Tuesday 23 November 2021

Giao dịch bất động sản phải thông qua sàn – vì sao? (Bài đăng trên KTSG, 22/11/2021)

https://thesaigontimes.vn/giao-dich-bat-dong-san-phai-thong-qua-san-vi-sao/

Đề cương Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) của Bộ Xây dựng có quy định bắt buộc các chủ đầu tư dự án bất động sản (BĐS) phải thực hiện bán, chuyển nhượng, cho thuê mua, cho thuê nhà ở, công trình xây dựng thông qua sàn giao dịch (đến 80% số lượng sản phẩm).

Một quy định tương tự đã từng hiện diện trong Luật Kinh doanh bất động sản 2006 để rồi bị bãi bỏ trong Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

Sàn giao dịch bất động sản của ai?

Để hiểu nguồn cơn của việc hết đưa vào, đưa ra, rồi lại đưa vào Luật Kinh doanh bất động sản điều khoản bắt buộc nói trên thì có lẽ cần phải hiểu trước tiên sàn giao dịch bất động sản mà đề cương luật đề cập là của ai, do ai điều hành, kiểm soát.

Rõ ràng nó không phải là 1.600 sàn giao dịch bất động sản đủ loại, đủ kiểu hiện nay, hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân, mà Bộ Xây dựng đã thống kê (1). Bởi theo bộ này thì hiện có nhiều vấn nạn liên quan đến việc thành lập và hoạt động của các sàn loại này.

Do đó, có khả năng trong tương lai sẽ có một vài nghị định của Chính phủ nhằm thành lập các sàn bất động sản thuộc sở hữu nhà nước và do nhà nước quản lý. Khả năng này được củng cố thêm khi Bộ Xây dựng đề cập rằng: “...Pháp luật hiện hành chưa có quy định về hệ thống mạng lưới sàn giao dịch bất động sản do nhà nước trực tiếp quản lý (1).

Cùng với “phong trào” thành lập (hoặc đang đề xuất thành lập) sàn giao dịch do Nhà nước trực tiếp quản lý (và sở hữu) cho một số loại hàng hóa khác, như sàn giao dịch nợ xấu, hay sàn giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, thì sẽ là không mấy ngạc nhiên khi thấy nối tiếp việc thông qua Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi sẽ nhanh chóng có một nghị định quy định việc thành lập (hệ thống mạng lưới) sàn giao dịch bất động sản do nhà nước trực tiếp quản lý (và sở hữu).

“Kiện toàn” các sàn tư nhân

Bất động sản không phải là một hàng hóa đặc thù, kém phổ thông như nợ xấu nên sàn giao dịch bất động sản đã tồn tại từ lâu, và tất nhiên là thuộc tư nhân, ít “được” nhà nước trực tiếp quản lý. Bởi vậy, cho dù sau này Nhà nước có cho ra đời các sàn giao dịch do Nhà nước trực tiếp quản lý thì Nhà nước cũng không thể lấy đó làm lý do để dẹp bỏ mọi sàn giao dịch tư nhân. Do đó, để nâng cao vị thế chi phối của các sàn nhà nước, sẽ cần phải có động thái pháp lý co hẹp hoạt động của các sàn tư nhân. Điều này sẽ được thực hiện thông qua đề xuất quy định xiết chặt các điều kiện để thành lập và hoạt động của các sàn tư nhân (1).

Trong lúc chờ đợi sự ra đời của các sàn giao dịch bất động sản của Nhà nước thì việc “kiện toàn” các sàn tư nhân với các điều kiện ngặt nghèo sao cho chỉ có một số lượng ít hơn nhiều các sàn tư nhân có thể ra đời và hoạt động cũng là một điều nằm trong dự tính của nhà làm luật, bởi vì rõ ràng việc quản lý, điều khiển theo “định hướng” một số lượng ít hơn các sàn, ví dụ một vài chục, sẽ là dễ dàng hơn nhiều so với quản lý 1.600 sàn như hiện nay.

Liệu có tốt hơn?

Các động thái trù tính trên một phần cũng xuất phát từ việc Bộ Xây dựng “bắt bệnh” rằng các sàn bất động sản tư nhân hiện nay chính là nguồn gốc của các vấn nạn như “ôm hàng”, “thổi giá” ăn chênh lệch, gây lũng đoạn thị trường. Trong khi đó, việc không quy định bắt buộc giao dịch phải thông qua sàn giao dịch bất động sản đã tạo cơ sở cho việc hình thành những dự án ma, các vụ việc lừa đảo từ chủ đầu tư không tuân thủ quy định phátp luật. Nhưng hậu quả có vẻ nghiêm trọng hơn là Nhà nước “gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí không quản lý được thông tin về thị trường bất động sản đúng với những gì đang diễn ra; tình trạng thất thu thuế, thất thu ngân sách cho Nhà nước”. Đồng thời, việc không bắt buộc giao dịch bất động sản phải đưa lên sàn – là một trong những nơi phải báo cáo về các giao dịch lớn, giao dịch đáng ngờ theo Luật Phòng chống rửa tiền – đã gây ra những khó khăn trong công tác thu thập thông tin, số liệu về các giao dịch trên thị trường bất động sản, không phù hợp với luật này... (1)

Như vậy, có thể liên hệ những vấn đề trên để đưa ra một cái nhìn tổng quát rằng Bộ Xây dựng, Chính phủ thực ra chỉ muốn, chỉ nhằm đạt được lợi ích, thuận lợi cho chính họ, theo đúng nguyên tắc “không quản được thì cấm”.

Những “lợi ích” mà doanh nghiệp và người dân có thể được hưởng, theo Bộ Xây dựng, từ việc “kiện toàn” các sàn giao dịch và buộc chủ đầu tư đưa sản phẩm lên sàn giao dịch như người tiêu dùng có một kênh tham khảo thông tin và một tổ chức chính thống để thẩm định, thẩm tra sản phẩm... chẳng qua cũng chỉ là để cho có vẻ “hài hòa” về lợi ích hơn mà thôi. Bởi đơn giản nếu chỉ vì mục đích này thì tại sao Bộ Xây dựng không quy định các chủ đầu tư phải cung cấp thông tin sản phẩm và giao dịch trực tiếp cho Bộ/Sở/Phòng Xây dựng để nếu người tiêu dùng muốn tra thông tin thì sẽ ra ngay, tương tự như tra thông tin về quy hoạch sử dụng đất đai, thay vì cứ phải qua sàn?   

Tóm lại, việc “kiện toàn” các sàn giao dịch hiện tại, khả năng thành lập các sàn giao dịch Nhà nước, và việc bắt buộc các chủ đầu tư phải đưa sản phẩm lên sàn giao dịch là một ý đồ xuyên suốt nhằm kiểm soát tối đa và “gặt hái”, khai thác triệt để thị trường bất động sản cả nước thông qua kiểm soát và điều khiển các sàn giao dịch bất động sản với số lượng không còn nhiều sau “kiện toàn”, và càng thuận lợi hơn nếu có sự ra đời của các sàn giao dịch Nhà nước.

Tuy nhiên, ý đồ này có thành hiện thực hay không và với kết quả tốt, theo mong muốn hay không thì lại là chuyện khác. Kinh nghiệm “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mãi chưa xong nhiều chục năm qua cho thấy ngành nào, lĩnh vực nào Nhà nước càng tìm cách độc quyền, thâu tóm, kiểm soát và chi phối, nhất là qua những doanh nghiệp hay cánh tay nối dài của Nhà nước, mà không thực chất vì quyền lợi của người dân và doanh nghiệp thì sớm muộn sẽ phải chứng kiến sự thất bại và cải cách, mở cửa sau đó.

----           

(1) https://phaply.net.vn/bo-xay-dung-de-xuat-sua-luat-ngan-chan-thoi-gia-bat-dong-san-a253512.html


Sunday 21 November 2021

Lan man về tài sản ảo (Bài đăng trên KTSG, 21/11/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/lan-man-ve-tai-san-ao/

Gầy đây, thông qua công việc mới là xây dựng khuôn khổ quản lý rủi ro và phê duyệt tín dụng, tôi có dịp tiếp xúc và thẩm định nhiều công ty kinh doanh, cho vay, cầm cố, giám hộ các loại tài sản ảo (virtual assets), là các loại tiền mã hóa, từ bitcoin đến ethereum và hàng trăm đồng tiền các loại khác như Shiba Inu... ở khắp thế giới. Có ở bên trong mới biết đây là cả một thế giới rộng lớn và đang phát triển mạnh mẽ từng giờ, từng ngày, và rất... béo bở!

Một công ty loại này có trụ sở ở New York, mới mở chi nhánh ở Singapore và London gần đây. Hồi cuối tháng 9, tổng dư nợ cho vay các loại tiền mã hóa của họ tính theo đô la Mỹ mới chỉ là hơn 11 tỷ đô la Mỹ, với biên độ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động khoảng trên 2 điểm %, với tổng số nhân viên khoảng 140 người ở các châu lục. Đến thời điểm hiện tại, sau chưa đầy hai tháng, tổng dư nợ đã tăng trên 16 tỷ đô la. Tính trên biên độ chênh lệch lãi suất 2 điểm % thì doanh thu sơ bộ đã đến cả triệu đô la/ngày và dăm bảy ngàn đô la/nhân viên/ngày.     

Đấy mới chỉ là mảng cho vay, chưa kể đến doanh thu từ các mảng kinh doanh khác như trading (bản thân công ty cũng có một nền tảng trading các loại tiền ảo với đội ngũ trader chuyên nghiệp), môi giới, cầm cố và giám hộ tài sản (cũng là các loại tiền mã hóa).

Công ty đang đẩy mạnh tuyển dụng thêm hàng trăm người tại các châu lục để đáp ứng nhu cầu kinh doanh tiền ảo 24 giờ/7 ngày/tuần ở khắp thế giới mà một mình trụ sở chính ở New York không thể kham nổi. Cho đến hiện tại, phần lớn hoạt động của công ty đều diễn ra trực tuyến, nhân viên vẫn làm việc từ xa đến hơn một năm nay.

Sự tăng trưởng dốc ngược như vậy đã tạo điều kiện cho công ty đãi ngộ nhân viên rất tốt qua các chế độ phúc lợi, lương, thưởng... trội hơn hẳn các công ty địa phương, và đủ hấp dẫn để lôi kéo nhân viên từ cả các tổ chức tài chính hàng đầu như Goldman Sachs, JPMorgan, và Morgan Stanley ở New York, Singapore và London về làm việc cho họ.

Điều cũng đáng nói là chính sách hoạt động của công ty rất minh bạch, tự nguyện tuân thủ hoàn toàn các quy định pháp luật ở những nơi, những nước nó có hoạt động kinh doanh. Nhân viên được tăng cường các khóa đào tạo về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo qua mạng và các quy chế hoạt động tuân thủ khác (compliance).

Xét về bản chất, hoạt động kinh doanh của công ty không khác gì các công ty kinh doanh hàng hóa khác như dầu mỏ, kim loại, chứng khoán và phái sinh, và các công ty tài chính cầm đồ, cho vay tiêu dùng tín chấp..., với khác biệt chỉ là loại tài sản được mang ra kinh doanh mà thôi. Chính vì vậy, nhân viên trong công ty này hay những đối thủ/đối tác không hiếm khi có xuất thân là các trader từ các công ty kinh doanh hàng hóa và công ty tài chính hay ngân hàng thương mại thông thường.  

Nói lan man như vậy để cho thấy những nước nào đi đầu, hoan nghênh, chủ động và tích cực đón nhận những startup, những công ty kinh doanh tài sản ảo như Singapore thì sẽ gặt hái được nhiều lợi ích cho quốc gia. Lợi ích này không chỉ đến dưới dạng công ăn việc làm với thu nhập cao cho công dân và nguồn thuế và chi tiêu thu được từ công ty và nhân viên. Hơn thế, những nước đi đầu này còn xây dựng được thành công hình ảnh là một trung tâm tài chính cực kỳ sôi động, hiệu quả, và minh bạch, tuân thủ các quy chế phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố của quốc tế, ngày càng trở nên thỏi nam châm hấp dẫn dòng tiền đầu tư nước ngoài đổ vào đây.

Tất nhiên, không phải nước nào cũng có một cái nhìn xa, thoáng đạt và cởi mở về việc kinh doanh các tài sản ảo như Singapore, Hong Kong. Trung Quốc và Việt Nam là một số trong đó. Nhưng đằng sau lập trường chính sách “nói không” với tài sản ảo, tiền mã hóa như của Việt Nam không hiếm khi là lý do đơn giản rằng nhà quản lý thực ra không hiểu rõ bản chất tài sản ảo, đánh đồng mọi loại tiền mã hóa (và rủi ro đi kèm) với “tiền” do mấy cái nền tảng tiền ảo lừa đảo nở rộ trong thời gian qua ở Việt Nam và nhiều nước. Khi đã không hiểu rõ bản chất, lợi ích và rủi ro, lại phải đương đầu với hàng loạt vụ lừa đảo thì phản ứng chính sách thường thấy (và có thể hiểu được, thông cảm được) là... cấm luôn “cho nó lành”! Cũng bởi vậy mà cơ quan quản lý chức năng cho đến tận gần đây vẫn không công nhận các loại tiền mã hóa, tiền ảo và cấm dùng tiền mã hóa/ảo làm phương tiện thanh toán.

Lý do này có vẻ đúng với Việt Nam hơn. Một trong những biểu hiện của việc không, chưa hiểu đúng bản chất và lợi ích cũng như rủi ro gắn với tiền mã hóa là việc nhà quản lý đã từng lúng túng, nhầm lẫn về khái niệm cơ bản của tiền điện tử, tiền di động theo kiểu “là tiền nhưng không phải là tiền mà lại là tiền” (1).

Tất nhiên, còn một lý do khác khá “thâm sâu” mà những nước như Trung Quốc quyết liệt chống đối tiền ảo suốt từ năm 2013. Đó là vì họ từ lâu nay đã có ý đồ muốn loại bỏ khỏi cuộc chơi mọi đối thủ cạnh tranh cho đồng tiền ảo riêng của mình (tiền số ngân hàng trung ương) ra đời và độc quyền trong thế giới tiền ảo trong lãnh địa quốc gia.

Nhưng lý do trên xem ra không đúng với Việt Nam. Chỉ gần đây Chính phủ mới yêu cầu Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, xây dựng và thí điểm sử dụng tiền ảo (2). Bộ Tài chính cũng chỉ thành lập Tổ nghiên cứu về tài sản ảo, tiền ảo cách đây không lâu. Những điều này cho thấy thái độ và lập trường với tiền ảo, tài sản ảo của Việt Nam cho đến tận gần đây vẫn chủ yếu được hình thành trên cơ sở nghi ngại, lo lắng mà chưa thấy được những lợi ích, xu hướng phát triển tất yếu của chúng.

Lập trường trên của Việt Nam không chỉ làm chúng ta chậm chễ, bỏ lỡ cơ hội gặt hái sự tăng trưởng bùng nổ của tiền ảo trong thời gian qua như những nước trong khu vực cụ thể là Singapore và Hong Kong đã và đang được hưởng. Điều quan trọng không kém là sự chậm chễ leo lên chuyến tàu mang tên tiền ảo đã làm giấc mơ biến TP.HCM thành một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế, cạnh tranh được với Singapore và Hong Kong một ngày không xa thành... thêm xa ngái!

----

(1) https://www.thesaigontimes.vn/td/296826/Roi-ram-tien-di-dong-tien-dien-tu.html/#286881   

(2) https://laodong.vn/kinh-te/ngan-hang-nha-nuoc-se-thi-diem-su-dung-tien-ao-cong-nghe-blockchain-925918.ldo

Friday 19 November 2021

Đưa trái phiếu doanh nghiệp lên sàn: khó khả thi (Bài đăng trên KTSG, 19/11/2021)

https://thesaigontimes.vn/dua-trai-phieu-doanh-nghiep-len-san-kho-kha-thi/

Bộ Tài chính đang dự thảo thông tư về sàn giao dịch dành cho trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành riêng lẻ. Theo đó, thông qua việc thành lập một sàn tập trung để giao dịch TPDN riêng lẻ, nhà quản lý nhắm mục đích giúp thị trường TPDN tăng mức độ thanh khoản, minh bạch và giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư hơn.

Quy định này là mới hoàn toàn so với hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn với thế giới. Nhưng điều đáng nói là, vì những lý do như nói dưới đây, quy định về bắt buộc đưa TPDN lên sàn giao dịch như của Việt Nam sẽ nhiều khả năng trở nên bất khả thi.

Trên thế giới, nhìn chung, TPDN nói chung được mua bán, trao đổi trên thị trường OTC (thị trường phi tập trung, chủ yếu thông qua các nhà môi giới trái phiếu, gồm các ngân hàng đầu tư, quỹ phòng hộ và cả các trader chăm giao dịch) thay vì được niêm yết để trao đổi trên sàn giao dịch tập trung. Hơn nữa, rất nhiều trong số các giao dịch liên quan đến TPDN được mua bán trên sàn giao dịch lại được thực hiện qua các thị trường OTC (1).

Có một số lý do giải thích tại sao TPDN chủ yếu được giao dịch, trao đổi qua thị trường OTC chứ không phải trên sàn giao dịch (do nhà nước tổ chức). Thứ nhất, thường thì số lượng (loại) TPDN sẽ nhiều hơn rất nhiều so với cổ phiếu doanh nghiệp (2). Ví dụ, hãng GE chỉ có một cổ phiếu nhưng có đến cả nghìn trái phiếu do GE phát hành với lợi suất, kỳ hạn và thậm chí cả đồng tiền phát hành khác nhau. Ở Mỹ, ước tính có khoảng 5.000 loại cổ phiếu được giao dịch trên các sàn tập trung, nhưng lại có đến hàng trăm ngàn TPDN – một con số quá lớn để có thể đưa lên các sàn giao dịch.                             

Ở Việt Nam, tình hình cũng (sẽ) không khác biệt nhiều. T              rên cả 2 sàn chứng khoán hiện nay có 742 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch cổ phiếu. Vậy mà đã có thời gian kéo dài nhiều tháng để xảy ra tình trạng ách tắc trên sàn HOSE. Tuy tình hình hiện nay đã được cải thiện, nhưng việc đưa toàn bộ TPDN, dù là phát hành riêng lẻ, của từng đó doanh nghiệp niêm yết (và sẽ nhiều hơn nữa trong tương lai) với đủ loại kỳ hạn, lợi suất, đồng tiền phát hành và có điều khoản mua lại hay không... chắc chắn sẽ gây “ngộp thở” cho bất cứ sàn giao dịch nào ở Việt Nam, vượt quá khả năng điều hành, theo dõi, giám sát, xử lý... của cơ quan quản lý, như được quy định chi tiết trong dự thảo hiện tại với nhiều đầu công việc cụ thể đối với từng loại TPDN của từng doanh nghiệp. Nói cách khác, tính đa dạng về loại và nhiều về số lượng làm cho việc quản lý tập trung giao dịch TPDN ở Việt Nam khó thành hiện thực, khó thoát khỏi xu hướng chung trên thế giới.

Lý do thứ hai để TPDN được giao dịch chủ yếu trên thị trường OTC là tần suất giao dịch. Giao dịch TPDN thường có tần suất nhỏ hơn nhiều so với cổ phiếu. Thường thì doanh số và tần suất giao dịch TPDN sẽ tăng cao trong một vài ngày sau khi được phát hành để rồi sau đó sẽ sụt giảm mạnh. Có những TPDN không được giao dịch trong nhiều tháng, thậm chí hàng năm liền vì không có nhu cầu mua bán phát sinh (một phần bởi thiếu tính hấp dẫn do bị xếp hạng tín dụng thấp, hay có tính phức tạp cao...). Tình trạng giao dịch thất thường, giật cục này cũng làm khó cho việc duy trì và điều hành sàn giao dịch dành cho TPDN.              

Như vậy, có thể thấy thị trường TPDN là một thị trường bán lẻ khá khác biệt với thị trường chứng khoán, và phụ thuộc chủ yếu vào các nhà đầu tư tổ chức (institutional investor). Nhà đầu tư nhỏ lẻ (retail investor) vẫn có sự hiện diện trên thị trường bán lẻ TPDN nhưng số lượng chắc chắn không có nhiều. Minh chứng là chỉ có 1,4% hộ gia đình Mỹ nắm giữ trực tiếp trái phiếu các loại. Số liệu này cho thấy các nhà đầu tư tổ chức mới là người nắm giữ đại bộ phận trái phiếu các loại, gồm cả trái phiếu Chính phủ và TPDN.

Dẫu vậy, thị trường trái phiếu nói chung và TPDN nói riêng đang từng bước chuyển mình nhờ điện tử hóa các giao dịch, tương tự như xu hướng xảy ra với chứng khoán. Nhiều trader trái phiếu đã cố gắng chuyển các giao dịch trên thị trường thứ cấp sang các nền tảng giao dịch và sàn giao dịch điện tử để cải thiện thanh khoản.

Các nền tảng điện tử này thường là nền tảng độc quyền (tư nhân) cho phép các nhà đầu tư thấy được giá chào mua-bán trái phiếu mà giới broker/dealer (môi giới/người giao dịch) đang nắm giữ. Phổ biến nhất trong số này là nền tảng đa môi giới, cho phép nhà đầu tư cùng lúc tiếp cận được các lời mời chào mua/bán của nhiều nhà môi giới, người giao dịch và những thành viên thị trường khác như các nhà đầu tư tổ chức. MarketAxess là một nền tảng như vậy (và xin nhấn mạnh là nó mang tính độc lập, thuộc sở hữu tư nhân), chiếm 13% tổng số các giao dịch của tất cả các loại TPDN ở Mỹ.

Nhưng nhìn chung, xu hướng đưa giao dịch trái phiếu lên nền tảng/sàn điện tử chỉ diễn ra từ từ, còn phần lớn trái phiếu nói chung vẫn đang và sẽ tiếp tục được thực hiện qua thị trường OTC, và do đó vẫn còn đó sự thiếu minh bạch và thanh khoản kém trên thị trường thứ cấp này nếu so sánh nó với thị trường/sàn chứng khoán.

Kết luận lại, do quy mô, tính chất, và đặc tính riêng của TPDN khác so với cổ phiếu nên tình trạng thiếu minh bạch và thanh khoản kém là điều tất yếu tồn tại trên thị trường TPDN. Mọi nỗ lực đưa thị trường TPDN vào vòng kiểm soát của nhà nước như được thể hiện thông qua dự thảo thông tư bằng việc đưa các giao dịch TPDN lên sàn giao dịch (tập trung, của nhà nước) sẽ là không hoặc có kết quả rất hạn chế. Thay vào đó, hãy khuyến khích và tạo điều kiện cho sự ra đời của các sàn/nền tảng giao dịch điện tử tư nhân để cải thiện phần nào tính minh bạch và khả năng thanh khoản cho các TPDN ở Việt Nam.     

----- 

(1) https://www.investopedia.com/ask/answers/09/bond-over-the-counter.asp#citation-4

(2) https://www.thirdway.org/report/the-bond-market-how-it-works-or-how-it-doesnt

Thursday 11 November 2021

Rối với đề xuất! (Bài đăng trên KTSG, 11/11/2021)

https://thesaigontimes.vn/roi-voi-de-xuat/

Đại dịch Covid-19 cùng với hậu quả nghiêm trọng để lại cho nền kinh tế đã dẫn đến nhiều giải pháp và đề xuất phục hồi và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Có điều, không ít trong số này mang tính hình thức mà thiếu tính thực tiễn, khả thi.

Chẳng hạn, gần đây có kiến nghị Chính phủ phải bình ổn giá xăng dầu để ổn định kinh tế vĩ mô, làm nền tảng triển khai các gói kích thích kinh tế sao cho vừa ổn định kinh tế vĩ mô, vừa kiểm soát được lạm phát.

Cơ sở cho kiến nghị này là chuỗi quan hệ từ giá xăng dầu gia tăng dẫn đến lạm phát tăng mạnh, gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô, làm tăng lãi suất, tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh, đóng băng thị trường bất động sản và chứng khoán... Kiểu quan hệ dây chuyền này được cho là đã xảy ra vào thời kỳ khủng hoảng, rối ren ở Việt Nam năm 2008.

Thiếu sót trong lập luận trên là giá xăng dầu chỉ là một trong nhiều yếu tố có thể gây ra lạm phát. Ở đây xin nhấn mạnh chữ có thể. Bởi, thực tế cho thấy trong nhiều thời kỳ, ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới (và thậm chí ngay ở Việt Nam), giá xăng dầu tăng vọt vì một nguyên nhân nào đó không nhất thiết dẫn đến lạm phát, nếu không muốn nói ngược lại là thiểu phát khi người tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu để đối phó với áp lực giá cả gia tăng.

Trên thực tế, cần thừa nhận rằng có mối quan hệ nhân quả giữa giá dầu và lạm phát cho đến những năm 80 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ này đã suy giảm đáng kể về mức độ khăng khít kể từ thời gian sau đó (1).

Một số lý do cho sự phai nhạt trong quan hệ giữa giá xăng dầu và lạm phát gồm, như đã nói, tác động nghịch chiều của giá xăng dầu lên mức chi tiêu của người tiêu dùng, sự điều hành hiệu quả hơn trong chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương, và rổ hàng hóa và dịch vụ đo lường lạm phát ngày càng dành trọng số lớn hơn cho dịch vụ chứ không phải là cho các loại hàng hóa mà giá cả bị trói với giá dầu (2).            

Riêng với Việt Nam, những năm khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ từ 2008 chủ yếu bắt nguồn từ sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô, gồm in tiền kích cầu kích cung vô tội vạ, đặc biệt là cho các “quả đấm thép” như Vinashin. Giá dầu tăng vọt trong thời kỳ này vì thế không nên bị quy là nguồn cơn của mọi bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong cùng kỳ với hậu quả kéo dài đến tận ngày nay như núi nợ xấu và sự yếu kém của nhiều ngân hàng thương mại.

Ngoài lỗ hổng trong lập luận, đề xuất bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam còn bất cập ở chuyện giải pháp thực thi và tính thực tiễn của chúng. Theo đó, giải pháp bình ổn xăng dầu được đề xuất gồm sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giảm một số loại thuế (tiêu thụ đặc biệt, bảo vệ môi trường...), và sử dụng nguồn thu dầu thô, vốn được cho là “đang tăng lên, có thời điểm tăng đến hơn 20%” mà không làm tăng thêm gánh nặng cho ngân sách.

Về Quỹ Bình ổn xăng dầu, vì nó không phải là được một bên/nước thứ ba nào đó cho không, mà chẳng qua chỉ là tiền túi của người tiêu dùng xăng dầu ứng ra trước, nên chừng nào còn duy trì trích lập và sử dụng quỹ này thì chừng đó người tiêu dùng còn bị tổn hại, và áp lực lạm phát từ giá xăng dầu tăng lên nền kinh tế và người tiêu dùng sẽ không hề mảy may giảm đi như đề xuất.

Kể cả khi áp dụng kiểu trích lập giảm đi, không phải là 300 đồng/lít xăng nữa, khi giá xăng dầu nhập khẩu tăng mạnh thì hành vi này cũng chỉ có tác dụng là giảm nhẹ áp lực lạm phát trong tương lai so với việc phải trích lập đủ 300 đồng/lít tại thời điểm hiện tại. Và về lâu về dài, với mục đích “bình ổn” thì quỹ này phải gia tăng trích lập mạnh hơn trong các kỳ sau để đạt quy mô “bình ổn” cần có trong tương lai, nên rốt cuộc trích lập và sử dụng quỹ này không hề có tác dụng tích cực đến ổn định giá cả.

Về việc giảm thuế phí có liên quan đến xăng dầu, điều này đương nhiên là tốt, có lợi cho người tiêu dùng. Nhưng, ngược lại, nó đương nhiên là bất lợi cho thu ngân sách. Nói cách khác, bình ổn giá xăng dầu theo kiểu này chẳng qua chỉ là dùng nguồn lực nhà nước bù lỗ cho người tiêu dùng và nền kinh tế. Giả sử ngân sách nhà nước dồi dào, thặng dư thì... không sao, bởi đây là một kiểu bình ổn “con nhà giàu”. Tiếc là Việt Nam không phải vậy nên cắt giảm thu ngân sách đổi lấy bình ổn giá xăng dầu đồng nghĩa với hoặc là bất ổn ở một số lĩnh vực khác do thiếu kinh phí từ ngân sách, hoặc là bất ổn vĩ mô nói chung khi Ngân hàng Nhà nước phải tăng in tiền bù đắp cho bội chi ngân sách và/hoặc phải tăng vay nợ/”huy động” trong và ngoài nước.

Về sử dụng nguồn thu tăng lên từ dầu thô, điều bất cập trước tiên với kiểu giải pháp này là tư duy kiểu “đồng này mua mắm, đồng này mua muối”. Cho dù thu từ dầu thô có tăng lên (mạnh), nhưng tiền này phải được hòa chung vào thu ngân sách và sử dụng cho các mục đích chi tiêu công (đã lên kế hoạch). Nếu cứ giữ tư duy này thì trước hết cần trả lời câu hỏi, tại sao lại được/nên dùng tiền thu từ dầu thô cho việc bình ổn giá xăng dầu, mà không phải là những mục đích cấp bách khác như tăng kinh phí phòng chống dịch và phục hồi kinh tế, hay hỗ trợ cho người lao động để họ yên tâm trở lại các thành phố và trung tâm công nghiệp cả nước?

Và điều quan trọng hơn là tính chính xác của ý kiến cho rằng thu nhập từ dầu thô của Việt Nam đang tăng (mạnh) lên. Nhìn từ phía cung, chỉ số sản xuất công nghiệp (IPP) của ngành khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên trong 10 tháng đầu năm 2021 thực tế giảm mạnh tới 13,3%, theo báo cáo gần đây của Tổng cục Thống kê. Năm 2020 cũng chứng kiến tình hình tương tự.

Còn xét về lượng và kim ngạch xuất khẩu, tính từ đầu năm đến ngày 15/10 năm nay, số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy Việt Nam xuất khẩu 2,4 triệu tấn dầu thô, thu về 1.286 triệu đô la. Cùng kỳ năm 2020, các con số này lần lượt là 3,9 triệu tấn và 1.322 triệu đô la. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu dầu thô thậm chí còn cao hơn dù sản lượng xuất khẩu không bằng năm 2020 (3,2 triệu tấn và 1.640 triệu đô la).

 Với sự tăng tiến kiểu thụt lùi mang tính xu hướng này thì đề xuất dùng nguồn thu “tăng lên” từ dầu thô để tài trợ cho việc bình ổn giá xăng dầu vừa là không chính xác, vừa là bất cập về lập luận như nói ở phần trên.      

 -------

(1) https://www.investopedia.com/ask/answers/06/oilpricesinflation.asp

(2) https://investingnews.com/daily/resource-investing/energy-investing/oil-and-gas-investing/oil-price-and-inflation/

Monday 4 October 2021

Nếu phải vay thêm, thì chỉ vay cho phòng, chống dịch (Bài đăng trên KTSG, 4/10/2021, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

https://thesaigontimes.vn/neu-phai-vay-them-thi-chi-vay-cho-phong-chong-dich/

Chính phủ mới đây đã công bố một số chi tiết về tình hình tài chính dành cho chi, phòng chống Covid-19 trong năm 2021 (1).

Có khá nhiều con số, nhưng tóm lại là về mặt nguồn lực, Chính phủ trung ương và địa phương đã phải huy động đến cả những nguồn vốn chỉ dùng cho những trường hợp không còn cách nào khác gồm nguồn dự phòng, hoặc nguồn không thường xuyên như tiết kiệm chi ngân sách, bên cạnh những nguồn bất thường như Quỹ Vaccine – tức tiền của dân chứ không phải ngân sách nhà nước. Sau khi đã trừ đi phần chi tiêu cho 8 tháng qua, tổng cộng ngân sách trung ương và địa phương còn lại chỉ khoảng 52 ngàn tỷ đồng.

Còn một nguồn có khả năng trông vào là khoản cải cách tiền lương 122 ngàn tỷ đồng. Nhưng khoản này theo quy định là chỉ được dùng để hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp khó khăn vì Covid-19. Nên dù có được Quốc hội đồng ý cho phép dùng khoản này chi chống dịch thì cũng chỉ là kiểu giật gấu vá vai, theo đó Chính phủ sẽ buộc phải cắt giảm phần hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp khó khăn một cách tương ứng với phần trích ra từ nguồn này để chi cho chống dịch.

Về kế hoạch chi ngân sách, số tiền 52 ngàn tỷ đồng nguồn ngân sách còn lại này thì... quá ít so với nhu cầu sắp tới. Chỉ riêng tiền mua vaccine sắp tới đã cần đến 16 ngàn tỷ đồng, chưa kể khi phải mua thêm để tiêm nhắc lại. Theo Bộ Y tế,  nếu cả nước có 300.000 người nhiễm Covid-19, trong 28 ngày cần chăm sóc y tế, số tiền ngân sách nhà nước cần chi ra là hơn 60 ngàn tỷ đồng.

Như vậy, có thể nói sức khỏe tài chính quốc gia đang rất ngặt nghèo, hầu như không còn nguồn để khai thác thêm, trong khi nhu cầu chi dù chỉ để đảm bảo giảm thiểu thiệt hại nhân mạng trong những tháng tới có thể là rất lớn, đặc biệt khi mà dịch vẫn có khả năng cao bùng phát (lại) ở nhiều địa phương.

Tất nhiên, đã có nhiều người nhắc đến, đề xuất chuyện tăng vay nợ quốc gia để ngân sách có thêm tiền, với lý do là tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam hiện nay vẫn thấp hơn đáng kể mức trần. Nhưng xin lưu ý một điểm quan trọng là tỷ lệ này thấp bởi GDP của Việt Nam đã được “điều chỉnh” tăng tới hơn 20% do thay đổi cách/phạm vi tính toán, làm giảm mạnh tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam chỉ sau một đêm. Cũng chính vì điều này mà Quốc hội đã phải hạ trần nợ công của Việt Nam xuống so với trước đây để phản ánh thực chất hơn con số thống kê được dùng tại Việt Nam – nợ công vẫn đang tăng nhanh ở Việt Nam chứ không phải ngược lại.

Trước viễn cảnh sẽ phải chi rất nhiều cho chỉ riêng chống dịch, bảo đảm nhân mạng cho người dân, chắc chắn Việt Nam không còn cách nào khác ngoài phải tăng vay nợ. Nhưng trong bối cảnh nợ công đã nhiều nên việc tăng vay nợ, khi bắt buộc phải thực hiện, cần phải rất cẩn trọng.

Theo hướng này, việc tăng vay nợ cần được ưu tiên cho và khống chế theo nhu cầu chi chống dịch trước hết. Nếu “cực chẳng đã”, phải tăng chi hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp bị ảnh hưởng dịch, mà mục đích cuối cùng cũng là để giảm thiểu thiệt hại nhân mạng vì người dân kiệt quệ cả tiền ăn lẫn sức khỏe, thì có thể cần thiết tăng vay nợ tương ứng.

Còn những mục tiêu chi khác từ ngân sách, từ tăng nợ công cần được gác lại hay chấm dứt hết. Trong đó ít nhất gồm tăng ngân sách dành cho đầu tư công hoặc thúc đẩy giải ngân các dự án đầu tư công hiện hành. Một tham khảo chính sách về điều này là việc Malaysia đã phải hủy bỏ một dự án đường sắt cao tốc nối với Singapore, vì thế, đã phải bồi thường cho Singapore nhiều triệu đô la tiền vi phạm hợp đồng, bởi Malaysia thấy dự án này là không thể kham nổi với tình hình ngân sách căng thẳng của nước này. Do đó, Việt Nam cũng phải mạnh dạn chấp nhận thiệt hại về kinh tế khi ngân sách không thể chịu đựng nổi nữa. Nói cách khác, Việt Nam cần chọn mục tiêu ưu tiên chi ngân sách: Hoặc là chống dịch, bảo toàn nhân mạng người dân, hoặc là dàn hàng ngang cùng tiến – vừa chống dịch vừa duy trì/đảm bảo tăng trưởng kinh tế – để rồi cả hai mục tiêu đều thất bại.

Nếu đã quán triệt được mục tiêu ưu tiên bảo đảm nhân mạng thì toàn bộ ngân sách còn lại, nguồn điều chuyển từ các hạng mục chi tiêu khác, và cuối cùng là nguồn vay nợ ít nhất từ nay đến cuối năm sẽ phải dành cho chống dịch và cứu trợ người dân bị ảnh hưởng có thể duy trì một cuộc sống tối thiểu.

Mọi sự chủ quan về chính sách gồm dự báo lạc quan về tình hình dịch bệnh cũng như khả năng phòng, chống dịch bệnh của chính quyền địa phương và trung ương là hết sức nguy hiểm, như thực tế đã cho thấy rõ thời gian qua. Ngay như Singapore cuối cùng cũng không thể thoát ly được các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội lặp đi lặp lại dù đã đạt tỷ lệ tiêm chủng đến gần 90% dân số và đang chuẩn bị tiêm mũi thứ ba thì chúng ta cũng đừng nên lạc quan quá vào viễn cảnh bình thường hóa trở lại vào những tháng cuối năm ở Việt Nam.

Biết mình, biết “địch”, nên chúng ta hãy dồn hết sức lực và tâm trí vào phòng, chống dịch từ nay đến cuối năm, thậm chí sang đến năm sau, tạm gác lại mục tiêu tăng trưởng kinh tế hay những thứ xa xôi khác, đặc biệt những thứ lãng phí, làm màu.

Để thay lời kết, xin nhắc lại châm ngôn: “Còn người là còn tất cả”!                           

---------------

(1) https://vnexpress.net/ngan-sach-co-bao-nhieu-de-chong-dich-4360531.html?utm_source=facebook&utm_medium=native&utm_campaign=fanpage


Sunday 26 September 2021

Hạn mức tăng trưởng tín dụng: Những lý do... trật lất!

https://thesaigontimes.vn/han-muc-tang-truong-tin-dung-nhung-ly-do-chua-xac-dang/

Mới đây, có đại biểu Quốc hội đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét trong thời gian tới thay việc quản lý bằng biện pháp hành chính là cấp "room" tín dụng (tức hạn mức tăng trưởng tín dụng – người viết), bằng việc quản lý hệ số an toàn vốn, vừa đảm bảo an toàn, vừa phù hợp với chuẩn Basel II và thông lệ quốc tế (1).

Lý do cho đề nghị này, theo vị đại biểu, là cần có những biện pháp, những chính sách, cơ chế tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước, nhất là để doanh nghiệp tư nhân được thuận lợi vay vốn, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng. Vốn tín dụng từ ngân hàng là nguồn tiếp cận chính của doanh nghiệp. Nếu dòng vốn không kịp thời, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, kiệt quệ dẫn đến phải đóng cửa, phá sản. Kinh tế có thể dẫn đến suy thoái, sau một đợt khủng hoảng tài chính sẽ cần rất nhiều năm để phục hồi.

Theo người viết, dường như vị đại biểu trên đã hiểu sai về vai trò và tác động của hạn mức tăng trưởng tín dụng đến doanh nghiệp và nền kinh tế nên mới đề nghị NHNN bỏ nó đi.

Cụ thể hơn, hạn mức tăng trưởng tín dụng đúng là sẽ hạn chế mức độ tăng trưởng tín dụng (tức “room” tín dụng theo cách hiểu của vị đại biểu) của từng tổ chức tín dụng theo ý kiến chủ quan của NHNN. Nhưng điều này không có nghĩa là doanh nghiệp là khách hàng của một tổ chức tín dụng cụ thể, ví dụ là ngân hàng A, cũng sẽ bị giới hạn mức độ cho vay một cách tương ứng. Bởi ngoài ngân hàng A thì doanh nghiệp còn có thể vay vốn ở ngân hàng B, C, E..., miễn là doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn để được vay vốn từ các ngân hàng này. Tất nhiên cũng phải có thêm điều kiện đủ là lãi suất cho vay của các ngân hàng này phải ở mức cạnh tranh, chấp nhận được bởi và làm cho doanh nghiệp muốn vay.

Với lý do... trật lất như thế này thì rõ ràng NHNN không có lý do gì để phải bỏ công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng, một công cụ mà cho đến nay NHNN luôn kiên định bảo vệ. Lưu ý thêm rằng người viết lập luận “hộ” cho NHNN như thế này không phải là để ủng hộ NHNN duy trì công cụ này. Thực tế, người viết đã đôi lần phân tích sự bất hợp lý của công cụ này, và sẽ tiếp tục lặp lại ý này trong phần sau của bài viết.

Tất nhiên, vị đại biểu trên có thể bổ sung thêm vào lập luận của mình rằng do các ngân hàng khác như B, C, E... cũng bị hạn chế tăng trưởng tín dụng (tăng trưởng tín dụng của họ cũng chỉ được phép ở một mức cụ thể nào đó, ví dụ như 12% hoặc 18% trong năm, chứ không phải là vô hạn) nên rốt cuộc doanh nghiệp đi vay từ các ngân hàng này cũng sẽ bị hạn chế số vốn vay được.

Cho dù vậy thì cần nhớ rằng, về nguyên tắc, sẽ không thể, không bao giờ có việc một ngân hàng trung ương lại để cho doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu thì cũng được hệ thống ngân hàng đáp ứng (vô điều kiện). Hệ thống ngân hàng có thể cung cấp bao nhiêu tín dụng cho nền kinh tế phụ thuộc vào cung tiền của ngân hàng trung ương, được tính toán dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát và việc làm. Do đó, giả sử ngân hàng trung ương (trong trường hợp Việt Nam là NHNN) chỉ muốn tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế ở một con số cụ thể, chẳng hạn là 10%, thì họ cũng chỉ bơm ra nền kinh tế một lượng tiền phù hợp với con số này. Với một lượng cung tiền có hạn, các ngân hàng phải cạnh tranh cho vay một cách tối ưu nhất (khách vay tốt, lãi suất cao), còn khách hàng cũng sẽ chỉ vay một các tối ưu nhất (lãi suất thấp, điều kiện dễ).

Các yếu tố cạn tranh mang tính thị trường như vậy sẽ dẫn đến tình trạng luôn chỉ có một số doanh nghiệp được vay/vay được số tiền mong muốn với mức lãi suất “chấp nhận được”. Do đó, dù NHNN không áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì rốt cuộc cũng sẽ không có chuyện doanh nghiệp vay vốn dễ và tùy thích theo nhu cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, dù NHNN có nới hạn mức tăng trưởng tín dụng, hoặc tốt nhất là bỏ cái này đi, thì doanh nghiệp vẫn khó, càng khó tiếp cận tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, hạn mức tăng trưởng tín dụng không phải là cái cần bị phê phán trong trường hợp cụ thể của vị đại biểu này.

Nói như trên không có nghĩa là NHNN đã đúng khi kiên định với hạn mức này. Trong phản hồi của mình trước đề nghị của vị đại biểu trên, NHNN cũng đưa ra những lý do... trật lất, không giải thích hợp lý được tại sao phải duy trì hạn mức này.

Cụ thể, NHNN cho rằng tăng trưởng tín dụng quá cao không chỉ tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế mà còn gia tăng rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu, thời gian qua, NHNN kiên định kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng theo hướng đưa ra chỉ tiêu tín dụng định hướng đầu năm và thông báo cho từng tổ chức tín dụng.

Có thể thấy ngay lý do này của NHNN chính là điều đã được phân tích ở đoạn trên. Theo đó, hoàn toàn đúng đắn khi NHNN cẩn trọng với rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng cũng như đã nói, để quản lý tăng trưởng tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền – một trong những chức năng và sứ mệnh cơ bản của ngân hàng trung ương, mà cụ thể trong trường hợp muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ – chứ không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng.

Cuối cùng, tuy nhiều người, gồm người viết và các tổ chức nước ngoài như IMF và Moody’s, đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Điều này đặt ra câu hỏi, phải chăng NHNN còn ẩn ý gì đó mà họ không tiện nói ra để tiếp tục kiên định như vậy?

Một phần câu trả lời này có thể nằm trong ý đồ sử dụng hạn mức này như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN, bao gồm tự nguyện cắt giảm lãi suất cho vay với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 (2).

Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo vệ công cụ hạn mức này nhưng luôn bằng những lý do... trật lất! 

------

(1) https://cafef.vn/nhnn-phan-hoi-de-xuat-thay-room-tin-dung-bang-quan-ly-he-so-an-toan-von-20210909213202623.chn

(2) https://baodautu.vn/giam-lai-suat-va-cu-ca-rot-mang-ten-room-tin-dung-d147542.html


Monday 13 September 2021

Thay đổi phương thức mua ngoại tệ không nhất thiết làm thay đổi lãi suất (Bài đăng trên KTSG, 13/9/2021)

https://thesaigontimes.vn/thay-doi-phuong-thuc-mua-ngoai-te-khong-nhat-thiet-lam-thay-doi-lai-suat/

Lâu nay báo chí và giới phân tích vẫn có thói quen nhìn vào động thái chính sách liên quan đến mua, bán ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để đoán định xu hướng của lãi suất tiền đồng.

Cụ thể, việc NHNN gần đây thay đổi phương thức mua giao kỳ hạn 6 tháng về phương thức mua giao ngay, theo giới phân tích, sẽ tạo nguồn cung (tiền) mới và tức thời. Do đó, thanh khoản được kỳ vọng sẽ tiếp tục dồi dào, làm giảm nhẹ mặt bằng lãi suất trong (các) tháng tiếp theo (1).

Kiểu nhận định, phân tích trên là rất phiến diện, và, do đó, kết luận đưa ra là không chính xác, mang tính võ đoán. Đó là do những lý do sau.

Thứ nhất, cung tiền, và do đó, lãi suất có thay đổi hay không thì không chỉ phụ thuộc vào mỗi hành động mua/bán ngoại tệ của NHNN (hay mua/bán kiểu gì, theo phương thức nào). Vì một lý do nào đó, nếu NHNN nhận thấy cung tiền của mình đã đủ lớn ở mức cần thiết, họ hoàn toàn có thể, một mặt, mua vào ngoại tệ (để, ví dụ, đáp ứng nhu cầu tăng dự trữ ngoại hối), một mặt lại tung trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN ra để hút tiền đồng về. Đây là hành động gọi là sterilisation (trung hòa tiền tệ).

Cho nên, muốn biết hành động mua vào ngoại tệ của NHNN có phải là hành động nới lỏng tiền tệ (để hạ lãi suất tiền đồng) hay không thì ít nhất cũng phải phân tích xem trong cùng thời điểm diễn ra việc mua ngoại tệ với số lượng đáng kể này thì NHNN có tiến hành bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN qua thị trường mở để thu bớt tiền đang lưu thông trong nền kinh tế về kho quỹ của NHNN hay không.

Nhiều phân tích tuy cũng nhắc đến hoạt động của NHNN trên thị trường mở nhưng lại chỉ chú trọng đến việc NHNN có chào thầu cho vay (cho vay các ngân hàng thương mại qua cầm cố giấy tờ có giá của họ) trên thị trường này hay không. Đây cũng là một dạng phân tích ngược, phiến diện, bởi lẽ ra phải tập trung vào phía ngược lại, tức NHNN có chào thầu cho ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN hay không.

Tất nhiên, có không ít giai đoạn mà không thấy NHNN có bất kể hành động gì trên thị trường mở, dù là cho vay ra hay thu tiền về. Ngoài khả năng NHNN không công bố đầy đủ thông tin – là điều khó có thể phủ nhận hay là điều hiếm hoi, tự bản thân việc NHNN không có hành động gì trên thị trường mở như vậy vẫn là chưa đủ để nói rằng NHNN đã nới lỏng tiền tệ (thông qua việc một mặt thì mua vào ngoại tệ, mặt khác thì không bán ra trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN). Bởi, để kết luận như vậy thì ít nhất vẫn phải xem NHNN đã thực sự có mua vào ngoại tệ hay không, mua bao nhiêu, có đáng kể hay không. Nói cách khác, (thay đổi về) phương thức mua ngoại tệ của NHNN, và kể cả việc mua ngoại tệ, không nhất thiết là chỉ dấu cho thay đổi về cung tiền của NHNN, từ đó có kết luận về xu hướng lãi suất trong tương lai.

Thứ hai, giả sử thực sự NHNN có mua ngoại tệ và theo phương thức giao ngay, đồng thời không tiến hành trung hòa tiền tệ. Lúc đó, quả thật cung tiền đồng sẽ tăng lên tức thời. Nhưng điều này cũng vẫn là không đủ để nói lên xu hướng của lãi suất trong thời gian sau đó.

Giả sử đồng thời, hoặc một thời gian ngắn sau đó NHNN lại có những hành động theo xu hướng thắt chặt tiền tệ, gồm tung trái phiếu, tín phiếu ra qua để hút tiền về qua thị trường mở như nói ở trên, hoặc NHNN cắt giảm cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, thậm chí nâng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc hay giảm lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc. (Lưu ý thêm là hầu như NHNN không công bố thông tin về các khoản cho vay tái chiết khấu, vay tái cấp vốn để biết là NHNN có nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ qua kênh này hay không). Những hành động mang tính thắt chặt này sẽ trung hòa, giảm tác dụng của hành động nới lỏng tiền tệ qua việc mua vào ngoại tệ, kể cả theo phương thức giao ngay, của NHNN.

Thứ ba, và từ việc kết hợp các yếu tố phân tích như trên, cách duy nhất để “thấy” được xu hướng lãi suất và thanh khoản trong tương lai gắn liền với việc thay đổi phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN là phải đồng thời xem xét việc mua bán ngoại tệ của NHNN có thực sự đã diễn ra hay không và ở quy mô bao nhiêu (bao nhiêu tiền đồng đã được tung ra thị trường ở một thời điểm cụ thể), và số liệu về cung tiền tại thời điểm có hành động mua bán ngoại tệ và sau đó.

Tuy nhiên, vì NHNN nếu có công bố số liệu về cung tiền thì cũng chỉ làm vậy ít nhất là sau hai tháng kể từ tháng hiện tại. Như vậy, hành động mua bán ngoại tệ của NHNN (chứ chưa nói đến phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN) có làm thay đổi lãi suất và thanh khoản hay không chỉ có thể kết luận được sau ít nhất hai tháng. Nhưng vì trong hai tháng sau đó hoàn toàn có khả năng NHNN sẽ tiến hành những hành động chính sách khác liên quan đến cung tiền như nói ở trên. Nên rốt cục... không thể kết luận gì về mối liên quan giữa phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN, kể cả bản thân việc mua bán ngoại tệ của NHNN, với xu hướng của lãi suất và thanh khoản trong tương lai sau đó!

----

(1) https://cafef.vn/nguon-tien-moi-co-the-xuat-hien-dua-lai-suat-tiep-tuc-giam-thoi-gian-toi-20210904013749352.chn

Thursday 9 September 2021

Sống chung với dịch nhìn từ Singapore (Bài đăng trên KTSG, 8/9/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/song-chung-voi-dich-nhin-tu-singapore/

TP. HCM nói riêng, cả nước nói chung dường như đã chấp nhận chuyển sang chiến lược sống chung với dịch Covid-19, thay vì chiến lược xét nghiệm, cách ly, cô lập và loại trừ F0 (và cả F1) trong cộng đồng bởi hiệu quả thấp (thể hiện qua con số lây nhiễm/tử vong vẫn tăng nhanh), trong khi hậu quả kinh tế, xã hội lại quá lớn để có thể chấp nhận.

Có người phản đối việc nói sống chung với dịch, lý luận rằng cần phải nói là sống chung với virus Covid-19. Thực ra, dịch hay bản thân Covid-19 đều để lại hậu quả là có một số lượng cụ thể người sẽ bị nhiễm (và trở nặng, tử vong bởi) Covid-19 hàng ngày. Nên nói xác định sống chung với dịch hay Covid-19 đều chỉ là cách nói tắt, mang tính câu chữ mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta phải chấp nhận, đặt ra một mốc cụ thể là tối đa có bao nhiêu ca nhiễm Covid-19 trong một ngày, trên một ngàn dân hay trong một địa bàn/cả nước thì có thể là chấp nhận được, đi kèm đó là các biện pháp và chính sách phù hợp.

Đây cũng chính là một trong những điểm cốt lõi trong chiến lược đối phó với (dịch) Covid-19 của Singapore. Nước này đặt ra các giai đoạn phản ứng với dịch/Covid-19 căn cứ vào tình hình lây nhiễm trong cộng đồng cũng như khả năng xử lý của hệ thống y tế nước này. Theo đó, đã từng có giai đoạn các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng khi số ca lây nhiễm trong cộng đồng chững lại ở con số vài chục người/ngày trong tổng số dân cư, gồm cả người nước ngoài, lao động nhập cư khoảng trên 6 triệu người. Nhưng những biện pháp nới lỏng này lại lập tức được thay bằng các biện pháp thắt chặt khi số ca lây nhiễm trong cộng đồng bùng lên trên một vài trăm/ngày.

Một trong những ví dụ về nới lỏng rồi lại thắt chặt này là sự thay đổi danh sách các nước/vùng lãnh thổ mà du khách từ đó được phép nhập cảnh vào Singapore. Ở trong nước thì sự khác biệt lớn nhất được thể hiện ở số lượng người được phép tụ tập tại các địa điểm công cộng, doanh nghiệp, nhà hàng, hoặc được gặp gỡ/thăm viếng nhà riêng.

Và trong mọi giai đoạn, dù là nới lỏng, thì các biện pháp phòng dịch cá nhân và giãn cách xã hội như đeo khẩu trang mọi nơi mọi lúc (trừ ở nhà), duy trì khoảng cách tối thiểu bắt buộc (1m), truy dấu tiếp xúc bằng các app hay token luôn phải được thực hiện. Tuy nhiên, các biện pháp giãn cách này cũng có một số thay đổi cho phù hợp như bãi bỏ gần đây việc đo nhiệt độ bắt buộc tại các doanh nghiệp, cửa hàng, trụ sở, có lẽ bởi các biến chủng mới không có triệu chứng sốt.

Và có thể là do sự bất khả kháng nên việc giãn cách xã hội như duy trì khoảng cách tối thiểu 1m trên các phương tiện công cộng (tầu điện ngầm, xe buýt) không bị bắt buộc. Thay vào đó, hành khách được khuyến cáo không nói chuyện với nhau và gọi điện khi đang trên tầu, xe.

Tại các trung tâm y tế cơ sở, bệnh viện, người đến khám bệnh được tổ chức thành luồng xanh và vàng. Những người khai báo có triệu chứng ho lập tức được phân vào khu khám riêng và được chỉ định test Covid-19 (miễn phí) ngay. Chi phí khám, chữa bệnh được Chính phủ đài thọ một phần theo chương trình phòng chống cúm quốc gia. Thậm chí việc thanh toán hóa đơn cũng bị cách ly bằng cách bệnh viện sẽ gửi hóa đơn về nhà bệnh nhân theo đường bưu điện và được bệnh nhân thanh toán qua mạng.

Một trong những điều được duy trì nhất quán trong các giai đoạn, kể cả nghiêm ngặt nhất, là cho phép shipper, các doanh nghiệp logistics được hoạt động và người dân được tự do đi lại (và tập thể dục ngoài trời), miễn là tuân thủ quy định về giãn cách xã hội và phòng dịch cá nhân.

Xuyên suốt các giai đoạn ứng phó với dịch bệnh là chiến lược tiêm chủng nhanh chóng phủ khắp toàn dân như một điều kiện cần, yếu tố then chốt để Singapore nới lỏng giãn cách xã hội, mở cửa nền kinh tế, mở cửa với thế giới.

Về trải nghiệm của người dân với các biện pháp và quy định phòng, chống dịch của Chính phủ, nhìn chung người viết cảm nhận có một sự đồng lòng, ủng hộ và hợp tác cao. Những yếu tố nền tảng cho thái độ này là một Chính phủ có năng lực cao, được kiểm chứng qua thực tế, hành động nhanh, đúng, luôn đặt lợi ích của người dân và doanh nghiệp lên hàng đầu; doanh nghiệp được hướng dẫn, hỗ trợ đầy đủ, kịp thời, kể cả về tài chính một cách rất đơn giản (qua online); người dân vẫn được đảm bảo một cuộc sống không quá xáo trộn, bất tiện; những người có thu nhập thấp (thể hiện qua bản khai thuế hàng năm) tự động được Chính phủ gửi tiền hỗ trợ vào tài khoản và/hoặc các phiếu mua (voucher)...

Nhìn từ Singapore, kinh nghiệm có thể rút ra khi muốn sống chung với dịch/Covid-19 trước hết là phải giảm thiểu số ca nhiễm Covid-19 đến một mức chấp nhận được, tùy theo năng lực xử lý của hệ thống y tế cơ sở. Để đạt được điều này thì phải đẩy mạnh tiêm chủng rộng rãi và nhanh chóng nhất có thể. Tiếp đó, duy trì giãn cách xã hội bắt buộc và nghiêm khắc (luôn đeo khẩu trang, truy vết tiếp xúc, duy trì cự ly tối thiểu, không tụ tập đông người – áp dụng với mọi đối tượng, kể cả là quan chức, ở mọi sự kiện...). Cho phép shipper và doanh nghiệp logistics hoạt động bình thường nhưng phải tuân thủ các biện pháp giãn cách xã hội. Tương tự vậy là việc người dân được tự do ra đường (nhưng sẽ bị phạt nặng khi không tuân thủ các quy định giãn cách xã hội).

Để giảm thiểu các tác động tiêu cực và phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, Chính phủ phải tăng cường hỗ trợ tài chính và, quan trọng là, theo một cách đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng.

Doanh nghiệp được sản xuất, kinh doanh nhưng phải cắt giảm số nhân viên có mặt tại một thời điểm, tất nhiên vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp giãn cách, truy vết. Theo đó, sẽ không có chuyện kiểu như “3 tại chỗ”, “một cung đường, hai địa điểm”..., mà chỉ có việc được sản xuất, kinh doanh nếu tuân thủ giãn cách xã hội, giảm số lượng nhân viên tại nơi sản xuất kinh doanh, và tất nhiên là đi kèm với tiêm chủng.

Có một điều “lạ” là chúng ta vẫn tự hào về nguồn nhân lực và khả năng/năng lực về điện tử, IT mà không làm nổi một app/công cụ truy vết tiếp xúc có thể sử dụng rộng rãi, thuận tiện với chi phí thấp (miễn phí cho người dân) như Singapore đã làm để rồi vẫn phải thường xuyên đọc thấy các thông báo khẩn “tìm người đã đến điểm ABC” trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Rồi nữa là chuyện Chính phủ điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt hay sử dụng mobile money..., toàn những chủ trương với giải pháp trên giấy mà những lúc cần thiết như lúc này thì không thấy được áp dụng mấy. Để rồi, ví dụ, người dân và doanh nghiệp vẫn phải nộp giấy tờ xin hỗ trợ (và may mắn thì được nhận tiền) một cách vật lý (và phải ra đường, phải tiếp xúc!).

Tóm lại, muốn mở cửa sống chung với dịch/Covid-19 thì phải cân nhắc, thẳng thắn và trung thực nhìn nhận lại nguồn lực/năng lực xử lý, thực hiện của mình để rồi quyết định cho hợp lý cách thức, phạm vi và nội dung mở cửa để tránh viễn cảnh “toang” nặng, phải đào hố chôn người tập thể như Brazil, trong khi doanh nghiệp và người dân thì vẫn kiệt quệ, bần cùng hóa.

Sunday 5 September 2021

Lý giải việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ (Bài đăn trên KTSG, 6/9/2021)

https://thesaigontimes.vn/ly-giai-viec-giam-lai-suat-tien-gui-vuot-du-tru-bat-buoc-bang-ngoai-te/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Quyết định 1349/QĐ-NHNN về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại NHNN, áp dụng từ ngày 1-9-2021.

Theo đó, NHNN giữ nguyên lãi suất áp dụng đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng và ngoại tệ của tổ chức tín dụng tại NHNN. Cụ thể, lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VNĐ duy trì ở mức 0,5%/năm. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm, lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng VNĐ là 0%/năm. Đồng thời, NHNN giảm lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, từ 0,05%/năm theo quyết định đang áp dụng xuống 0%/năm từ 1-9.

Xoay quanh tỷ lệ và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng như tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc, hiện vẫn có nhiều điều chưa được hiểu rõ hoặc lý giải sai lầm.

Dự trữ bắt buộc và chính sách tiền tệ

Khi NHNN giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc, điều này đồng nghĩa với việc giải phóng thêm vốn để tổ chức tín dụng cho vay ra nền kinh tế. Như vậy, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một hành động nới lỏng chính sách tiền tệ, và ngược lại.

Thế còn giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc? Khi hạ lãi suất này, NHNN chỉ trả cho tổ chức tín dụng số tiền lãi ít hơn cho lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc mà họ gửi bắt buộc tại NHNN. Do đó, hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc làm giảm bớt lượng tiền mà tổ chức tín dụng có thể cho vay nền kinh tế. Nói cách khác, hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tương đương với hành động thắt chặt tiền tệ của NHNN, và ngược lại.

Sự việc trở nên phức tạp hơn đối với hành động giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của NHNN. Ngoài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN tính theo dư nợ tín dụng, tổ chức tín dụng vì một số lý do nào đó, chẳng hạn như dư thừa vốn (tạm thời) mà không thể/không muốn cho vay lẫn nhau hoặc cho vay ra nền kinh tế, lại gửi tại NHNN một số tiền vượt quá số tiền gửi bắt buộc này để vừa hưởng lãi, vừa đảm bảo thanh khoản, an toàn.

NHNN giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc làm giảm động lực gửi tiền của tổ chức tín dụng tại NHNN, đồng nghĩa với việc khuyến khích họ cho vay ra nền kinh tế thay vì gửi tại NHNN, vốn tương đương với việc làm giảm cung tiền. Nói cách khác, giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc là hành động góp phần đảm bảo cung tiền không bị suy giảm, khi các yếu tố khác không thay đổi.

Nhưng từ góc độ tiền lãi, việc NHNN giảm tiền trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc cũng có thể coi là một hành động có tác dụng thắt chặt tiền tệ, như nói ở đoạn về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc nói trên. Tuy nhiên, do tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng tại NHNN, nếu có, bao giờ cũng lớn hơn lãi tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc mà NHNN trả cho họ, nên về toàn cục thì hành động giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của NHNN vẫn có tác dụng góp phần giữ cho cung tiền không bị ảnh hưởng (thay đổi).

Dự trữ bắt buộc và ngân sách nhà nước

Một số người vẫn lý giải việc NHNN giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và/hoặc tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc là để tiết kiệm cho ngân sách nhà nước. Có lẽ lý giải này xuất phát từ quan niệm sai lầm rằng vì NHNN là một cơ quan cấp bộ của Chính phủ nên tiền chi ra từ NHNN cũng chính là tiền chi ra từ ngân sách.

Như trên đã phân tích, khoản tiền mà NHNN “tiết kiệm” được từ giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc hay tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc chỉ có tác dụng đến cung tiền, và NHNN không được chuyển khoản “tiết kiệm” này vào ngân sách. Cần nhớ rằng ngân sách (Bộ Tài chính) muốn vay (không phải ”thu”) từ NHNN thì phải phát hành trái phiếu để NHNN thông qua hệ thống ngân hàng thương mại mua vào. Tất nhiên, luật Việt Nam hiện cũng cho phép Bộ Tài chính được vay trực tiếp NHNN trong một số trường hợp đặc biệt (và xin nhấn mạnh lại là vay, chứ không phải thu).

Tại sao lại giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lần này?

Chắc chắn hành động liên quan đến dự trữ bắt buộc lần này của NHNN cũng để lại không ít dấu hỏi.

Thứ nhất, tại sao lại chỉ giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, mà không phải là (cả) tiền đồng?

Trả lời: Đơn giản vì lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng đã là 0% theo quy định hiện hành. Việc hạ lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng xuống mức âm là chưa có tiền lệ tại Việt Nam, và chỉ nên được xem xét trong tình huống nền kinh tế phải đối mặt với tình trạng thiểu phát – là điều không đúng với thực tại.

Thứ hai, tại sao lại giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ?

Trả lời: Như trên đã nói, có thể vẫn còn một số tổ chức tín dụng có dư thừa ngoại tệ không muốn bán/cho vay ra nền kinh tế nên chọn gửi vào NHNN, vượt quá mức tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ theo quy định, dù chỉ để hưởng lãi suất 0,05% như hiện tại. Bằng việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ tiền gửi bằng ngoại tệ này xuống 0%, và trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào như thể hiện qua sự mạnh lên của tiền đồng so với đô la, nhất là xét đến mục tiêu giảm đô la hóa, hành động này của NHNN có tác dụng khuyến khích tổ chức tín dụng chuyển sang quan hệ mua-bán ngoại tệ thay vì tín dụng (vay-mượn) với NHNN và với nền kinh tế. Việc NHNN giảm vay ngoại tệ từ tổ chức tín dụng thông qua hạ lãi suất này cũng làm giảm rủi ro cho quỹ dự trữ ngoại hối khi đô la đảo chiều, mạnh lên so với tiền đồng.

Thứ ba, tóm lại, việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là hành động nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ trong bối cảnh chính sách tiền tệ được kỳ vọng nới lỏng thêm nữa như hiện nay?

Trả lời: Xét đến cùng, việc giảm vay-mượn ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng với NHNN và với nền kinh tế làm giảm nạn đô la hóa nên cùng một lượng tiền cung ứng như hiện tại, việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ có tác động tương đương việc tăng cung tiền, nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN, bởi mức độ thay thế tiền đồng bằng ngoại tệ trong các giao dịch sẽ giảm đi.

Sunday 29 August 2021

Bài toán lao động nhập cư hậu phong tỏa (Bài đăng trên KTSG, 29/8/2021)

https://thesaigontimes.vn/?p=319082&preview=true&preview_id=319082

Đại dịch kèm phong tỏa, giãn cách đã buộc hàng chục ngàn người lao động nhập cư từ các địa phương khác đến các trung tâm công nghiệp ở miền Bắc và Nam phải trở về quê quán cách xa đó dăm trăm, thậm chí đến cả ngàn kilomet trong hoảng loạn bởi không thể nương náu lại khi doanh nghiệp đóng cửa, không còn tiền ăn và tiền trọ.

Khi đại dịch dịu đi, các doanh nghiệp sẽ mở cửa trở lại (nếu còn sống sót!) nên sẽ tuyển dụng trở lại. Lúc đó có  thể kỳ vọng một làn sóng ngược người lao động từ khắp nơi lại đổ về các trung tâm công nghiệp cả nước. Tuy nhiên, kỳ vọng này chỉ thành sự thật nếu người lao động biết chắc rằng lần quay trở lại này sẽ là lâu dài, và sẽ không (sớm) có một cuộc tháo chạy tổng lực tìm đường sống lần thứ hai, ba như vừa rồi.

Vì không có gì đảm bảo rằng dịch bệnh sẽ không quay trở lại và phong tỏa sẽ không tái diễn nên thời gian đầu, có thể kéo dài hàng tháng, các doanh nghiệp ở các trung tâm công nghiệp sẽ nhiều khả năng phải chứng kiến nạn thiếu hụt lao động thậm chí đến mức trầm trọng.

Để cân bằng cung cầu lao động trong hoàn cảnh (tạm thời) thiếu hụt như vậy thì các doanh nghiệp buộc phải tăng mức đãi ngộ để hấp dẫn người lao động tại chỗ, vùng lân cận, và đặc biệt là từ các địa phương khác quay trở lại làm việc, bất chấp các rủi ro an sinh vẫn rình rập. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải tổn phí thêm tiền đào tạo, tái đào tạo lại nhân công, bởi hoàn toàn có thể một lượng nhân công đã bỏ về qua, rời khỏi doanh nghiệp là “một đi không trở lại”.

Hậu quả của gánh nặng trên đối với doanh nghiệp là hiển nhiên và sẽ ảnh hưởng đến chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp. Nhưng họ cũng chẳng biết làm gì hơn, một khi mô hình sản xuất, kinh doanh của họ vẫn phải dựa vào nguồn lao động nhập cư dồi dào (và lương thấp) so với tuyển dụng tại chỗ.

Cần lưu ý thêm rằng không chỉ đại dịch mà các biến cố khác cũng có thể đẩy các doanh nghiệp phụ thuộc vào lao động nhập cư rơi vào tình cảnh tương tự. Lạm phát cao làm cho đồng lương của người lao động nhập cư teo tóp trong khi nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống và gia đình, con cái không thể cắt giảm hơn được nữa. Rơi vào cảnh này thì nhiều người lao động nhập cư sẽ lại chọn con đường quay về quê để tồn tại chứ không thể sống mòn mãi tại nơi đô thị.

Tình cảnh/rủi ro trên đặt ra một số vấn đề ngắn và trung hạn. Về phía doanh nghiệp, trong ngắn hạn, một mặt cần hỗ trợ người lao động tối đa để họ quay trở lại làm việc, tạm thời yên tâm với một tương lai còn nhiều bất định. Tiền lương có thể không tăng (mạnh), nhưng doanh nghiệp cần cam kết đảm bảo cung ứng một số điều kiện tồn tại cơ bản cho người lao động trong mọi hoàn cảnh, nhất là khi có biến cố xảy ra, như hỗ trợ một phần tiền thuê nhà và trợ cấp (tạm thời) nghỉ việc khi doanh nghiệp phải tạm thời đóng cửa vì một lý do nào đó.

Tất nhiên là sẽ có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được, hoặc vì nguồn lực mỏng, khi đóng cửa dù là tạm thời thì cũng không có nguồn thu nhập/dự trữ nào khác; hoặc vì mô hình kinh doanh của họ là dựa trên lao động giá càng rẻ càng tốt.

Với loại doanh nghiệp nguồn lực mỏng, Chính phủ có thể đóng vai trò “bà đỡ” trong những lúc khó khăn thông qua việc (cam kết) cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp, hoặc tài trợ, để trả lương, hỗ trợ cho người lao động. Điều này thì Chính phủ cũng đang làm, cho dù kết quả thì như... chưa làm!

Với loại doanh nghiệp sống nhờ vào “bóc lột” nhân công, có thể họ cũng tận dụng sự trợ giúp tương tự của Chính phủ. Nhưng do bản chất của mô hình kinh doanh của họ nên sẽ đến một thời điểm nào đó mà chi phí nhân công, kể cả sau khi đã trừ đi hỗ trợ của Chính phủ, nếu có, trở nên đắt đỏ, không còn hấp dẫn để duy trì mô hình kinh doanh của họ. Lúc đó, hãy coi đại dịch và hậu đại dịch là một cuộc sàng lọc tự nhiên để gạt bỏ những yếu tố không còn hợp thời, không đáng được lưu giữ bằng mọi cách.

Chính phủ cũng có thể trợ giúp doanh nghiệp hậu đại dịch thông qua việc phối hợp với doanh nghiệp và chính quyền các địa phương tổ chức các đợt đưa người lao động tại các địa phương trở lại các trung tâm kinh tế, công nghiệp trong trật tự, an toàn, với chi phí hợp lý.

Trong trung hạn, Chính phủ cần kéo dãn các trung tâm công nghiệp, kinh tế ra cả nước. Mục đích không chỉ để xóa bỏ chênh lệch phát triển và thu nhập giữa các địa phương và người dân, mà còn giảm các tác hại kinh tế, văn hóa, gia đình và xã hội đi đôi với vấn đề lao động nhập cư. Một lợi ích hiển nhiên khác là doanh nghiệp sẽ ít chịu rủi ro biến động nhân lực hơn.

Để thực hiện kéo dãn các trung tâm kinh tế và công nghiệp, đi đôi với phát triển cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt và đường thủy, Chính phủ cần tăng cường năng lực giáo dục và đào tạo cho các địa phương để đáp ứng nhu cầu nhân lực đủ mọi cấp độ của các doanh nghiệp đang và sẽ chuyển đến hoạt động tại địa phương.

Bên cạnh đó, điều quan trọng mà Chính phủ cần làm là phối hợp, giám sát các địa phương để đảm bảo cuộc đua phát triển giữa các địa phương là một cuộc đua lành mạnh, bằng những giải pháp và công cụ lành mạnh – như đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng minh bạch và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương – chứ không phải là cuộc đua xuống hố thông qua giảm/miễn thuế, tăng ưu đãi.

Với những trung tâm kinh tế, công nghiệp lớn của đất nước như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương..., do sự hấp dẫn riêng có của chúng nên luôn có một bộ phận lớn lao động nhập cư tìm cách gắn bó lâu dài. Một trong những việc Chính phủ có thể làm để giúp cho bộ phận lao động này cũng như doanh nghiệp tuyển dụng họ là cung cấp nơi ở/ký túc xá với giá thuê rẻ, ổn định. Nguồn cung các chỗ ăn ở kiểu này hợp lý nhất là nguồn mà các địa phương này đang, đã và sẽ có kế hoạch dành cho phát triển nhà ở xã hội. Hình thức nhà này hiện tại theo hình thức mua đứt bán đoạn, không giúp gì mấy cho số đông lao động nhập cư bởi chúng chỉ dành cho một số ít là người được mua, ít hơn nhiều số người có nhu cầu thuê trong thời gian làm việc tại địa phương, trong khi vẫn có nhiều sai sót về đối tượng được mua, vẫn phải tiêu phí nguồn lực công như hỗ trợ lãi suất, ưu đãi thuế, phí đất đai...

Monday 23 August 2021

Chuẩn bị cho hậu Covid (Bài đăng trên KTSG, 20/8/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/chuan-bi-cho-hau-covid/

Dù đang hoành hành nhưng đại dịch Covid-19 rồi cũng sẽ qua đi như mọi cuộc đại dịch khác, và xã hội vẫn phải tiếp tục vận động tiến lên phía trước. Do đó, ngay từ bây giờ cần phải chuẩn bị cho quá trình  phục hồi hậu Covid.

Có thể hình dung nền kinh tế và xã hội sau đại dịch cũng sẽ như một quốc gia mới trải qua một cuộc chiến tàn khốc, với ngổn ngang thiệt hại vật chất và con người, với nhiều ngành nghề/doanh nghiệp từ thoi thóp đến đóng cửa. Ngược lại, cũng sẽ có một số ngành nghề, doanh nghiệp khấm khá, ăn nên làm ra. Nếu ví von thì cũng đã có người, có nơi dùng hình ảnh chữ K để mô tả tình trạng nền kinh tế trong và sau đại dịch.

Với một nền kinh tế trong tình trạng như vậy, điều cần làm, cần ưu tiên là dọn dẹp đổ nát, “ma chay” cho doanh nghiệp, ngành nghề đã chết, cấp cứu, “tiếp nước” cho ngành nghề, doanh nghiệp thoi thóp sống. “Ma chay” là để giảm nhẹ tác động quá lớn lên người lao động của doanh nghiệp nay đã trở nên thất nghiệp, vô gia cư. Doanh nghiệp, ngành nghề chết đi đã vậy nên doanh nghiệp, ngành nghề đang thoi thóp sống thì càng cần phải khẩn trương hỗ trợ để chúng gượng lại được, không (tiếp tục) sa thải, cắt lương người lao động, đẩy xã hội vào một vòng xoáy luẩn quẩn lao xuống hố.

Do đó, việc cần chuẩn bị ngay từ bây giờ là phải thu xếp, dự trữ nguồn lực. Nhưng nguồn lực nào đây khi mà các nguồn nội tại, như ngân sách và các quỹ dự trữ, đã và đang được sử dụng với quy mô ngày càng cao với thời điểm cạn kiệt đã không còn xa? Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước thì như nước nhỏ giọt và cũng không thể nhỏ ra mãi được.

Đi vay trong và ngoài nước do đó là tất yếu. Quốc hội gần đây đã thông qua kế hoạch vay hơn 3 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025. Nhưng nguồn tài trợ này có một số điểm cần bàn, mà cụ thể đầu tiên là tỷ lệ nợ công trên GDP. Tỷ lệ này sẽ tăng mạnh trở lại trong năm nay, dự tính lên tới 58,6% (với GDP chưa “điều chỉnh” về quy mô), so với mức 55,3% năm 2020, như được nêu ra trong Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước (1). Lưu ý thêm rằng con số dự tính này được xây dựng vào đầu năm nay, khi dịch bệnh chưa bùng phát mạnh trên quy mô cả nước như hiện nay. Do đó, diễn biến dịch bệnh xấu đi nhanh chóng từ nửa năm sau của năm nay có khả năng đẩy mức nợ công trên GDP lên cao hơn nữa bởi tác động kép gồm GDP tăng chậm hơn và nợ công tăng nhanh hơn để tài trợ cho các nhu cầu chống dịch tăng vọt.

Cần lưu ý một điểm rất quan trọng nữa là về nhận thức phổ biến hiện nay rằng tình hình nợ công của Việt Nam đã cải thiện mạnh nếu tính theo tỷ lệ trên GDP. Điều này được thể hiện qua việc hạ trần nợ công từ mức 65% GDP trong Kế hoạch tài chính quốc gia giai đoạn 2016-2020 xuống còn 60% GDP theo Kế hoạch tài chính 2021-2025, cũng như các con số ước tính mới, đẹp hơn về nợ công/GDP hàng năm. Tuy nhiên, cần biết rằng GDP năm 2021 sau khi “điều chỉnh” về quy mô sẽ cao hơn tới 25% so với GDP chưa điều chỉnh (tính toán này dựa vào các con số nêu trong (1)). Như vậy, trần nợ công thực tế lại được nới tăng lên so với trước khi “điều chỉnh” GDP (bởi 60% của 1,25 x GDP là lớn hơn 65% của GDP).

Do đó, dù tỷ lệ nợ công/GDP trong năm 2021 trở đi nếu có giảm hoặc đứng ở dưới ngưỡng cho phép thì sự giảm đó chỉ đơn thuần mang tính mặt kỹ thuật, chứ thực chất thì nợ công vẫn đã và sẽ tăng mạnh, đặc biệt là so với tăng thu ngân sách – là nguồn chi trả nợ công chính, và là con số không thể “điều chỉnh” tăng mạnh lên như với GDP. Nói cách khác, dư địa tăng vay nợ không làm giảm đi rủi ro lên kinh tế vĩ mô từ tăng nợ công đi đôi với gia tăng bội chi ngân sách.

Để tránh áp lực gia tăng nợ công lên kinh tế, xã hội, cần, một mặt, tránh lạm dụng vay mượn với lý do tài trợ chống dịch và phục phục hồi kinh tế. Mặt khác, cần tăng cường nguồn thu nội tại có tính bền vững hơn, cụ thể là thuế.

Tăng thu thuế nghe thì rất có vẻ nghịch lý trong giai đoạn này khi Bộ Tài chính đang đề xuất cắt giảm hàng loạt sắc thuế. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đây, người viết cho rằng việc cắt giảm thuế trên diện rộng là điều bất hợp lý, ít nhất bởi có nhiều doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân vẫn phát đạt trong và sau đại dịch (nhánh khác trong chữ K nói trên). Do đó, với những đối tượng này, nếu không muốn tăng mức thuế chúng phải nộp, như cách Mỹ đang muốn thực hiện (tăng thuế thu nhập doanh nghiệp) để lấy vốn tài trợ cho các gói kích thích, phục hồi kinh tế ở nước này, thì cũng đừng nên cắt giảm thuế cho chúng.

Dẫu vậy, về trung hạn, sau khi đại dịch qua đi, do việc tăng vay nợ không thể là một giải pháp bền vững nên giải pháp tăng thuế, ít nhất là thuế thu nhập (doanh nghiệp và cá nhân) và có thể là thuế giá trị gia tăng như một số nước đã/sẽ làm (chẳng hạn Singapore) cần được xem xét và chuẩn bị.

Trước mắt, cần tăng cường nguồn thu thuế từ các đối tượng dạng tình nghi chưa nộp thuế (đầy đủ) như các đối tượng kinh doanh, quảng cáo online, các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp công nghệ xuyên biên giới... Nhưng để thu được thuế của các đối tượng này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, kể cả ở cấp độ đàm phán quốc gia, bởi nó liên quan đến các thỏa thuận đánh thuế toàn cầu đối với các công ty đa quốc gia nói chung và doanh nghiệp công nghệ lớn của Mỹ nói riêng.  

Lo nguồn lực cũng là để đảm bảo cho các sự chuẩn bị khác có tính khả thi hơn. Để phục hồi và phát triển hậu đại dịch thì trước đó cần chuẩn bị cho người lao động và doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với một hoành cảnh và môi trường kinh tế, xã hội mới mà có thể sẽ rất khác với thời tiền dịch. Hoàn cảnh và môi trường mới này đòi hỏi, ví dụ, doanh nghiệp và các ngành nghề phải tích cực chuyển đổi số, người lao động thì phải có kiến thức, kỹ năng mới để đáp ứng được nền sản xuất, kinh doanh mới dựa vào số hóa, làm việc từ xa nhiều hơn.

Sự chuẩn bị về phía Chính phủ trên khía cạnh này là thiết kế, hỗ trợ thực thi các giải pháp giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi số theo các hình thức như doanh nghiệp và Chính phủ cùng làm (doanh nghiệp bỏ ra một phần kinh phí, Chính phủ hỗ trợ một phần).

Người lao động được Chính phủ hỗ trợ chi phí sinh hoạt và đào tạo khi tham gia các khóa đào tạo nâng cao kỹ năng, đổi mới chuyên môn do Chính phủ thiết kế và/hoặc đài thọ (một phần).

Về bản thân bộ máy chính trị và chính quyền các cấp cũng cần có sự chuẩn bị theo hướng tinh gọn tối đa và nâng cấp khẩn trương chất lượng hoạt động của mình. Đại dịch đã bộc lộ một thực tế rõ ràng rằng bộ máy quản lý hiện tại vừa thừa vừa yếu, vốn dựa nhiều vào các quyết tâm chính trị, đã không đủ năng lực cần có để quản lý hữu hiệu kinh tế, xã hội. Nếu không có thay đổi về chất, đây sẽ là lực cản cho quá trình hồi phục và phát triển hậu đại dịch và các giai đoạn tiếp theo.

Tóm lại, đại dịch là một hích để bộc lộ hết những cái xấu và mặt khuất của kinh tế, xã hội, đồng thời cũng là động năng cho các thay đổi mang tính cách mạng. Nhận thức được các xu hướng thay đổi tất yếu để có những chuẩn bị kịp thời sẽ giúp nhanh chóng khắc phục được các hậu quả của dịch bệnh và đưa đất nước sang một trang phát triển mới.

(1) https://vov.vn/kinh-te/rui-ro-no-cong-hien-huu-sau-dai-dich-844407.vov

Monday 16 August 2021

Tác động của đợt phân bổ 456 tỉ SDR của IMF lên Việt Nam (Bài đăng trên KTSG, 15/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/319304/tac-dong-cua-dot-phan-bo-456-ti-sdr-cua-imf-len-viet-nam.html

Ngày 2/8, Thống đốc IMF đã phê chuẩn sự phân bổ chung Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) trị giá 456 tỷ SDR, tương đương 650 tỷ USD, nhằm bổ sung thanh khoản cho nền kinh tế thế giới (1). Sự phân bổ chung này sẽ có hiệu lực ngày 23/8. Đồng SDR mới tạo ra sẽ được ghi có cho tất cả các nước thành viên IMF tỷ lệ với quota hiện có của họ trong IMF.

Trước khi bàn đến tác động của đợt phân bổ chung này lên Việt Nam, cần biết mấy điều. Thứ nhất là về khái niệm SDR. Đây là một tài sản dự trữ quốc tế có lãi suất được IMF tạo ra năm 1969 để bổ sung dự trữ ngoại hối chính thức của các nước thành viên. SDR được dùng như một đơn vị hạch toán của IMF và một số tổ chức quốc tế khác, và không phải là một loại tiền tệ hay quyền đòi nợ với IMF, nhưng nó có thể đổi lấy những đồng tiền tự do sử dụng của các nước thành viên IMF trên thị trường tự nguyện mua bán, hoặc IMF có thể chỉ định các nước thành viên mua SDR của các nước thành viên khác.          

Thứ hai là về sự phân bổ chung SDR. Thỏa thuận của các thành viên IMF quy định khi thỏa mãn một số điều kiện thì IMF có thể phân bổ SDR cho các nước thành viên. Tuy nhiên, sự phân bổ chung SDR (cho tất cả các nước thành viên) phải nhất quán với mục tiêu đáp ứng nhu cầu toàn cầu trong dài hạn là bổ sung tài sản dự trữ ngoại hối hiện tại và được sự ủng hộ rộng rãi của các nước thành viên IMF (một sự phân bổ chung cần được Ban Thống đốc phê chuẩn với 85% tổng số phiếu bầu của các nước thành viên). Sau khi sự phân bổ chung được thông qua, các nước thành viên sẽ nhận được phần phân bổ tỷ lệ với quota của họ trong IMF.

Để dễ hình dung, hãy coi sự phân bổ chung SDR của IMF như một hành động nới lỏng định lượng bởi các ngân hàng trung ương, qua đó các nước thành viên IMF có thêm nguồn cung ngoại tệ mạnh nếu họ muốn tiếp cận và sử dụng, giúp họ giảm phụ thuộc vào việc phát hành nợ trong và/hoặc ngoài nước (và có lãi suất cao hơn) để tăng dự trữ ngoại hối. Một nước thành viên IMF được phân bổ bao nhiêu SDR thì tùy thuộc vào quota của nước đó trong IMF. Quota này được tính theo công thức luôn bị tranh cãi gồm các biến số như GDP, độ mở thương mại và “sự biến động”! Ở khu vực ASEAN, Indonesia có tỷ lệ quota cao nhất, 0,96% và Việt Nam có tỷ lệ thấp nhất, 0,24%.

Thứ ba, cho đến nay IMF đã phân bổ 204,2 tỷ SDR, gồm 182,6 tỷ phân bổ năm 2009 khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra. Giá trị của SDR được thiết lập dựa vào một rổ 5 đồng tiền là USD, euro,  nhân dân tệ Trung Quốc, yen Nhật, và bảng Anh. Tuy nhiên, đợt phân bổ lần này thực ra đã được đề xuất từ năm 2020 nhưng sau đó bị Mỹ dưới thời cựu Tổng thống Trump phủ quyết (Mỹ nắm 16,5% tỷ lệ phiếu bầu với quyền phủ quyết). Đến tháng 3 năm nay, chính quyền Tổng thống Biden đã ủng hộ đề xuất đợt phân bổ chung này.              

Thứ tư, Mỹ lúc đầu lo ngại một  cách sai lầm rằng sự phân bổ SDR cuối cùng sẽ phải tài trợ bởi tiền thuế của người dân Mỹ. Trên thực tế, các đợt phân bổ SDR không gây ra bất cứ tổn thất nào cho Mỹ. Sau đó, họ lại lo rằng sự phân bổ này làm tăng bất bình đẳng toàn cầu bởi các nước đang phát triển chỉ nhận được 42,2% tổng số SDR phát hành mới. Tuy nhiên, đối với các nước phát triển thì số tiền nhận được từ IMF như vậy cũng là rất quý vì nó bổ sung dự trữ ngoại hối, giảm áp lực lên nội tệ vào thời điểm họ phải căng mình tăng chi tiêu mà vẫn phải giữ các cân đối vĩ mô không quá xấu đến mức làm nền kinh tế  sụp đổ.

Thứ năm, trong đợt phân bổ năm 2009, nhiều nước giàu đã không sử dụng đến phần được phân bổ, mà để lại tại IMF. Do vậy, lần phân bổ này có thể sẽ có một xu hướng tương tự. Theo đó, các nước giàu thường đã bơm đủ tiền hay tiếp cận được với nguồn ngoại tệ mạnh như USD, nên có thể sẽ không cần phải dùng đến nguồn hỗ trợ thanh khoản này của IMF mà tiếp tục để lại tại đó. Xu hướng này không tạo ra tác dụng phụ có hại và cũng không tạo ra áp lực lạm phát toàn cầu. IMF cũng đang nghiên cứu các hình thức hỗ trợ từ các nước giàu cho vay phần SDR được phân bổ không sử dụng đến cho các nước nghèo như thông qua Quỹ ủy thác Tăng trưởng và giảm nghèo có lãi suất cho vay ưu đãi hiện tại bằng 0.    

Trở lại với tác động của đợt phân bổ chung 456 tỷ SDR lần này lên Việt Nam. Từ tỷ lệ quota 0,24%, Việt Nam sẽ nhận được 1,09 tỷ SDR, tương đương 1,56 tỷ USD. Con số này không phải là nhỏ, nhưng cũng không phải là lớn, vì nó chỉ chiếm khoảng quanh quẩn 1,5% dự trữ ngoại hối của Việt Nam có quy mô ước tính trên 100 tỷ USD hiện nay, hoặc tương đương khoảng một nửa tháng nhập khẩu của Việt Nam. Nói cách khác, nếu Việt Nam sử dụng nguồn cung ngoại tệ này để bổ sung dự trữ ngoại hối thì nó cũng chỉ tăng được thêm khoảng 1,5%.

Tuy nhiên, bản chất của sự phân bổ này, như đã nói, là một khoản tiền bơm ra từ ngân hàng trung ương (là IMF trong trường hợp này) mang tính cấp phát nên số tiền 1,56 tỷ USD mà Việt Nam nhận được trong số 650 tỷ USD mà toàn cầu nhận được từ IMF là một sự bổ sung thanh khoản có thể mang ra sử dụng ngay lập tức khi cần, nhưng không mang tính vay mượn. Như vậy, có thể coi đây là một nguồn quỹ dự phòng, thêm một lớp đệm an toàn cho một tương lai bất định.

Nhưng cần lưu ý là nếu Việt Nam sử dụng đến số SDR được phân bổ này, chẳng hạn để đổi lấy ngoại tệ (do đó, làm tăng tỷ trọng ngoại tệ và giảm tỷ trọng SDR nắm giữ trong quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam), thì sẽ phải trả lãi theo lãi suất 0,05% (có hiệu lực đến ngày 8/8) tính trên khoản chênh lệch giữa số SDR Việt Nam nắm giữ còn lại và phần SDR Việt Nam được phân bổ. Nếu không sử dụng đến nó thì khoản SDR được phân bổ này không tạo ra phí tổn nào cho Việt Nam ngoài khoản phí rất nhỏ phải trả hàng năm để duy trì hoạt động của Cục SDR của IMF, tính theo số phân bổ đã nhận được.

Nhờ số tiền nhận được này, về mặt kỹ thuật, Việt Nam có thể tăng thâm hụt thương mại thêm 1,56 tỷ USD hoặc tăng chi tiêu làm tăng thâm hụt ngân sách thêm khoảng 35 nghìn tỷ đồng nữa (với chi phí nhỏ dưới dạng lãi suất thấp hơn nhiều so với các khoản vay thương mại hoặc ưu đãi khác) mà không sợ làm tăng thêm áp lực lên tỷ giá tiền đồng. Việt Nam cũng có thể sử dụng số tiền này để trả nợ gốc/lãi hay đảm bảo nghĩa vụ của mình với các nước thành viên khác hoặc với IMF.

----

(1) https://www.imf.org/en/News/Articles/2021/07/30/pr21235-imf-governors-approve-a-historic-us-650-billion-sdr-allocation-of-special-drawing-rights

Sunday 15 August 2021

Chi ngân sách trong đại dịch: Tránh miễn, giảm thuế, phí đại trà (Bài đăng trên KTSG, 15/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/319328/chi-ngan-sach-trong-dai-dich-tranh-mien-giam-thue-phi-dai-tra.html

Bộ Tài chính đang dự thảo nghị quyết về một số giải pháp thu ngân sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19. Theo đó, sẽ giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2021. Hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh sẽ được giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong quý 3 và 4 năm 2021. Doanh nghiệp và tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ sẽ được giảm 30% thuế giá trị gia tăng.

Ngoài ra, cũng sẽ miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và 2021 đối với doanh nghiệp và tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, 2019 và 2020. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất giảm tiền thuê đất cho năm 2021.  

Tính gộp tất cả các giải pháp đã thực hiện từ đầu năm 2021 và các giải pháp đề xuất trên thì số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân năm 2021 là khoảng 138 ngàn tỉ đồng, trong đó gói gia hạn, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã ban hành khoảng 118 ngàn tỉ đồng (20 ngàn tỷ đồng còn lại là từ các giải pháp đang đề xuất) (1).

Số tiền 138 ngàn tỷ đồng đã và sẽ miễn giảm này tương đương với 9,3% tổng thu ngân sách năm 2020 (1.481,6 ngàn tỷ đồng) nên không thể không thừa nhận rằng đây là một con số lớn, đồng nghĩa với thâm hụt ngân sách sẽ tăng lên mạnh ít nhất trong năm nay.

Tất nhiên, trong bối cảnh đại dịch và nhu cầu chi bức thiết để vừa phòng chống đại dịch, vừa duy trì và phục hồi các hoạt động kinh tế thì sự tăng chi, tăng thâm hụt ngân sách là điều không thể tránh khỏi đối với không chỉ Việt Nam mà còn hầu hết mọi nước trên thế giới. Tuy vậy, cách chi thế nào cho hiệu quả và hợp lý là điều cần bàn.

Về nguyên tắc, miễn giảm thuế là một cách chi trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ và cá nhân. Tuy nhiên, cách làm này có nhược điểm lớn là đánh đồng mọi doanh nghiệp, hộ và cá nhân như nhau, bất kể họ có lãi hay không, nhiều hay ít. Điều này tạo ra một sự bất bình đẳng, cũng tương tự như việc đánh thuế thu nhập cá nhân theo một mức duy nhất, bất kể người có thu nhập chỉ 10 triệu đồng và người có thu nhập hàng tỉ, chục tỉ đồng/tháng.

Một phần vì lý do này mà trên thế giới chỉ có một ít nước là đã ban hành các giải pháp miễn giảm thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế kinh doanh, và thu nhập cá nhân (2).

Như vậy, nếu muốn hỗ trợ bằng các giải pháp thuế thì Chính phủ chỉ nên dừng lại ở các giải pháp chung được nhiều nước sử dụng như hoãn, kéo dài thời gian nộp thuế và miễn, giảm tiền phạt chậm nộp thuế. Mục đích của việc này chỉ là để tăng thêm thanh khoản cho nền kinh tế; các đối tượng được hưởng có thêm tiền trong tay để giải quyết các vấn đề cấp thiết khác trong sản xuất kinh doanh. 

Riêng giải pháp giảm thuế giá trị gia tăng trong một số lĩnh vực dịch vụ thì đây là điều hợp lý mà một số nước trên thế giới đã thực hiện, và phù hợp với nguyên tắc nêu ở trong bài này là không miễn giảm thuế một cách đại trà, cho bất cứ đối tượng nào.

Nói như trên không có nghĩa là đề xuất Chính phủ không tăng chi cho phòng chống đại dịch và phục hồi kinh tế. Thay cho việc miễn giảm thuế đại trà, trên diện rộng, Chính phủ cần tăng chi cho những đối tượng cần hỗ trợ, ví dụ như các đối tượng dễ bị tổn thương, các doanh nghiệp khó khăn đang phải đối mặt với áp lực sa thải nhân viên, các nhu cầu duy trì và củng cố hạ tầng cơ sở thiết yếu cho kinh tế xã hội, cũng như nhu cầu cấp vốn lãi suất thấp cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh để phục hồi kinh tế, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động.

Trên khía cạnh này thì ngoài khoản 118 ngàn tỷ đồng đã thực hiện, không thể đảo ngược lại được nữa, khoản 20 ngàn tỷ đồng đề xuất từ miễn giảm thuế nói trên cần được chuyển hóa thành, hoặc bổ sung thêm vào các gói hỗ trợ như gói 26 ngàn tỷ đồng cho người khó khăn vì dịch hoặc cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp (0%) để trả lương giữ chân người lao động...

Cũng cần nói thêm một chút về các biện pháp hỗ trợ đại trà như giảm giá điện, nước, cước viễn thông... Những biện pháp này về bản chất là cắt giảm chi phí hoạt động, sinh hoạt cho doanh nghiệp và người dân nhưng chúng lại đang vi phạm nguyên tắc hỗ trợ đúng đối tượng cần hỗ trợ, bởi doanh nghiệp và người dân có điều kiện, có thu nhập tốt cũng được hưởng lợi từ việc giảm giá và phí này.

Vì vậy, như ở nhiều nước khác, việc giảm tiền điện, nước... chỉ được áp dụng cho những hộ, người dân khó khăn, thu nhập thấp (căn cứ vào mức thu nhập khai báo tính thuế của họ). Còn người giàu có hơn thì vẫn phải trả giá cước như thường.

Trên hết, để đỡ làm phức tạp hóa vấn đề và dễ thực thi, hãy gộp các biện pháp hỗ trợ lẻ tẻ, dễ gây thất thoát không đúng đối tượng này thành một giải pháp hỗ trợ thống nhất như gói hỗ trợ cho người/doanh nghiệp khó khăn, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, căn cứ vào mức doanh thu, thu nhập của họ trong và sau đại dịch.

------       

(1) https://tuoitre.vn/se-giam-30-thue-thu-nhap-doanh-nghiep-nam-2021-20210802161904938.htm

(2) https://blogs.worldbank.org/developmenttalk/tax-relief-time-crisis-what-countries-are-doing-sustain-business-and-household

Monday 2 August 2021

Đơn hàng rời khỏi Việt Nam do dịch có quay lại? (Bài đăng trên KTSG, 1/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/318874/don-hang-roi-khoi-viet-nam-do-dich-co-quay-lai.html 

Các đợt phong tỏa, giãn cách nghiêm ngặt để phòng chống Covid-19 đã được tuyên bố nối tiếp nhau trên nhiều địa phương cả nước. Hậu quả nhãn tiền và thực tế đã có dấu hiệu bắt đầu xảy ra là sự ngừng trệ sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng và các đơn hàng của nước ngoài rời khỏi Việt Nam sang các nước khác, như trong ngành dệt may là một ví dụ.

Tuy nhiên, các đơn hàng rời đi đâu, trong bao lâu, liệu có quay trở lại Việt Nam hay không, khi mà việc phong tỏa, sự đứt gãy chuỗi cung (không chỉ vì Covid-19) cũng đang diễn ra ở nhiều nước, nhiều nơi trên thế giới?

Chuỗi cung ứng thế giới cũng đang oằn mình

Mới rồi trên Reuters có bài viết về sự gặp khó của chuỗi cung ứng thế giới trước hàng loạt các sự kiện tiêu cực(1). Đó là làn sóng mới của biến chủng Delta của Covid-19 trên toàn thế giới, các thảm họa tự nhiên ở Trung Quốc và Đức, và tấn công mạng vào các bến cảng biển chính ở Nam Phi. Những sự kiện này hợp sức đẩy chuỗi cung ứng thế giới vào thế vỡ trận, đe dọa luồng lưu thông dễ tổn thương của nguyên vật liệu, linh kiện, và hàng hóa tiêu dùng khắp thế giới.

Biến chủng Delta của Covid-19 đã không chỉ dẫn đến các đợt phong tỏa các thành phố, các nước, mà còn tạo ra những thách thức không thể ngờ trước đây lên chuỗi cung ứng. Đó là sự “thay ca” hàng trăm ngàn thủy thủ suy mòn sau những đợt hải hành ròng rã trên biển mà nay trở nên bất khả bởi phong tỏa, giãn cách như cho thấy trong năm 2020.

Vì vận tải biển vận chuyển lượng hàng hóa chiếm đến 90% thương mại thế giới nên cuộc khủng hoảng thủy thủ ảnh hưởng đến nguồn cung của hầu như mọi thứ, từ dầu mỏ, quặng sắt đến lương thực và hàng điện tử. Sự tắc nghẽn, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu thể hiện rõ nét qua các con số về công suất vận chuyển còn trống của tàu rất nhỏ, container rỗng hiếm, và tình hình hoạt động (tắc nghẽn) tại một số cảng không mấy cải thiện, mà mới đây nhất là sự dồn ứ container tại cảng Chicago, gây ra sự quá tải cho cả ngành đường sắt vận tải container từ cảng như được đưa tin trên tờ Wall Street Journal (2). Tình hình ách tắc này được dự đoán còn kéo dài đến quý 4, thậm chí là không thể dự đoán được.

Trong khi đó, lũ lụt tại Trung Quốc và Đức, những cường quốc kinh tế, đã giáng thêm đòn lên chuỗi cung ứng thế giới vẫn chưa hồi sức sau các đợt Covid-19 trước đây, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế trị giá hàng ngàn tỷ đô la phụ thuộc vào các nước này.

Ở Trung Quốc, lũ lụt làm gián đoạn nguồn cung than nhiệt từ các mỏ ở Nội Mông và Thiểm Tây ảnh hưởng khả năng phát điện từ các nhà máy nhiệt điện đúng vào đỉnh điểm của nhu cầu điện trong năm vào mùa hè. Còn ở Đức, lũ lụt ảnh hưởng mạnh đến vận tải đường bộ.

Tại Nam Phi, cảng container Durban, một trong những cảng bận rộn nhất ở châu Phi được xác nhận đã bị tấn công mạng hôm 22/7, trong khi mạng IT của công ty logistics Transnet SOC của Nam Phi cũng đã bị tê liệt (3). Những sự kiện này đã làm gián đoạn, dồn ứ container và linh kiện ô tô tại cảng và kho bãi.

Những sự kiện bất lợi trên đã gây ảnh hưởng nặng nề đến ngành công nghiệp chế tạo của thế giới, đặc biệt là ô tô. Hãng Toyota mới đây đã phải ngừng sản xuất tại các nhà máy ở Thái Lan và Nhật vì thiếu linh kiện.

Giá nguyên vật liệu thô tăng cùng với giá cước vận tải đã làm tăng chi phí sản xuất các linh kiện, phụ tùng, máy móc cung cấp cho các hãng chế tạo trên thế giới, đe dọa nỗ lực tiếp tục sản xuất tại nhiều nơi.

Sự rời đi và... quay lại tất yếu

Trong khi Hiệp hội Cảng Trung Quốc công bố tình hình đang còn căng thẳng tại các cảng của mình, họ cũng tiết lộ một số đơn hàng trong ngành chế tạo của các nước Đông Nam Á, Ấn Độ và các khu vực khác do sự bùng phát Covid-19, đã chuyển đến Trung Quốc (1).

Như vậy, việc các đơn hàng rời khỏi Việt Nam sang tay các nước đối thủ khác như Trung Quốc là điều tất yếu, khi mà tình hình Covid-19 dường như đã được kiểm soát tốt ở nước này trong khi lại đang bùng phát và lan truyền với tốc độ chóng mặt ở những nơi khác, nước khác.

Tuy nhiên, không nên nhìn nhận hiện tượng này với một sự đau khổ, nuối tiếc, hay dằn vặt. Hãy nhớ lại thời điểm cao trào thương chiến Mỹ-Trung trước đại dịch. Hàng loạt tin tức và bài viết cho thấy đã có (ý định) dịch chuyển đáng kể luồng đầu tư và thương mại từ Trung Quốc sang Việt Nam, tận dụng hoặc như một sự đối phó với các biện pháp thương mại mang tính trừng phạt của Mỹ lên Trung Quốc.

Thương chiến Mỹ-Trung và nay là Covid-19 dạy chúng ta một bài học rõ ràng rằng, ít nhất trong không gian kinh tế và ở mọi thời điểm, cơn bĩ cực của nước này là cơ hội cho nước khác.  

Điều quan trọng là sự thay đổi dòng chảy đơn đặt hàng này rất có thể chỉ là tạm thời, cho đến khi có một biến cố khác xảy ra, làm mất cân bằng những yếu tố định hình sự thay đổi này. Hãng tưởng tượng sau khi đại dịch Covid-19 qua đi (năm 2022?), quan hệ Mỹ-Trung tiếp tục xấu đi trở lại, còn quan hệ của Mỹ với Việt Nam và các nước láng giềng tiếp tục nồng thắm thêm. Lúc đó, dù Trung Quốc vẫn là một trong những cứ điểm đầu tư và chế tạo hấp dẫn nhất trên thế giới nhưng điều này cũng không thể ngăn một phần đơn hàng sẽ lại rơi vào tay nhà chế tạo Việt (hay Ấn, Đông Nam Á...).

Trên hết, Trung Quốc trong trung và dài hạn cũng đang tự mình đánh mất dần những lợi thế cạnh tranh, như nhân công giá rẻ và hình ảnh hấp dẫn của một người khổng lồ vươn vai trỗi dậy trong hòa bình, sẽ tạo vô số cơ hội cho các nước láng giềng đi sau như Việt Nam, nếu chúng ta biết cách nắm bắt.

Với những đối thủ khác cùng tầm, cuộc đua giành đơn hàng sẽ không diễn ra theo kiểu bài trừ lẫn nhau. Nền kinh tế thế giới tiếp tục phát triển, sự phân hóa và chuyên biệt ngày càng sâu thêm trong chuỗi cung ứng sẽ tạo ra cơ hội có tổng lớn hơn 0 cho Việt Nam và các nước đối thủ của mình.

Tất nhiên, điều kiện tiên quyết để Việt Nam giành được phần bánh lớn hơn này vẫn phải là khả năng nắm bắt cơ hội (ngày càng được cải thiện).

-----

(1) https://www.reuters.com/business/global-supply-chains-buckle-virus-variant-disasters-strike-2021-07-23/      

(2) https://www.wsj.com/articles/supply-chain-backlogs-turn-chicago-into-new-chokepoint-11627064719?mod=hp_listb_pos3

(3) https://safety4sea.com/cyber-attack-hits-south-african-ports/?__cf_chl_jschl_tk__=pmd_dd6465ba89211c4df14033eae6800832e951db8b-1627107464-0-gqNtZGzNAfijcnBszQii

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).