đạo, điều hành sản xuất kinh doanh để được gọi là doanh nhân, chứ không thì chỉ là... cổ đông, dù là phổ thông hay chi phối.

Nhưng như vậy thì lại không thể bỏ sót giới vừa là quản lý, vừa là chủ sở hữu một phần ít nhất là các DNNN đã được cổ phần hóa (nhưng Nhà nước vẫn nắm đa số sở hữu) hoặc doanh nghiệp liên doanh với DNNN, thậm chí DNNN được thành lập mới có một phần vốn nhà nước. Trong các doanh nghiệp này, không ít trường hợp người quản lý, lãnh đạo cũng đồng thời là cổ đông/chủ sở hữu, thậm chí còn nắm một cổ phần đáng kể (nhờ được mua với giá ưu đãi).

Cùng với quá trình cổ phần hóa, con số doanh nghiệp loại này sẽ ngày càng tăng, càng... đòi hỏi tính công bằng trong việc “trả lại tên” cho giới lãnh đạo doanh nghiệp này là... các doanh nhân cho tương xứng với giới doanh nhân bên ngoài.

Nhưng đến đây rồi thì lại cần sự công bằng trên khía cạnh sở hữu chi phối. Doanh nhân trong các DNNN hoặc doanh nghiệp liên quan đến DNNN (cổ phần hóa, liên doanh, nơi Nhà nước vẫn nắm trên, ví dụ, 50% sở hữu) vẫn phải chịu sự chi phối của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, khó mà đánh đồng với sự hầu như là tự tung tự tác của giới doanh nhân ở các doanh nghiệp tư nhân, phi nhà nước.    

Do đó, cũng cần phải có sự phân biệt giới doanh nhân thành doanh nhân... nhà nước (quốc doanh) và doanh nhân tư nhân những lúc cần phải vậy, tương tự như khi cần phải phân biệt DNNN với doanh nghiệp tư nhân, mà không thể gọi chung là doanh nghiệp được (chẳng hạn trong vấn đề lương).  

Nhân Ngày Doanh nhân 13/10, giữa thời buổi muôn trùng khó khăn “thập diện mai phục” như hiện nay, nếu được hỏi ước muốn và được tôn vinh bằng cách cho lựa chọn, chắc có một số doanh nhân muốn mình là doanh nhân nhà nước (doanh nhân quốc doanh)!

Cũng là doanh nhân, nhưng doanh nhân quốc doanh thì “sướng” hơn doanh nhân tư nhân nhiều. Bởi vẫn có cơ hội biến “của công thành của ông”, trong khi thua lỗ thì được Nhà nước “treo” ở đó, hoặc tìm mọi cách hà hơi tiếp sức từ năm này sang năm khác mà không “nỡ” để chết. Thậm chí, lúc thua lỗ triền miên đến âm nặng cả vốn chủ sở hữu mà vẫn có thể thản nhiên đòi chi thưởng cho cán bộ công nhân viên với lý do “để động viên” tinh thần (tất nhiên người lao động trực tiếp được một thì “doanh nhân” lãnh đạo được vài phần).

Tất nhiên, chuyện rạch ròi và ước muốn về tên gọi như trên là điều có lẽ ít ai nghĩ tới hoặc bận tâm. Nhưng như vậy thì nó lại chỉ ra tính hình thức của tên gọi và sự tôn vinh “doanh nhân”.

Nếu thực sự muốn đề cao, tôn vinh, động viên tinh thần doanh nhân, tinh thần khởi nghiệp, dám dấn thân, không ngại mạo hiểm, khó khăn, dốc hết tâm sức và tài lực để làm giàu cho bản thân và xã hội thì chí ít hãy tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng, minh bạch để những doanh nhân chân chính không phải “tâm tư”, không phải bất an với hiện trạng dường như pháp luật không bảo vệ mình, và cũng không phải xấu hổ hay chạnh lòng khi phải đứng chung hàng ngũ với mấy “doanh nhân quốc doanh” kể trên.     

(1)    https://hatinh.gov.vn/y-nghia-ngay-doanh-nhan-viet-nam-13-thang-10#:~:text=Vi%E1%BB%87c%20Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7,Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20c%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a.

Thursday 13 October 2022

Phân tích, dự báo vĩ mô bị... lỗi nhịp (Bài đăng trên KTSG, ngày 17/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/phan-tich-du-bao-vi-mo-bi-loi-nhip/

Ngày 23/9, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức tăng các lãi suất điều hành thêm 1 điểm %. Trước việc tăng lãi suất này, nhiều tổ chức nghiên cứu, phân tích vĩ mô, thị trường đã tỏ ra bất ngờ, lúng túng, bởi các phân tích, dự báo trước đó của họ đã nhận định NHNN không tăng lãi suất năm nay, hoặc trước quý 4, hoặc, nếu có, sẽ chỉ tăng ở mức khiêm tốn, không đến 1 điểm % như đã thấy. Hầu như không có báo cáo nào dự báo chính xác NHNN sẽ tăng lãi suất ngay trong quý 3 này, và, nếu có, thì ở mức độ 1 điểm % này.

Chẳng hạn, Maybank dự báo Việt Nam chỉ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm % vào cuối năm nay (1). Tương tự, VnDirect “có đôi chút bất ngờ” về mức tăng 1 điểm % lãi suất điều hành, cao hơn so với dự báo trước đó của tổ chức này là 0,5 điểm % cho năm 2022. Chứng khoán Bản Việt (VCSC) thì cũng không khá hơn khi hồi đầu năm kỳ vọng trần lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng sẽ chỉ tăng 0,5 điểm % lần lượt trong năm 2022 và 2023.

Một số chuyên gia, học giả thì “cập nhật” đánh giá của mình về động thái tăng lãi suất đã rồi của NHNN một cách vớt vát theo kiểu "tăng lãi suất điều hành thời điểm này là phù hợp” (3), “(việc tăng lãi suất) là một trong biện pháp hành động trước, đi trước một bước để sau này không phải đối mặt với những căng thẳng” (4).

Lãi suất (sớm) tăng là điều tất yếu, có thể khẳng định chắc chắn từ sớm

Một trong những bất cập, yếu kém chính của các loại phân tích, dự báo trên là đã thất bại trong việc nhìn thấy hành động tăng lãi suất điều hành của NHNN sớm là điều không thể tránh được.

Ngay từ cuối năm trước, trong khi mọi người vẫn dự báo một mặt bằng lãi suất thấp hơn trong năm 2022 để hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tác giả đã dự báo “ngược dòng” rằng: “Sự mạnh lên của đô la Mỹ và áp lực gia tăng giá cả sẽ buộc NHNN hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài thắt chặt trở lại chính sách tiền tệ của mình. Nhưng, mức độ thắt chặt trở lại có thể sẽ không quá lớn bởi NHNN không muốn gây ra một sự đổ vỡ trong nền kinh tế nội địa khi sự phục hồi còn chưa vững chắc. Do đó, lãi suất tiền đồng năm 2022 có chiều hướng sẽ tăng lên, tuy ở mức độ nhỏ, hoặc ít nhất thì sẽ khó có chuyện lãi suất sẽ giảm tiếp so với mức hiện nay” (5).

Tiếp theo đó, một mặt đã sớm nhận định, chỉ ra rằng xu hướng thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất của NHNN thực tế đã xảy ra ngay từ quý 1, mặt khác, tác giả đã phân tích lý do tại sao NHNN vẫn ngần ngại công khai về xu hướng thắt chặt tiền tệ này, tuy họ có thể biết rõ họ hầu như chẳng còn công cụ chính sách nào khác (6).    

Để khẳng định lại việc NHNN cần thiết phải sớm công bố tăng lãi suất điều hành ngay từ lúc “bão giá” đã bắt đầu hoành hành ở Việt Nam trong các quý trước, tác giả đã mượn trường hợp chống lạm phát của Singapore để cho thấy chỉ có công cụ chính sách tiền tệ (tức nâng lãi suất) mới là giải pháp hữu hiệu để chống lạm phát, chứ không phải là các giải pháp hành chính, phi kinh tế, phi thị trường (7).

Đáng kể hơn, tác giả đã chỉ ra dấu hiệu rõ rệt của việc NHNN đã bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ, nâng lãi suất từ hồi tháng 6 (8). Tuy nhiên, tại thời điểm đó, NHNN vẫn khẳng định “tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành”. Điều này làm cho nhiều tổ chức/cá nhân phân tích, dự báo (gồm các tổ chức/cá nhân nêu đầu bài) tin một cách khá... ngây thơ rằng chính sách tiền tệ sẽ không bị thắt chặt, và nếu có (nếu tăng lãi suất điều hành) thì chỉ diễn ra vào quý 4. Với các phân tích của mình, tác giả kết luận rằng NHNN sẽ phải sớm công bố nâng các mức lãi suất điều hành (tức là trước quý 4/cuối năm 2022 mà đa phần dự báo khác đưa ra).

Để củng cố thêm lập luận về hành động phải sớm tuyên bố nâng lãi suất điều hành của NHNN, tác giả đã phân tích lý do chính đằng sau mặt bằng lãi suất đã và đang tăng lên ở Việt Nam trong các tháng trước, mà cụ thể là do NHNN đã giảm cung tiền (M2) nhằm siết chặt chính sách tiền tệ trong nỗ lực giảm lạm phát và chặn đà tăng của tỷ giá (9).

Bài học

Như vậy, việc NHNN tăng lãi suất điều hành là điều hoàn toàn có thể dự báo sớm với xác suất hầu như tuyệt đối nếu các tổ chức/cá nhân hiểu rõ và bám chắc vào các nguyên lý tiền tệ và kinh tế học vĩ mô. Tất nhiên, không thể loại trừ ý thức thuần phục, không thoát khỏi nếp nghĩ rằng “người ta” đã nói vậy thì chắc là vậy làm cho họ không thể có khả năng, không dám đưa ra các dự báo ngược dòng dù có thể họ cũng có nhận biết được chút gì đó vô lý ở đây.

Không chỉ thất bại trong việc nắm bắt các xu hướng tất yếu, các phân tích, dự báo có trên thị trường còn gây thất vọng ở chỗ đã không kịp thời cập nhật, sửa đổi các dự báo, phân tích của mình khi các yếu tố, điều kiện thị trường đã thay đổi một cách rõ rệt, làm cho các dự báo của họ trở nên lỗi thời, sai lầm.

Chẳng hạn, cũng chuyện lãi suất trên thực tế đã tăng mạnh, không chỉ ở lãi suất huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại, mà đặc biệt còn thể hiện qua lãi suất mà NHNN áp dụng với các ngân hàng thương mại trên thị trường mở và tín phiếu, hoặc lãi suất liên ngân hàng vốn đã tăng vọt tới dăm điểm % từ cả mấy tháng trước, thậm chí lên mức kỷ lục cả chục năm nay, lẽ ra những tổ chức đã may mắn dự báo đúng được việc NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất, nhưng lại chỉ dự báo mức tăng có 0,25 hoặc 0,5 điểm phần trăm như nêu trên cần phải thấy ngay rằng mức tăng theo dự báo của họ là quá nhỏ, không thể đúng trên thực tế để rồi thấy “có đôi chút bất ngờ” khi chuyện đã rồi!       

Để cứu vãn uy tín, mang lại chút giá trị gia tăng nào đó, xin khuyến nghị rằng ít nhất thì các tổ chức/cá nhân đã và đang có các báo cáo phân tích, dự đoán về xu hướng lãi suất trong phần còn lại của năm và sang năm sau ở mức không thay đổi, hoặc có tăng chỉ ở mức khiêm tốn, ví dụ 0,5 điểm %, nên nhanh chóng sửa lại các dự báo này nếu không muốn bị rơi vào tình thế “bất ngờ” một lần nữa.

 ----

(1)    https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-tang-lai-suat-chinh-sach-tien-te-binh-thuong-hoa-hau-dai-dich-20220923205652009.chn

(2)    https://cafef.vn/nhnn-tang-lai-suat-quyet-liet-hon-du-bao-gioi-phan-tich-lo-bien-loi-nhuan-ngan-hang-bi-thu-hep-20220923120418971.chn

(3)    https://cafef.vn/ts-truong-van-phuoc-viet-nam-tang-lai-suat-dieu-hanh-thoi-diem-nay-la-phu-hop-20220923071224417.chn

(4)    https://cafef.vn/nang-lai-suat-viet-nam-rut-ra-bai-hoc-nhin-tu-cau-chuyen-cua-fed-20220923065911409.chn

(5)    https://thesaigontimes.vn/trien-vong-kinh-te-the-gioi-va-viet-nam/

(6)    https://phan-minh-ngoc.blogspot.com/2022/04/tang-lai-suat-cho-vay-ngan-hang-khong.html

(7)    https://thesaigontimes.vn/kiem-che-lam-phat-hieu-dung-de-ky-vong-dung-va-hanh-dong-phu-hop/

(8)    https://thesaigontimes.vn/lai-suat-dieu-hanh-chua-tang-nhung-chinh-sach-tien-te-da-bat-dau-that-chat/

(9)    https://thesaigontimes.vn/tai-sao-lai-suat-lai-tang/

Nên tin ai? (Bài đăng trên KTSG số 40/2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-40-2022-thi-truong-chung-chi-carbon/

Mới đây, Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý 3/2022. Theo đó, có 38,6% số doanh nghiệp đánh giá quý 3 tốt hơn so với quý 2/2022; 36% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 25,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn (1).

Cũng theo TCTK, kết quả khảo sát còn cho thấy, đa số doanh nghiệp đều cho thấy sự lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý cuối cùng của năm nay. Cụ thể, trong quý 4/2022, các doanh nghiệp dự kiến tình hình kinh doanh còn tốt hơn so với quý 3/2022 khi có tới 48,7% doanh nghiệp đánh giá tích cực, 33,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và chỉ có 17,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Như vậy, có đến hơn 82% doanh nghiệp cho thấy sự lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý 4.

Trong khi đó, tuy không phải là một cuộc khảo sát đúng nghĩa như của TCTK nêu trên, Bộ Tài chính thông qua công tác thu thuế cũng đã nắm bắt được tình hình sức khỏe của doanh nghiệp, ở phạm vi rộng hơn chứ không bó hẹp trong một số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được chọn khảo sát bởi TCTK (2).

Theo nắm bắt của Bộ Tài chính thì một bức tranh về doanh nghiệp rất khác với của TCTK đã hiện ra, với từ khóa “khó khăn” được lặp lại nhiều lần. Theo đó, thu thuế (từ doanh nghiệp) có xu hướng giảm kể từ tháng 6, thể hiện khó khăn của doanh nghiệp như chi phí đầu vào tăng cao, thị trường đang thu hẹp, dù kim ngạch xuất nhập khẩu tăng cao nhưng nhiều doanh nghiệp giảm đơn hàng.

Bộ Tài chính cũng chỉ ra: “Nhìn vào từng lĩnh vực như bất động sản, thép, gỗ, xi măng, may mặc… đều có khó khăn. Chẳng hạn, với ngành gỗ, thống kê của cơ quan thuế thì 73% doanh nghiệp có đơn hàng giảm, thậm chí có doanh nghiệp bị giảm 30-90% đơn hàng. Hay ngành may mặc, hiện nhiều hoạt động cầm chừng chỉ đạt 50-70% công suất. Ngành thép cũng tương tự, khi quý 3 giảm 13 lần so với đầu năm khiến doanh nghiệp thép rất khó khăn. Lắp ráp ô tô chỉ bằng 68% so với cùng kỳ”.

Nói cách khác, tình hình và kết quả kinh doanh chung của các doanh nghiệp có xu hướng xấu đi kể từ tháng 6. Đây là xu hướng trái ngược với xu hướng mà cuộc khảo sát doanh nghiệp chế biến, chế tạo của TCTK cho thấy.

Cả TCTK lẫn cơ quan thuế, Bộ Tài chính đều là cơ quan chức năng nhà nước, nên đều khả tín như nhau. Tuy nhiên, do các cuộc khảo sát, tìm hiểu về doanh nghiệp của họ trái ngược nhau nên phải có một bên đúng, còn bên kia thì sai.   

Từ góc độ người ngoài cuộc nhìn vào, cuộc khảo sát của TCTK được thiết kế như thế nào, thực hiện ra làm sao thì chỉ có TCTK mới biết. Tương tự, thống kê của cơ quan thuế tiến hành ở đâu, với ai, bằng phương pháp nào thì cũng chỉ có họ biết. Do đó, câu hỏi ai đúng, ai sai chỉ có thể được trả lời bởi những người trong cuộc

Nhưng trước khi nhường câu trả lời cho TCTK và cơ quan thuế/Bộ Tài chính, xin được nêu mấy nhận định sau.

Về động cơ “lái” kết quả như công bố, cơ quan thuế/Bộ Tài chính có lẽ có lý do mạnh hơn TCTK. Cần lưu ý rằng kết quả thu thuế có xu hướng giảm dần là điều không tốt cho cơ quan thuế từ góc độ chức năng, nhiệm vụ của họ, đặc biệt trong bối cảnh ngành thuế vẫn còn nguyên đó vấn đề thất thu, nợ đọng thuế tồn tại từ năm này kéo dài qua năm khác. Do vậy, không gì có sức thuyết phục hơn cho vấn đề thu thuế đang sụt giảm là lý do khách quan rằng doanh nghiệp đã gặp khó khăn ngay từ thời điểm mà thu thuế bắt đầu sụt giảm.

Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa là cuộc khảo sát của TCTK là phản ánh đúng tình hình doanh nghiệp. Một số điểm bất thường/bất ngờ toát lên từ kết quả khảo sát, bao gồm chỉ có 4,6% doanh nghiệp được khảo sát cho biết không có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay như là một yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý 3/2022. Điều này dường như không đúng lắm với thực tế khi nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, luôn kêu cứu về chuyện tiếp cận vốn vay, nhất là trong quý 3 khi hạn mức tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng chưa được tăng, ngân hàng siết cho vay, lãi suất thì tăng mạnh.

Ở khía cạnh khác, chỉ có 23,5% doanh nghiệp được khảo sát cho biết lãi suất vay vốn cao làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh quý 3. Đây cũng có thể coi là một điều khá bất ngờ bởi quý 3 là quý mà lãi suất huy động đã tăng đáng kể, chắc chắn kéo theo lãi suất cho vay. Bình thường thì cũng đã luôn nghe thấy các doanh nghiệp phàn nàn chuyện tiếp cận vốn vay khó và/hoặc lãi suất vay cao. Nay xem ra kết quả thực tế có vẻ khá dễ chịu, chứng tỏ hoặc TCTK sai, hoặc doanh nghiệp... (nói) sai!  

Nếu đối tượng cuộc khảo sát của TCTK phần lớn là doanh nghiệp lớn (có ưu thế tiếp cận vốn ngân hàng, vay nước ngoài, và với lãi suất dễ chịu...) thì điều này có thể hiểu được. Nhưng nếu vậy thì tính đại diện của cuộc khảo sát này lại là một vấn đề, và do đó, kết quả khảo sát này không nhất thiết phản ánh đúng thực trạng doanh nghiệp, thực trạng nền kinh tế trong quý 3.  

-------

(1)    https://cafef.vn/hon-80-doanh-nghiep-lac-quan-ve-tinh-hinh-san-xuat-kinh-doanh-2022100110135707.chn

https://baodautu.vn/thu-truong-bo-tai-chinh-thu-ngan-sach-co-dau-hieu-bat-dau-sut-giam-d174523.html

Sunday 9 October 2022

Có “bình ổn” được lãi suất cho vay? (Bài đăng trên KTSG, 9/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/co-binh-on-duoc-lai-suat-cho-vay/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã cho biết các giải pháp ‘bình ổn’ lãi suất cho vay của mình sau khi NHNN nâng trần lãi suất huy động tiền gửi ngắn hạn (1). Các giải pháp này gồm giữ nguyên trần lãi suất cho vay, vận động các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục rà soát để tiết giảm các chi phí hoạt động, qua đó tạo điều kiện về mặt tài chính để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay.

Trần lãi suất cho vay mà NHNN nêu ở đây chính là mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa cho 5 lĩnh vực ưu tiên theo quy định tại khoản 2 điều 13 Thông tư 39/2016 của NHNN. Lần quy định trần lãi suất gần đây nhất có hiệu lực từ ngày 1/10/2020, với mức trần là 4,5%/năm. Theo tuyên bố của NHNN như trên thì mức trần 4,5% này sẽ tiếp tục có hiệu lực. Cần biết thêm là cho vay các lĩnh vực ưu tiên, theo ước tính của một số tổ chức, chỉ chiếm từ 20% đến 25% tín dụng toàn hệ thống ngân hàng.

Thông thường, trần lãi suất cho vay chỉ được điều chỉnh khi trần lãi suất huy động được điều chỉnh để đảm bảo không làm khó các TCTD (giảm thu nhập của họ). Nhưng trong lần điều chỉnh trần mới nhất này, đã có sự lệch pha khi chỉ có trần lãi suất huy động được điều chỉnh tăng lên, còn trần lãi suất cho vay thì được giữ nguyên.

Lưu ý rằng TCTD không bị bắt buộc (không bị NHNN chỉ định) cho vay với lãi suất bằng hoặc thấp hơn trần lãi suất cho vay. Nếu thấy không có lợi, họ có toàn quyền từ chối cho vay, dù doanh nghiệp muốn vay là thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên. Ưu tiên ở đây là từ góc độ của NHNN, Chính phủ, chứ không phải là của TCTD.     

Do đó, quyết định khống chế trần lãi suất cho vay trong khi nâng trần lãi suất tiền gửi (là điều làm tăng chi phí cho TCTD) sẽ dẫn đến hai hậu quả, TCTD thu hẹp cho vay (ngắn hạn, cho các lĩnh vực ưu tiên), và/hoặc TCTD “lách luật” bằng cách áp dụng các loại phí nếu doanh nghiệp quyết vay cho bằng được.

Hai hậu quả này dẫn đến hậu quả khác: Chủ trương bình ổn lãi suất cho vay không thành hiện thực, và/hoặc tín dụng càng bị siết chặt hơn, đặc biệt đối với các lĩnh vực ưu tiên, đi ngược lại ý đồ của NHNN.

Để ngăn chặn, khắc phục các hậu quả trên, NHNN phải có và thi hành các công cụ “khuyến khích” TCTD tăng cường cho vay doanh nghiệp trong các lĩnh vực ưu tiên.

Công cụ khuyến khích đầu tiên là vận động (yêu cầu) TCTD tăng cường cho vay lĩnh vực ưu tiên. Để hợp lý hóa sự vận động này, nó nên/cần được đi kèm với sự vận động TCTD cắt giảm chi phí, là điều mà NHNN đã và đang áp dụng, như nêu ở trên. Tuy nhiên, các sự vận động này chỉ là... vận động, tức không phải cưỡng chế, bắt buộc, nên hiệu quả của chúng vẫn mang tính... hên sui! TCTD dù có cắt giảm được chi phí thì cũng không dại gì tự giảm lãi suất cho vay, trừ khi bắt buộc phải làm vậy.

Nên NHNN cần phải áp dụng công cụ mang tính cưỡng chế hơn. Nhìn đi nhìn lại, hiện NHNN chỉ có công cụ đang áp dụng và có thể tiếp tục tăng cường triển khai là hạn mức tăng trưởng (“room”) tín dụng. TCTD nào “cứng cổ” không chịu cho vay các lĩnh vực ưu tiên sẽ bị áp room thấp. Tuy nhiên, room cho từng TCTD mới được NHNN điều chỉnh trong tháng trước. Kể cả khi NHNN tiến hành một đợt điều chỉnh nữa từ nay đến cuối năm thì mức độ điều chỉnh (tăng room), nếu có, sẽ không đáng kể (bởi bị khống chế bởi room tín dụng chung của cả nền kinh tế) để các TCTD đánh đổi lợi ích trông thấy được (không cho vay để không bị thiệt hại) lấy lợi ích mù mờ (được tăng room).

Một công cụ khuyến khích mang tính... hiền hòa hơn là NHNN cho vay TCTD với lãi suất ưu đãi để họ có nguồn vốn rẻ tăng cường cho vay lĩnh vực ưu tiên. Khả năng này là có nhưng lại vấp phải rào cản là chủ trương thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ giá. Nên nếu được áp dụng thì quy mô các gói cho vay ưu đãi với nguồn vốn rẻ từ NHNN này sẽ cũng chỉ dừng lại ở mức không đáng kể nếu NHNN không muốn TCTD phải cắt giảm cho vay các lĩnh vực khác để đảm bảo tăng trưởng tín dụng không vượt quá room được cấp.          

Ngoài các vấn đề liên quan đến cho vay lĩnh vực ưu tiên, thông thường, để đáp ứng lời vận động của NHNN về giảm lãi suất cho vay, một số TCTD, tự nguyện hay không, cũng sẽ đưa ra các gói cho vay với lãi suất ưu đãi cỡ vài nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, có vài điểm cần lưu ý ở đây. Cụ thể, thường chỉ có một vài TCTD tung ra các gói cho vay ưu đãi này. Nếu có thì phần lớn là dành cho doanh nghiệp trong 5 lĩnh vực ưu tiên, để rồi TCTD phải thu hẹp cho vay các lĩnh vực còn lại (lớn hơn nhiều so với 5 lĩnh vực ưu tiên) nhằm bảo toàn vốn và/hoặc tuân thủ room tín dụng. Quan trọng không kém là không thể loại trừ trường hợp TCTD công bố gói cho vay ưu đãi chủ yếu để lấy “tiếng thơm” chứ không thực tâm, ráo riết thực hiện. Bởi vậy, các gói cho vay ưu đãi này chắc chắn không có tác động đáng kể đến mặt bằng lãi suất cho vay.

Tóm lại, do các hạn chế về động cơ, nguồn lực, công cụ thực thi, room tín dụng, đường hướng chính sách tiền tệ, đối tượng/phạm vi tác động... nên lãi suất cho vay chắc chắn sẽ tăng lên khi lãi suất huy động tăng lên. Nói cách khác, hiệu quả của việc ‘bình ổn’ lãi suất cũng sẽ chỉ tương tự như hiệu quả của các cuộc ‘bình ổn’ giá cả các loại hàng hóa nói chung mà thường kết thúc trong sự tăng giá không thể cưỡng lại theo đà tăng giá chung của hàng hóa, dịch vụ (tức lạm phát).

------

https://cafef.vn/lanh-dao-nhnn-noi-gi-ve-viec-binh-on-lai-suat-cho-vay-sau-khi-tang-tran-lai-suat-huy-dong-20221001210208407.chn 

Wednesday 5 October 2022

Chuyện phiếm về nhập khẩu lạm phát (Bài đăng trên KTSG, 5/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/chuyen-phiem-ve-nhap-khau-lam-phat/

Cách đây vài năm, nhân đợt “sóng gió” về tỷ giá ở Việt Nam, có nhà báo kỳ cựu viết thư hỏi lý do tại sao đồng yen Nhật cũng có nhiều đợt mất giá mạnh mà lạm phát Nhật vẫn cứ dừng ở mức rất thấp, cận 0, đi ngược lại với hiểu biết thông thường rằng tỷ giá tăng sẽ làm hàng nhập khẩu đắt đỏ hơn, kéo theo lạm phát trong nước tăng lên. Từ mà Việt Nam thường dùng để chỉ hiện tượng này là nhập khẩu lạm phát.

Không nhớ chính xác đã trả lời nhà báo những gì. Nhưng cũng giống như trong các cuộc tranh luận với nhiều người khác sau này ở Việt Nam về cùng đề tài, có lẽ một số ví dụ về hiệu ứng thay thế hàng nhập khẩu, thay thế hàng bị đội giá vì lạm phát hay vì tỷ giá đã được sử dụng để minh họa với nhà báo tại sao nhập khẩu lạm phát không nhất thiết phải xảy ra đúng như cơ chế trên.

Tình cờ hôm trước có đọc được bài báo viết về nước Moldova ra mắt website phân phối củi để giúp người dân tìm củi sưởi ấm. Có lẽ không ít bạn đọc sẽ thắc mắc, chuyện này thì liên quan gì đến nhập khẩu lạm phát mà bài viết này đang nói đến. Xin trả lời ngay là có, bởi từ củi thì sẽ suy ra... năng lượng và suy ra tiếp... lạm phát!

Chẳng là, theo bài báo, Moldova, một nước nghèo nhất ở châu Âu, phụ thuộc nặng nề vào khí đốt Nga và đang phải vật lộn với giá năng lượng đã tăng nhiều lần kể từ đầu năm khi chuẩn bị bước vào mùa đông. Giải pháp đối phó được Moldova đưa ra gồm chuyển từ dùng khí đốt sang dùng dầu cho hệ thống sưởi ở thủ đô Chisinau và dự định giảm 15% lượng tiêu thụ, và mở các cuộc đàm phán với Romania để tìm nguồn cung khí đốt với giá rẻ hơn. Tuy không nêu rõ trong bài báo, nhưng việc phân phối củi cho dân chúng ở Moldova cũng là một cách thay thế khí đốt, năng lượng nhập khẩu đắt đỏ hơn. Lưu ý thêm rằng tỷ giá đồng Leu, tiền Moldova, cũng đã tăng 9% so với cuối năm trước, càng khuếch đại giá năng lượng nhập khẩu của nước này.

Điều chúng ta thấy được ở đây là khi một mặt hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, vì giá nhập khẩu bằng đô la Mỹ đã tăng lên, và/hoặc vì tỷ giá tăng lên kéo theo giá bán trong nước của mặt hàng đó bằng nội tệ cũng tăng lên thì người tiêu dùng phải lựa chọn một vài trong số các lựa chọn gồm tiếp tục mua như không có gì xảy ra nếu “nhà không có gì ngoài tiền”, hoặc phải “thắt lưng buộc bụng” cắt giảm chi tiêu cho mặt hàng đó, hoặc chuyển sang dùng các mặt hàng có tính năng, công dụng tương đương nhưng giá rẻ hơn.

Trong ví dụ về Moldova, nước này đã nghiêng về lựa chọn hai và ba, vừa cắt giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng, khí đốt (nhập khẩu), vừa tìm cách mua khí đốt giá rẻ hơn từ Romania (nhưng tất nhiên vẫn là khí đốt giống như từ Nga), đồng thời tạo điều kiện cho dân chuyển sang dùng củi, là thứ hàng bản địa, giá rẻ, và quan trọng hơn, tự cung tự cấp được, không phụ thuộc vào hàng nhập khẩu (hay tỷ giá), dù có thể chất lượng và độ tiện dụng không bằng hàng nhập khẩu.

Với các cách đối phó trên, lượng khí đốt sử dụng cũng như chi phí trung bình cho một đơn vị năng lượng được sử dụng tại Moldova sẽ phải thấp hơn đáng kể nếu so khi dựa vào năng lượng nhập khẩu có giá đắt đỏ từ Nga và các nguồn khác như hiện tại.

Tương tự như vậy là điều có thể xảy ra với các loại hàng hóa có thể trao đổi mậu dịch khác, chẳng hạn như hàng công nghiệp. Điều này có nghĩa là kênh tỷ giá có thể chỉ truyền dẫn một phần ảnh hưởng, nếu có, của giá cả gia tăng từ nhập khẩu lên mặt bằng giá cả trong nước. Nói cách khác, tỷ giá tăng cũng không nhất thiết làm tăng (đáng kể) mặt bằng lạm phát trong nước, nếu người dân tiết giảm tiêu dùng, và tích cực sử dụng hàng thay thế hàng nhập khẩu (với giá đắt) như ở trong ví dụ về củi và khí đốt ở Moldova, hay ví dụ rất thuyết phục là Nhật.

Chưa hết, “tác dụng phụ” của tỷ giá tăng không chỉ dừng lại ở việc chuyển sang tiêu dùng các mặt hàng nội địa thay vì hàng nhập khẩu. Tỷ giá tăng còn tạo hiệu ứng phân bổ lại các nguồn lực trong nước hướng đến các ngành sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các ngành này lên trình độ cao hơn. Bởi vậy mà không mấy nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển, muốn để đồng tiền của mình lên giá so với các nước đối tác khác khi muốn phát triển sản xuất, cung ứng trong nước.

Cũng trong ví dụ về ngành khí đốt, xăng dầu. Giá năng lượng hóa thạch nhập khẩu đắt đỏ đã buộc nhiều nước tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế xăng dầu, khí đốt, dẫn đến sự lên ngôi của các nguồn năng lượng tái tạo, sạch. Đây là điều tốt lành không chỉ từ khía cạnh an ninh năng lượng mà còn về mặt bảo vệ môi trường, vốn là cái mà nhiều nước, nhiều ngành đang phải bỏ tiền ra mua.

Tóm lại, trong cái rủi có cái may. Khi một nước buộc phải để tỷ giá tăng như một dấu hiệu gây quan ngại đến ổn định vĩ mô, nó cũng đồng thời bù đắp lại cho nền kinh tế trong nước bằng một số lợi ích không hề nhỏ.

Tuesday 4 October 2022

Quản lý kỳ vọng giữa thời bất định (Bài đăng trên KTSG, 5/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/quan-ly-ky-vong-giua-thoi-bat-dinh/

Mỗi ngày qua đi thế giới lại đón nhận thêm những bất ổn, và triển vọng kinh tế càng thêm bất định. Việt Nam chắc chắn sẽ bị cuốn vào trạng thái bất định này nên càng không thể “quyết liệt” theo đuổi những kỳ vọng duy ý chí đã và đang đặt ra.

Nhận diện thách thức

Thách thức đầu tiên cho kinh tế Việt Nam mà nhiều người đã/sẽ chỉ ra, đó là ổn định tỷ giá. Bởi Mỹ đã, đang và sẽ còn tiếp tục mạnh tay nâng lãi suất, làm tăng tỷ giá USD với hầu hết mọi bản tệ trên thế giới, trong đó có tiền đồng. Lý do được cho là ổn định tỷ giá cũng là (nền tảng) ổn định vĩ mô. Ổn định tỷ giá sẽ kiềm chế lạm phát bởi sẽ không làm tăng giá cả hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, không làm tăng nợ công của Việt Nam. Chi ly hơn, không ít người cho rằng ổn định tỷ giá còn góp phần thu hút, giữ chân đầu tư/dòng vốn nước ngoài.

Dẫu không phải là không có lý, nhưng ổn định tỷ giá bằng cách nào (mà không bị tổn thất nặng nề)? Với đa phần thì chưa... nghĩ ra, dù cứ hô hào thế đã. Một số khác thì viện đến quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã... từng đạt mức cao kỷ lục hồi đầu năm nay để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mang ra bán can thiệp nếu cần. Số ít khác sáng suốt cho rằng ngoài dự trữ ngoại hối, còn có dòng vốn đầu tư trực tiếp/gián tiếp nước ngoài (FDI/FII) và kiều hối cũng có thể giúp thị trường tự cân bằng. Cũng có một vài người kiến nghị NHNN nâng lãi suất.

Nhưng bán ngoại tệ can thiệp thì chẳng mấy chốc mà quỹ sẽ “bay hơi” hết bởi Mỹ cũng rất “quyết liệt” nâng lãi suất của họ cho đến cùng, đồng nghĩa với cuộc chiến tỷ giá không mong muốn này có kết cục đã rõ. Nên nhớ thêm rằng việc can thiệp này cũng giống như “kiếm củi ba năm thiêu một giờ” bởi thặng dư thương mại cả năm của Việt Nam chỉ chừng vài tỷ đô la.    

Trông chờ vào FDI/FII và kiều hối để thị trường tự cân bằng thì hiển nhiên là không xong, không đủ, bởi thực tế là tỷ giá vẫn cứ xu hướng tăng dù NHNN đã phải can thiệp bán ra ngoại tệ đến cả trên hai chục tỷ đô la.

Còn việc nâng lãi suất của NHNN (và đã nâng mới đây) thì lại “phạm” phải chủ trương/nghị quyết quyết liệt hỗ trợ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam đặt ra ngay từ đầu năm và vẫn được nhấn mạnh hiện tại. Bởi vậy mới có chuyện Thủ tướng Chính phủ “bật đèn xanh” nâng lãi suất điều hành nhưng lại yêu cầu nghiên cứu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ phục hồi kinh tế.

Về lạm phát, nhiều người cho rằng lạm phát chưa/không phải là mối bận tâm lớn, bởi nó còn thấp (hơn mục tiêu 4%) ở Việt Nam do lý do này kia. Nhưng bất định đi liền với những biến cố mới nhất gồm bất ổn và gián đoạn nguồn cung lương thực toàn cầu, và lệnh tổng động viên ở Nga đẩy cuộc chiến Nga-Ukraine leo thang tiếp tục giáng đòn mạnh vào chuỗi cung ứng toàn cầu vốn đã và đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính sách không khoan nhượng Covid của Trung Quốc sẽ làm cho mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% của Việt Nam may thì về đích trong năm nay chứ không phải là sang năm sau (với giả định là con số thống kê lạm phát của Việt Nam là khả tín).

Về phục hồi, tăng trưởng kinh tế, nhìn chung là có một thái độ rất lạc quan ở Việt Nam đối với mục tiêu này. Tuy những biến cố và nguy cơ ngày càng tăng về một cuộc suy thoái toàn cầu, đi kèm với tăng lãi suất trong nước là những thách thức nghiêm trọng cho tăng trưởng Việt Nam trong thời gian tới, nhưng cũng có một số ý kiến cho rằng Việt Nam vẫn vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định vĩ mô được nhờ vị thế tài khóa của Việt Nam “tương đối tốt”, do đó không phải dựa nhiều vào chính sách tiền tệ.

Thực tế không hẳn vậy, bởi thâm hụt ngân sách giảm hay có thặng dư từ đầu năm đến nay chủ yếu là nhờ các khoản chi (đầu tư công, các gói hỗ trợ...) đã và đang bị ngừng đọng, chậm chễ như trêu ngươi. Nợ công vẫn đang tăng lên về mặt tuyệt đối, và có khả năng sẽ tăng lên cả về mặt tương đối (so với GDP) bởi sự sụt giảm tỷ lệ nợ công/GDP mấy năm trước chủ yếu là nhờ lãi suất huy động giảm mạnh, nhưng chắc chắn sẽ tăng trở lại từ năm nay.

Cần kỳ vọng thực tế

Phân tích trên cho ta thấy được vấn đề: Nhiều mục tiêu, chủ trương đã được đặt ra một cách lạc quan, và, quan trọng hơn, đang mâu thuẫn, triệt tiêu nhau do tính liên quan của các yếu tố cơ sở. Do đó, cần thiết phải thay đổi và đặt ra các kỳ vọng mang tính thực tế hơn.

Ổn định tỷ giá tuy có thể là tốt nếu xét trên một vài khía cạnh riêng biệt, nhưng xem ra “lực bất tòng tâm” ở Việt Nam như đã nói, nên chắc chắn sẽ không thể thực hiện được ít nhất cho đến khi Mỹ ngừng tăng lãi suất. Do đó, tỷ giá sẽ phải để cho đi lên trong khả năng can thiệp có hạn của NHNN (cụ thể ở mức nào thì phải thông qua công cụ lãi suất, căn cứ chủ yếu vào diễn biến lạm phát). Kỳ vọng tỷ giá vì thế cần phải thay đổi để phù hợp với thực tế hơn. Đừng phi lý chí ổn định bằng mọi giá hay đánh đồng ổn định tỷ giá với ổn định vĩ mô, khi chỉ dựa vào tác động được cho là tích cực lên từng khía cạnh riêng lẻ như giữ chân dòng vốn ngoại, kiềm chế lạm phát... Xin hãy nghĩ đến cái giá phải trả đắt đỏ khi cố gắng can thiệp, ổn định tỷ giá.  

Tăng lãi suất, một phương thuốc điều trị tiêu chuẩn mà thế giới đang thực hiện, tuy sẽ giúp đạt đồng thời hai mục tiêu là hỗ trợ tỷ giá và kiềm chế áp lực lạm phát trong và ngoài nước nhưng sẽ ảnh hưởng đến khả năng phục hồi và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Phương thuốc này sẽ vấp phải áp lực chống đối đến từ mục tiêu tăng trưởng cao và áp lực giải ngân các gói hỗ trợ tài chính có chủ trương từ lâu nhưng được triển khai quá chậm chễ nên đã trở nên lỗi nhịp, càng làm trầm trọng thêm vấn đề.

Vì vậy, các kỳ vọng liên quan cần được điều chỉnh. Nếu đã xác định đúng được rằng lạm phát mới là thách thức lớn nhất cho kinh tế Việt Nam, như được Thống đốc NHNN xác nhận hôm 22/9, thì cần đặt kỳ vọng thấp hơn về tăng trưởng kinh tế, ít nhất là từ năm sau, để tránh tự làm khó cho chính mình. NHNN lúc này nên được giao nhiệm vụ chú trọng vào, và trao nhiều quyền tự chủ trong chính sách kiếm soát lạm phát, với vị thế độc lập như Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) với chính quyền Mỹ.

Nhưng nếu vì một quyết tâm nào đó mà không thể chấp nhận một mức tăng trưởng thậm chí có khả năng ở mức rất khiêm tốn thì cần phải biết thống nhất và chấp nhận một sự thỏa hiệp trên tất cả các chỉ số vĩ mô liên đới là tỷ giá, lãi suất, lạm phát, tăng trưởng và nợ công.

Tuy vậy, phát biểu trước thềm của đợt nâng lãi suất lần thứ ba liên tiếp mới đây của Chủ tịch Fed “Chúng ta bắt buộc phải chiến thắng lạm phát. Tôi ước rằng có một cách ít đau đớn hơn để làm điều đó. Nhưng tiếc là không có” là một tham khảo chính sách đáng giá cho Việt Nam trong bối cảnh hiện tại và sắp tới.

Sunday 2 October 2022

Đầu tư khi lãi suất tăng (Bài đăng trên KTSG, 2/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/dau-tu-khi-lai-suat-tang/ 

    Như thường lệ, sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức công bố tăng các lãi suất điều hành cũng như trần lãi suất huy động ngắn hạn (dưới sáu tháng) thêm 1 điểm phần trăm từ ngày 23-9-2022, việc nên đầu tư vào đâu lại được hâm nóng.

    Và cũng như thường lệ, tình hình hoạt động của các thị trường tài sản truyền thống được mang ra mổ xẻ, phân tích để chọn ra và khuyến nghị thị trường nào khả quan nhất ở trên khía cạnh là sẽ mang lại lợi nhuận tiềm năng lớn nhất cho nhà đầu tư có một số tiền nhàn rỗi nào đó đang băn khoăn chuyện bỏ tiền vào đâu cho tối ưu, sau khi một trong những thị trường đầu tư là tiền gửi đã “có biến”, làm thay đổi cán cân lợi nhuận với các thị trường đầu tư truyền thống khác(1).

    Tuy nhiên, vấn đề với các phân tích và khuyến nghị nói trên là chúng dựa trên một tiền đề không đúng rằng lãi suất chỉ tăng từ ngày 23-9 là ngày mà NHNN công bố tăng lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động ngắn hạn.

    Trên thực tế, lãi suất huy động (và cho vay) của các ngân hàng thương mại đã tăng đáng kể từ đầu năm nay, kể cả ngắn hạn và dài hạn (xem hình).

    Tương tự, lãi suất liên ngân hàng cũng đã tăng đáng kể từ vài tháng nay, thậm chí còn vọt lên mức cao kỷ lục trong cả thập kỷ qua.

    Các lãi suất điều hành của NHNN tuy trên giấy tờ mới chỉ tăng lại từ ngày 23-9, nhưng trên thực tế chúng cũng đã được tăng mạnh bởi NHNN ít nhất từ hồi tháng 6 trở đi, trên các thị trường mở và tín phiếu ngân hàng, với mức tăng lên đến vài điểm phần trăm.

    Sẽ có người lập luận rằng lãi suất huy động thực tế có tăng chỉ là đối với các kỳ hạn từ sáu tháng trở lên, bởi NHNN không áp trần lãi suất huy động với các kỳ hạn này. Lãi suất huy động ngắn hạn, dưới sáu tháng, cho đến trước ngày 23-9 vẫn bị khống chế bởi trần lãi suất huy động, nên thực sự sẽ chỉ tăng (từ 0,3 đến 1 điểm phần trăm) từ ngày 23-9 mà thôi.

    Về lập luận trên, người viết bài này có người nhà đã “mặc cả” thành công lãi suất tiền gửi dài hạn (12-15 tháng) và đã gửi tiền với lãi suất từ 7,8-8,1%/năm tại hai ngân hàng thương mại từ cách đây nhiều tháng, lúc mà các thống kê trên báo chí cho thấy lãi suất tiền gửi cao nhất công bố tại các ngân hàng thương mại với số tiền gửi dăm tỉ đồng trở xuống chỉ quanh quẩn 7%.

    Nói điều này để cho thấy lãi suất tiền gửi trên thực tế là thứ có thể mặc cả được, kể cả với các kỳ hạn dưới sáu tháng bị khống chế bởi trần lãi suất của NHNN. Các ngân hàng luôn có cách “lách” để trả lãi suất cao hơn mức công bố/trần (với hai ngân hàng mà người nhà người viết đã gửi thì họ trả lại luôn một phần tiền lãi khi nhận tiền gửi để đảm bảo lãi suất trên sổ sách vẫn… thấp).

    Các diễn biến thực tế về lãi suất nêu trên cho thấy việc coi ngày 23-9 là mốc khởi đầu cho xu hướng lãi suất tăng ở Việt Nam là không chính xác. Thay vào đó, phải coi thị trường tiền gửi với biến số lãi suất đã biến động mạnh ít nhất là từ đầu quí 2 năm nay, nếu không muốn nói là từ đầu năm nay như đã thấy.

    Bởi vậy, các phân tích dựa trên các so sánh lợi suất/lợi nhuận tiềm năng từ các kênh đầu tư khác với kênh tiền gửi như hiện nay là lỗi thời, không chính xác. Thậm chí cần phải nghĩ rằng có khi chính vì lãi suất tiền gửi thực tế đã bắt đầu tăng ngay từ đầu năm nay nên đã làm cho thị trường chứng khoán và trái phiếu trở nên kém hấp dẫn hơn, dẫn đến sự lao dốc của các chỉ số chứng khoán hay tăng mạnh của lợi suất trái phiếu.

    Với nhận thức mới rằng cơ hội đầu tư vào tiền gửi so với các kênh đầu tư khác phần lớn đã được phản ánh ngay từ hồi đầu năm, vẫn còn đáng kể cơ hội cho các thị trường tài sản truyền thống khác.

    Nhìn chung, thị trường chứng khoán sẽ tiếp tục bị thử thách bởi nền kinh tế thế giới và Việt Nam đang ngày càng phải đối mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm lại, làm cho các ngành/lĩnh vực có tính đầu cơ tiếp tục bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, cơ hội trên thị trường chứng khoán vẫn còn đó kể cả cho các ngành/lĩnh vực này nếu giá các cổ phiếu này đã sụt giảm mạnh, xuống đến mức có thể xem xét đầu tư.

    Đối với bất động sản, cũng tương tự, sự chững lại của thị trường này ở nhiều khu vực cho thấy ảnh hưởng đã từ nhiều tháng nay của lãi suất tăng và việc siết tín dụng bất động sản của các ngân hàng. Tuy nhiên, thời điểm này và trong các tháng tới sẽ là cơ hội cho một số nhà đầu tư bởi một số chủ nhà/đất hiện tại có dư nợ vay ngân hàng/trái phiếu bất động sản không thể “gồng” lãi suất thêm được nữa.

    Kênh trái phiếu xem ra có nhiều hứa hẹn vì các doanh nghiệp phát hành ngày càng khó vay ngân hàng hơn (và với lãi suất thấp) nên sẽ phải đẩy mạnh huy động vốn qua kênh này, với lãi suất cao hơn. Tuy vậy, trước khi xuống tiền, nhà đầu tư luôn phải biết mức rủi ro của kênh này là cao hơn nhiều so với tiền gửi ngân hàng để cân nhắc xem một vài điểm phần trăm lãi suất cao hơn của trái phiếu so với tiền gửi ngân hàng có đáng hay không.

    Còn với vàng, cũng giống như chứng khoán, hiện đã tỏ ra không còn mấy hấp dẫn nữa trong bối cảnh suy thoái và lãi suất cao khắp nơi trên thế giới. Nhưng vì giá vàng (thế giới) cũng đã sụt giảm mạnh trong thời gian này nên nhà đầu tư nào xác định được đáy của giá vàng sẽ dễ có cơ hội gặt hái lợi nhuận lớn so với các kênh khác.

    (1) https://markettimes.vn/xu-huong-dong-tien-co-co-den-tay-tien-gui-4432.html

    Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

    (Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

    19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
    http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

    18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
    http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

    17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

    16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
    (http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

    15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
    (http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

    14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
    (http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

    13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

    12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

    11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

    10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

    9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
    (http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

    8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
    (http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

    7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
    (www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

    6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
    (http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

    5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

    4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

    3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

    2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

    1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).