Saturday 27 February 2021

Chuyển đổi số: đừng ném tiền qua cửa sổ (Bài đăng trên TBKTSG, 26/2/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/313970/chuyen-doi-so-dung-nem-tien-qua-cua-so.html

Thời gian qua chúng ta đã được nghe nhắc đến nhiều về chuyển đổi số và tầm quan trọn của nó trong phát triển kinh tế. Thậm chí, ở Việt Nam, chuyển đổi số đã được nâng tầm lên thành chiến lược, chương trình quốc gia, như được thể hiện qua “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, được Thủ tướng phê duyệt hồi tháng 6/2020, với rất nhiều mục tiêu, chỉ tiêu định lượng cụ thể, bao hàm nhiều cấp độ, từ doanh nghiệp đến ngành và Chính phủ.

Tuy được nhắc đến thường xuyên và được đề cao vai trò nhưng chuyển đổi số lại được hiểu theo nhiều cách khác nhau, ngay cả trong giới chuyên gia và các cơ quan chức năng. Thậm chí, trong “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia” nói trên cũng dường như vắng bóng một khái niệm cơ bản – chuyển đổi số là cái gì? Do có nhiều cách hiểu khác nhau nên có một rủi ro lớn là các doanh nghiệp, các ngành sẽ không biết cần phải làm gì, từ đâu, và như thế nào, dẫn đến lãng phí tiền của và công sức khi thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt là nếu việc này được thực hiện theo phong trào.

Để dễ hình dung rủi ro này, xin được trích dẫn kết quả của một phân tích được tiến hành bởi International Data Corporatioin (IDC), theo đó có đến hơn 900 tỷ USD (70%) trong số 1.300 tỷ USD được chi tiêu cho chuyển đổi số trong năm 2018 đã bị lãng phí.

Vậy tại sao các dự án chuyển đổi số lại thất bại? Sau đây, chúng ta sẽ phân tích một số nguyên nhân dẫn đến thất bại này để làm bài học cho các dự án chuyển đổi số ở mọi cấp độ, tổ chức, ngành nghề.

Thứ nhất, không có một chiến lược kinh doanh cụ thể được định hình để từ đó áp dụng chuyển đổi số một cách phù hợp. Thông thường, khi nói đến chiến lược chuyển đổi số, các tổ chức thường gắn nó với công cụ chung chung, chẳng hạn công cụ máy học hoặc trí tuệ nhân tạo để rồi bỏ tiền đầu tư tùm lum, thuê hết tư vấn này đến tư vấn khác, mua các loại chương trình phần mềm công nghệ và đào tạo v.v...

Trong khi đó, nếu doanh nghiệp đã xác định rõ lĩnh vực cần cải thiện cụ thể, ví dụ là tốc độ đưa sản phẩm từ thiết kế đến tung ra ra thị trường, thì doanh nghiệp có thể áp dụng một công cụ công nghệ số cụ thể, chẳng hạn như công nghệ thiết kế ảo, sẽ giúp cắt giảm rất nhiều thời gian thiết kế cho doanh nghiệp.

Thứ hai, không xuất phát từ nhu cầu, trải nghiệm thực tế của người sử dụng trực tiếp trong nội bộ. Nhiều tổ chức khi bắt tay vào chuyển đổi số do thường không biết rõ cần phải làm gì, từ đâu nên có xu hướng thuê ngoài để rồi được tư vấn các giải pháp, công nghệ được áp dụng đại trà cho nhiều tổ chức khác. Chẳng hạn, cũng một quy trình phê chuẩn đơn xin, ở tổ chức này thì quy trình phi tập trung hóa sẽ là tối ưu, nhưng ở tổ chức khác, qua phản ánh của người sử dụng trực tiếp - nhân viên trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, thì quy trình tập trung hóa mới là tối ưu. Do đó, khi áp dụng chuyển đổi số thì tổ chức cần phải tìm hiểu, lắng nghe trải nghiệm và nhu cầu thực tế của người sử dụng để có giải pháp phù hợp, hiệu quả nhất.

Thứ ba, không tìm hiểu trải nghiệm của khách hàng. Tương tự như trên, các tổ chức thường có xu hướng áp dụng các giải pháp chuyển đổi số đại trà mà không tính đến đặc thù của khách hàng của mình. Thay vào đó, một chiến lược chuyển đổi số hữu hiệu hơn sẽ là chiến lược bắt đầu từ việc khảo sát, lắng nghe phản hồi của khách hàng về chất lượng hoạt động của tổ chức, các điểm mạnh và yếu của mình, cũng như nhu cầu và ưu tiên của khách hàng. Những kết quả khảo sát này sẽ được sử dụng vào thiết kế quy trình làm việc để tăng hiệu quả hoạt động và trải nghiệm khách hàng. Chẳng hạn, để rút ngắn thời gian xử lý đơn xin theo phản ánh của khách hàng, tổ chức có thể thiết kế chương trình phần mềm dành cho nhân viên tuyến đầu có khả năng tự động xác định các đơn xin bị treo ở đó.            

Nói cách khác, để tối đa hóa sự thỏa mãn của khách hàng thì cần phải thực hiện nhiều thay đổi ở cấp độ vi mô, bởi nhiều công cụ khác nhau, tại nhiều điểm khác nhau trong quy trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ.

Thứ tư, không giải quyết ổn thỏa tâm lý chống đối chuyển đổi của nhân viên. Khi nhân viên có suy nghĩ rằng chuyển đổi số sẽ đe dọa đến công việc của mình thì họ sẽ tìm cách chống đối, rốt cuộc làm cho chuyển đổi số trở nên không hiệu quả và lãnh đạo tổ chức sẽ phải bỏ chuyển đổi số. Vì vậy, điều cần làm là phải để cho nhân viên biết rằng chuyển đổi số sẽ là cơ hội để nhân viên nâng cấp kỹ năng của mình để phù hợp với tổ chức, với thị trường trong tương lai.                                                         

Một trong những giải pháp có thể làm là để nhân viên tự đánh giá đóng góp cụ thể của mình cho tổ chức, và sau đó sẽ nối kết sự đóng góp này với một cấu thành của quá trình chuyển đổi số, là cái mà họ sẽ đảm nhận sau này. Điều này làm cho nhân viên cùng kiểm soát được cách thức triển khai chuyển đổi số, và giúp họ cất cánh hơn nữa trong khuôn khổ công nghệ mới sẽ được áp dụng tại tổ chức như là kết quả của chuyển đối số.

Một ví dụ cụ thể là một tổ chức đang cân nhắc việc áp dụng trí tuệ nhân tạo để tăng năng suất. Nhưng trí tuệ nhân tạo cần được triển khai thế nào thì lại là điều chưa rõ. Vì vậy, tổ chức này quyết định áp dụng một công cụ AI thiết kế riêng để tối ưu hóa hiệu quả của mỗi nhân viên bán hàng bằng cách gợi ý khách hàng nào nên được gọi, khi nào nên gọi, và nói cái gì khi gọi v.v... Kết quả là sự thỏa mãn khách hàng được cải thiện, cũng như vậy là doanh số bán hàng.

Thứ năm, cơ cấu tổ chức cồng kềnh, ảnh hưởng đến tốc độ ra quyết định áp dụng và khả năng điều chỉnh, thay đổi cái mới.

Chuyển đổi số là một quá trình bất trắc, với các thay đổi ban đầu chỉ là tạm thời và sau đó phải liên tục được điều chỉnh; các quyết định phải được đưa ra nhanh chóng; và tất cả các bộ phận trong tổ chức phải cùng tham gia. Do đó, cơ cấu tổ chức truyền thống sẽ là lực cản cho chuyển đổi số. Vì thế tốt nhất là cần có một cơ cấu tổ chức ít tầng nấc, các bộ phận ít phụ thuộc vào nhau để các quyết định về áp dụng và/hoặc sửa đổi một công cụ/quy trình nào đó được nhanh chóng và thông suốt.                           

Việt Nam có thể bị ảnh hưởng thế nào khi lợi suất trái phiếu Mỹ tiếp tục tăng? (Bài đăng trên CafeF, 27/2/2021)

https://cafef.vn/viet-nam-co-the-bi-anh-huong-the-nao-khi-loi-suat-trai-phieu-my-tiep-tuc-tang-20210227090337118.chn

Lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ đã tăng mạnh trở lại gần đây bởi việc triển khai tiêm vaccine Covid cũng như khả năng Mỹ thông qua gói kích thích tài chính khổng lồ 1.900 tỷ USD. Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm đã đạt đỉnh 1,6% vào hôm 26/2, là mức cao nhất trong vòng 1 năm qua.

Lợi suất tăng đã tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán Mỹ. Kết thúc tuần cuối cùng của tháng 2, chỉ số S&P 500 giảm 2,5% - tuần giảm thứ 2 liên tiếp trong khi Dow Jones mất 1,8% và Nasdaq rớt 4,9%. 

Theo TS. Phan Minh Ngọc, chuyên gia đang làm việc trong ngành tài chính tại Singapore, do quy mô lớn của nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán Mỹ nên sự sụt giảm ở đây cũng thường gây tác động tới các thị trường chứng khoán khác trên toàn cầu, ít nhất trong ngắn hạn. 

PV: Theo ông, sự sụt giảm cổ phiếu lần này sẽ kéo dài bao lâu, bao xa?

TS. Phan Minh Ngọc: Bao lâu hay bao xa còn phụ thuộc vào động cơ đẩy lợi suất trái phiếu tăng lên. Thông thường, lợi suất trái phiếu sẽ tăng khi nhà đầu tư kỳ vọng nền kinh tế sẽ tăng trưởng (mạnh hơn) trong tương lai. Mặt khác, sự tăng này hoàn toàn cũng có thể là do nhà đầu tư kỳ vọng lạm phát cao trong tương lai.

Nếu lợi suất ở Mỹ đang tăng lên chủ yếu bởi kỳ vọng của nhà đầu tư vào sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ sau đại dịch thì sự tụt giảm trên thị trường chứng khoán sẽ không quá lâu, quá mạnh. Điều này được minh chứng qua sự tăng trưởng 3,9% của S&P 500 trong 3 tháng qua dù lợi suất của trái phiếu 10 năm đã tăng tới 0,5 điểm phần trăm, là một tốc độ tăng khá nhanh kể từ năm 1990.

Ngược lại, nếu lợi suất bị đẩy lên cao chủ yếu bởi kỳ vọng lạm phát thì triển vọng của thị trường chứng khoán sẽ trở nên ảm đạm hơn trong trung và dài hạn khi nhà đầu tư sẽ phải vay mượn để đầu tư vào thị trường chứng khoán với lãi suất cao hơn trong tương lai trong khi tiềm năng tăng trưởng của cổ phiếu lại bị giới hạn bởi triển vọng tăng trưởng kinh tế kém lạc quan. Động thái nới lỏng định lượng của Fed trong thời gian qua không gây ra áp lực đáng kể lên lạm phát ở Mỹ (vẫn thấp so với mục tiêu trên 2%) phần lớn bởi tổng cầu cũng bị đè nén trong đại dịch. Nay với triển vọng tái mở cửa trở lại sau khi tiêm vaccine đại trà thì không ai có thể khẳng định chắc chắn rằng sự tiếp tục nới lỏng của Fed như trong tuyên bố của họ mới đây sẽ không làm tăng mạnh và kéo dài lạm phát.

Vậy nhà đầu tư và thị trường cần chú ý gì trong thời gian tới?

Điều cần theo dõi chặt chẽ trong thời gian tới là diễn biến lạm phát ở Mỹ, nhất là khi nền kinh tế về cơ bản đã tái mở cửa khi việc tiêm chủng đã đạt quy mô cần thiết. Nếu lạm phát quay trở lại trong xu hướng tăng lên một cách "bền vững" hơn thì Fed chắc chắn sẽ sớm phải thu hẹp tiến đến chấm dứt nới lỏng định lượng một cách tương ứng bất chấp lập trường duy trì chính sách tiền tệ siêu nới lỏng cho đến ít nhất năm 2023. Fed khó có thể làm khác được dù rằng nền kinh tế đến lúc đó vẫn có thể chưa hoàn toàn phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng như ý muốn, bởi lạm phát cao kéo dài sẽ tác động tiêu cực ngược lại đến tăng trưởng kinh tế và tăng rủi ro đổ vỡ cho hệ thống tài chính.

Lạm phát gia tăng ở Mỹ là một yếu tố làm tăng áp lực lạm phát toàn cầu. Kết hợp với chính sách tiền tệ thắt chặt hơn ở Mỹ, điều này buộc các nước khác nhìn chung phải ở thế tự vệ, cũng buộc phải thắt chặt hơn chính sách tiền tệ của mình để phòng chống lạm phát, giữ chân dòng vốn nước ngoài, cũng như bảo vệ tỷ giá nội tệ.

Nếu những diễn biến trên xảy ra thì sẽ tác động thế nào tới thị trường tài chính các nước và Việt Nam thưa ông?

Nếu những diễn biến trên xảy ra trong thời gian tới thì Việt Nam sẽ càng phải thận trọng hơn trong việc nới lỏng tiền tệ. Nói cách khác, lãi suất ở Việt Nam sẽ có xu hướng đảo ngược và tăng lên trong thời gian tới nếu lạm phát và lãi suất tiếp tục tăng ở Mỹ và các nơi khác trên thế giới. Triển vọng tăng trưởng kinh tế cũng vì thế sẽ bị ảnh hưởng.

Một hậu quả đáng kể khác đến từ sự tăng lên của lãi suất ở Mỹ, và có ảnh hưởng mạnh đến các nền kinh tế khác trên thế giới, là chiều hướng lên giá của USD. Lý do là bởi các nhà đầu tư sẽ rút vốn đầu tư từ các nền kinh tế khác, bằng các đồng tiền khác để mua và nắm giữ các tài sản bằng USD để hưởng lãi suất cao hơn, nếu các điều kiện khác không thay đổi. Như vậy, nếu lợi suất trái phiếu Mỹ tiếp tục tăng lên thì nội tệ của các nước khác sẽ chịu áp lực điều chỉnh lớn hơn. Nói cách khác, xu hướng dư thừa USD trong hệ thống ngân hàng và sự suy yếu của tỷ giá USD/VND sẽ sớm chấm dứt trước xu thế rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài.

Để bảo vệ tỷ giá khỏi những biến động lớn bất lợi, tránh được cơn sốc cung ngoại tệ khi các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn về thì ngân hàng trung ương, nhất là của các nước đang phát triển, cần phải có một quỹ dự trữ ngoại hối đủ lớn làm bộ đệm cho cú sốc tiềm năng này. Điều may mắn là Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển ở châu Á gồm Thái Lan, Philippines, Indonesia và Ấn Độ đều đã tăng mạnh dự trữ ngoại hối lên mức cao kỷ lục trong năm 2020 và bước sang năm 2021. Tuy nhiên, so với các đối tác trong khu vực, nếu xét về độ lớn so với quy mô GDP và số tháng nhập khẩu thì quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn còn tương đối mỏng nên để ổn định tỷ giá thì Việt Nam sẽ phải dựa thêm nhiều hơn vào công cụ lãi suất.

Tóm lại, các hậu quả đến từ sự gia tăng lợi suất trái phiếu/lãi suất của Mỹ đến các nước đang phát triển như Việt Nam như nói ở trên sẽ xảy ra sớm hay muộn, kéo dài bao lâu và ở mức độ nào... tất cả sẽ phụ thuộc vào lạm phát kỳ vọng và thực tế tại Mỹ.

Friday 26 February 2021

Đô la thời chính quyền Tổng thống Biden sẽ đi về đâu? (Bài đăng trên CafeF, 26/2/2021)

https://cafef.vn/do-la-thoi-chinh-quyen-tong-thong-biden-se-di-ve-dau-20210226100016589.chn

Trong suốt nhiều năm liền qua các đời tổng thống hoặc là đảng Cộng hòa, hoặc Dân chủ, chính sách theo đuổi đồng USD mạnh luôn là chính sách nhất quán bởi quan niệm rằng USD mạnh là có lợi cho Mỹ. Điều này luôn được khẳng định bởi các bộ trưởng tài chính trong các buổi điều trần khi được hỏi về định hướng chính sách USD.             

Đồng USD mạnh mang đến hai cái lợi cho Mỹ. Thứ nhất, để có được USD mạnh thì Mỹ cần phải thực thi những chính sách kinh tế cẩn trọng. Thứ hai, với USD mạnh, Mỹ cho thế giới thấy họ tôn trọng những chuẩn mực toàn cầu về quản lý tiền tệ và, đặc biệt, không tìm cách làm cho đồng tiền của mình yếu đi. Điều này cũng củng cố vị thế lãnh đạo của Mỹ trong hệ thống toàn cầu.

Hai lợi thế trên cho phép Mỹ thảo luận (và gây áp lực) với các nước khác về các vấn đề tiền tệ của họ như Mỹ đã từng làm dưới thời Tổng thống Obama với Trung Quốc khi USD mạnh lên trong các năm 2015-2016. Dường như các thị trường tiền tệ toàn cầu sẽ trở nên trật tự và minh bạch hơn so với nếu Mỹ theo đuổi một sách lược tiền tệ khác.

Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Trump thì chính sách tiền tệ của Mỹ trở nên lộn xộn. Cựu Bộ trưởng Tài chính Mnuchin đôi lúc đưa ra những tuyên bố mâu thuẫn về USD, lúc thì muốn USD yếu đi, lúc thì ngược lại, thậm chí ngay trong một buổi chiều.

Sang đến thời của Tổng thống Biden thì tình hình có vẻ... chưa rõ!

Một mặt, Bộ trưởng Tài chính Yellen đã tuyên bố trong buổi điều trần tại Nghị viện rằng sẽ để cho thị trường quyết định tỷ giá của USD với các ngoại tệ khác và rằng “Mỹ sẽ không tìm cách làm yếu đồng tiền để đạt lợi thế cạnh tranh”. Bà cũng tuyên bố rằng Mỹ sẽ phản đối nỗ lực làm yếu bản tệ một cách không công bằng của các nước khác, và rằng “ý đồ nhằm vào tỷ giá để đạt lợi thế thương mại là không thể chấp nhận được”. Những tuyên bố này rõ ràng có nghĩa là Mỹ không ủng hộ, không mong muốn có một đồng USD suy yếu so với các ngoại tệ khác.

Nhưng mặt khác, trong tuyên bố trên của bà Yellen lại không có một lời nào cho thấy Mỹ muốn một đồng USD mạnh như trong tuyên bố của các người tiền nhiệm.       

Chính quyền mới của Tổng thống Biden có những ưu tiên chính sách và cản trở chính trị khác liên quan đến USD. Với chủ trương vực dậy ngành chế tạo của ông Biden thì chính sách theo đuổi một đồng tiền mạnh sẽ gây trở ngại cho chủ trương này. Do đó, có thể hiểu tại sao bà Yellen lại bỏ qua, không nói gì về chính sách đồng USD mạnh trong các chính quyền trước.

Tuy vậy, chủ trương mới của Bộ Tài chính (để thị trường quyết định tỷ giá) vẫn mang đến cho Mỹ hai lợi ích nói trên. Và điều quan trọng là chủ trương này tiếp tục gây áp lực lên Trung Quốc. Ít nhất trong nhiệm kỳ của Biden, Mỹ sẽ không để yên cho Trung Quốc dùng tỷ giá để thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ. Hơn nữa, sự phục hồi mạnh của Trung Quốc trong năm qua đã làm đồng Yuan của nước này lên giá mạnh so với USD. Với thái độ chống đối thao túng tiền tệ của bà Yellen chắc chắn Trung Quốc sẽ gặp áp lực lớn nếu muốn chấm dứt hoặc đảo ngược quá trình lên giá này.

Sự bỏ ngỏ một phần về chính sách đối với USD của Bộ Tài chính Mỹ dẫn đến một bất trắc, quan ngại khác. Sự suy yếu liên tục của USD trong thời gian qua trong bối cảnh bà Yellen khẳng định để thị trường quyết định tỷ giá trong khi không đả động gì đến chính sách theo đuổi USD mạnh như trước đây đang tạo ra một ấn tượng rằng Mỹ ủng hộ, thậm chí đang theo đuổi chính sách làm yếu USD. Điều này đến lượt nó lại càng đẩy mạnh quá trình suy yếu của USD và sự suy yếu của USD cứ thế tiếp diễn mạnh lên.

Tóm lại, điều có thể chắc chắn được tại thời điểm này liên quan đến chính sách của Mỹ với USD là Mỹ không muốn có một đồng USD suy yếu. Nhưng chừng nào Mỹ không khẳng định lại chính sách muốn có USD mạnh như trước đây thì kết cục cuối cùng lại rất có thể là Mỹ sẽ phải chấp nhận USD suy yếu. Vì vậy, chúng ta buộc phải chờ xem điều gì sẽ xảy ra mà không thể đoán định được đường hướng của USD trong mấy năm tới.                                                                                  

Friday 19 February 2021

Việt Nam nên làm gì với tiền số ngân hàng trung ương? (Bài đăng trên CafeF, 19/2/2021)

https://cafef.vn/viet-nam-nen-lam-gi-voi-tien-so-ngan-hang-trung-uong-20210219110947028.chn

Trên thế giới ngày càng có nhiều ngân hàng trung ương bắt đầu nghiên cứu và/hoặc phát hành tiền số của mình, gọi tắt là CBDC. Mới đây nhất, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã đưa đồng tiền số của mình vào thử nghiệm với các đối tác thương mại.

Không phải ngẫu nhiên mà các ngân hàng trung ương trở nên mặn mà với tiền số (CBCD) đến như vậy. Có người đã thẳng thừng chỉ ra rằng nỗ lực tạo ra và phổ biến tiền số đơn thuần chỉ là một hành động tự vệ của ngân hàng trung ương.

Tại sao các ngân hàng trung ương phải hành động tự vệ? Bởi họ đang thấy có sự đe dọa cho vị trí độc tôn trong việc kiểm soát tiền tệ và cung tiền.

Vậy ai đe dọa tước đoạt, làm lung lay vị trí này? Đó là các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán như Alipay. Đó cũng là các đồng tiền điện tử, tiền ảo khác đã, đang và sẽ được tạo ra bởi tổ chức phi nhà nước.

Tuy vậy, để viễn cảnh một ngày nào đó ngân hàng trung ương có thể trực tiếp tạo ra về mặt điện tử các CBDC sẵn sàng cho người dân chi tiêu thông qua điện thoại di động thành sự thật thì hàng loạt thách  thức, trở ngại cần phải được giải quyết ổn thỏa.

Trở ngại trước tiên là sự riêng tư, bảo mật không được đảm bảo trong việc sử dụng CBDC như với tiền mặt hay các công cụ thanh toán số khác. Không thể loại trừ khả năng các cơ quan chức năng sẽ lạm dụng để theo dõi các giao dịch vượt quá quyền hạn hay sự cần thiết như được yêu cầu trong công tác phòng chống rửa , tiền và các tội phạm tài chính khác. Đối với đồng tiền số của Trung Quốc đang được thử nghiệm, cơ quan chức năng nước này cho phép “sự ẩn danh có kiểm soát”, có nghĩa là người thực hiện các giao dịch có thể không biết được nhau nhưng ngân hàng trung ương thì biết được ai với ai.

Để khắc phục khiếm khuyết lớn này – là khiếm khuyết không thể chấp nhận được ở các nước phương Tây, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đang xem xét đến một loại phiếu (voucher) ẩn danh, cho phép người sử dụng chuyển một lượng tiền số nhất định trong một thời gian xác định trước.

Nhưng do hạn chế về số tiền và thời gian có thể chuyển nên loại voucher kiểu này lại vi phạm nguyên tắc căn bản của tiền tệ là người sử dụng có thể chuyển bao nhiêu vào thời điểm nào cũng được. Do đó, tiền số kiểu này chắc chắn sẽ không được đón nhận và sử dụng rộng rãi.

Trở ngại thứ hai cho việc phát hành và phổ cập tiền số CBDC là người sử dụng bắt buộc phải có điện thoại thông minh và mạng Internet. Như vậy, nếu người nghèo, ở vùng sâu, vùng xa không có mạng và cũng không có điện thoại thông minh thì sẽ không tiếp cận và sử dụng được tiền số (tất nhiên sẽ do quốc gia phát hành). Vì khả năng này là một điều chắc chắn trong một thời gian nữa nên việc phát hành và phổ cập tiền số ở nhiều nước sẽ phải đối mặt với những vấn đề như bất bình đẳng và loại trừ tài chính (financial exclusion).

Một trở ngại lớn khác là sử dụng tiền số CBDC có nghĩa là người sử dụng CBDC để thanh toán cho nhau có thể không cần đến sự có mặt của các ngân hàng thương mại. Do tiền gửi thanh toán của khách hàng và doanh nghiệp là một nguồn vốn lớn và chi phí thấp đối với các ngân hàng thương mại nên việc người sử dụng không gửi tiền vào ngân hàng thương mại để dùng cho các giao dịch thanh toán sẽ làm thiệt hại lớn cho các ngân hàng thương mại.

Cho đến nay vẫn chưa có giải pháp nào để khắc phục trở ngại này, trừ khi ngân hàng trung ương muốn thấy hệ thống ngân hàng thương mại bị suy yếu, bất ổn khi CBDC được phát hành và phổ cập nhanh chóng, rộng rãi và cấp tập.

Ngoài ba trở ngại trên, việc phát hành và sử dụng CBDC tất nhiên sẽ còn phải đối mặt với nhiều trở ngại khác mà báo chí đã phân tích. Do sự bất cập, thiếu vắng các giải pháp hiện thời nên quá trình nghiên cứu, tạo dựng và phát hành CBDC ở nhiều nước sẽ cần nhiều thời gian. Nhiều nước sẽ phải nhìn nhau, chờ nhau và học hỏi kinh nghiệm của nước đi trước để biết nên làm thế nào cho đúng. Mỹ là một trong những điển hình cho thái độ “chờ xem” này khi mà Chủ tịch Fed Powel nói rằng điều quan trọng là (làm) đúng chứ không phải là (trở thành người) đầu tiên, mặc dù Mỹ cũng đang có dự án xây dựng và thử nghiệm một đồng đô la số của mình.

Đối với Việt Nam, trước các khiếm khuyết và trở ngại của tiền CBDC và trong khi chưa có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục, điều này không có nghĩa là Việt Nam nên đứng ngoài cuộc chơi, tự tách mình khỏi xu hướng chung của thế giới trong việc phát hành và phổ biến CBDC, đặc biệt khi xét đến các lợi ích mà CBDC mang lại. Nói cách khác, trước khả năng tiền số CBDC phát triển nhanh chóng trên thế giới, sẽ là bất cập nếu Việt Nam tiếp tục đánh đồng mọi loại tiền số và tiếp tục không chấp nhận tiền số (làm phương tiện thanh toán) như hiện tại, ít nhất là để phòng trường hợp Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền đồng điện tử.  

Trong giai đoạn tiền số CBDC vẫn còn “tranh tối tranh sáng” như hiện nay, điều tối thiểu Việt Nam cần làm là phải chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với tình huống trong đó việc phát hành và phổ cập CBDC đột ngột trở nên nhanh chóng và phổ biến trên thế giới. Ở tư thế chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng, Việt Nam sẽ biết mình phải làm gì ngay cả khi vẫn không thấy tiền số là điều đáng quan tâm hay quyết định không phát hành tiền số của riêng mình.  

Tuesday 16 February 2021

Tại sao Việt Nam không thể “phóng tay” nới lỏng tiền tệ? (Bài đăng trên CafeF, 16/2/2021, bản gốc)

https://cafef.vn/tai-sao-viet-nam-khong-the-phong-tay-noi-long-tien-te-20210216140352983.chn

Không nằm ngoài xu thế chung trên thế giới, ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã chủ động và tích cực nới lỏng chính sách tiền tệ như được thể hiện qua ba đợt cắt giảm lãi suất điều hành trong năm trước nhằm đối phó với các tác động của đại dịch Covid-19.

Tuy nhiên, điều khác biệt giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là các nước phương Tây, là ở mức độ nới lỏng. Trong các đợt hạ lãi suất ở Việt Nam, NHNN thường chỉ cắt giảm 0,5 điểm phần trăm. Và hiện tại thì các mức lãi suất điều hành của Việt Nam vẫn ở mức khá cao so với thế giới, chênh lệch ít nhất tới 3-4 điểm phần trăm/năm.

Trong khi đó, ở phương Tây, không chỉ cắt giảm lãi suất điều hành về sát 0, ngân hàng trung ương của nhiều nước còn đã và đang tiến hành thêm biện pháp nới lỏng định lượng – mua trái phiếu của Chính phủ và doanh nghiệp – để cấp tập tung thêm tiền ra nền kinh tế nhằm chặn đà rơi của tăng trưởng và cứu vãn việc làm.

Trước thực tế này, nhiều người thấy khó hiểu tại sao Việt Nam lại có vẻ thận trọng trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ như vậy, và cũng đã có không ít người kiến nghị NHNN nới lỏng tiền tệ (hạ lãi suất) hơn nữa, thậm chí cũng nên nới lỏng định lượng như các nước khác.

Để lý giải nguyên nhân của sự thận trọng nói trên, ta cần biết những khác biệt cơ bản trong bối cảnh kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác, nhất là các nước phát triển phương Tây.

Khác biệt trước tiên là khoảng cách chênh lệch giữa tăng trưởng GDP tiềm năng và tăng trưởng GDP thực tế. Do đại dịch, tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước đã bị âm trầm trọng trong các quý của năm qua, làm doãng rộng chênh lệch giữa tăng trưởng tiềm năng và tăng trưởng thực tế. Theo lý thuyết, nếu chênh lệch này càng doãng rộng thì lạm phát (như là hậu quả của việc tăng cung tiền) càng khó xảy ra hơn.

Tăng trưởng âm cũng có nghĩa là nền kinh tế sẽ có nhiều rủi ro hơn trong việc phục hồi tăng trưởng vì năng lực sản xuất đã bị phá hủy một phần bởi suy thoái, nhiều doanh nghiệp sẽ không thể mở cửa trở lại, nhiều người lao động sẽ không (thể) làm việc trở lại, và những nguồn lực bị bỏ phí, không sử dụng trong suy thoái, như thiết bị, kỹ năng người lao động sẽ trở nên lạc hậu, “quá đát” v.v... Đại dịch cũng buộc nhiều người phải ở nhà, hoặc bị thất nghiệp, bị giảm thu nhập. Trong khi đó, tồn kho tại các doanh nghiệp tăng lên vì người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu.

Trong bối cảnh suy thoái này,  dù các nước tăng mạnh cung tiền thì cũng chỉ có một phần trong số này được cho vay hoặc chi tiêu. Và cho dù vậy thì việc cho vay/chi tiêu này cũng không thể đẩy tổng cầu tăng vọt một cách tương đối so với tổng cung để có thể dẫn đến lạm phát như theo lý thuyết. Thay vào đó, một phần lớn số tiền này mới tung ra này sẽ nằm tắc tại ngân hàng, trên bảng cân đối tài sản của chúng hoặc trong tài khoản tiết kiệm của người tiêu dùng (nếu có/còn).                                                    

Ngược lại, tuy cũng bị tác động từ đại dịch nhưng tác động này ở Việt Nam nhìn chung là nhỏ hơn ở các nước khác nên Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng dương, và thuộc hạng cao trên thế giới. Do đó, chênh lệch giữa tăng trưởng tiềm năng và thực tế tuy có doãng rộng hơn trước đây nhưng chắc chắn ở mức nhỏ hơn nhiều so với hầu hết các nước khác trên thế giới. Tương tự như vậy là tổng cầu tại Việt Nam không những không bị suy giảm mạnh như ở nhiều nước mà còn tăng lên đáng kể (do tăng trưởng GDP dương).

Như vậy, nếu Việt Nam tăng mạnh và cấp tập cung tiền với mức độ như ở nhiều nước thì áp lực lạm phát sẽ tăng vọt. Trên thực tế, như đã thấy, dù nới lỏng tiền tệ ở Việt Nam chỉ có mức độ thận trọng như vậy nhưng lạm phát của Việt Nam đã và vẫn đứng ở mức khá cao so với thế giới (trên 3%/năm).

Khác biệt đáng kể thứ hai là về kỳ vọng lạm phát – là một yếu tố cũng có liên quan đến thực trạng tăng trưởng kinh tế. Lạm phát sẽ khó mà nổ ra nếu người tiêu dùng không tin nó sẽ nổ ra. Suy thoái càng trầm trọng thì lòng tin tiêu dùng càng suy giảm. Đồng hành với lòng tin tiêu dùng suy giảm là kỳ vọng lạm phát cũng bị suy yếu đi do triển vọng phục hồi kinh tế mù mịt hơn.

Lạm phát của Mỹ đã nhích lên hồi tháng 1 năm nay nhưng nó vẫn còn thấp xa so với mức mà Fed kỳ vọng. Ở Trung Quốc, lạm phát bất ngờ giảm 0,3% trong tháng 1 so với cùng kỳ năm trước. Còn các quan chức Nhật thì nhiều lúc cho thấy họ như đã đầu hàng trong việc đạt được mục tiêu đẩy lạm phát ở nước này lên 2%/năm. Ngay ở trong khu vực Đông Nam Á, nơi mà tăng trưởng cũng như lạm phát thường cao hơn các nước đã phát triển, giá cả thậm chí cũng sụt giảm ở một số nước.           

Trong khi đó, như đã thấy, giá cả ở Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trong năm qua và bước vào năm nay, dù ở mức bị kiềm chế hơn. Điều này cho thấy kỳ vọng lạm phát là một điều rất thật ở Việt Nam và nó rất nhạy cảm với đường hướng của chính sách tiền tệ của NHNN – là một điều đã được kiểm chứng chắc chắn trong quá khứ.

Khác biệt thứ ba là về tốc độ tăng lương. Ở các nước phát triển, tiền lương của nhiều công nhân trong nhiều ngành không tăng tương ứng với lạm phát trong nhiều năm qua. Đây là kết quả của toàn cầu hóa và outsourcing việc sản xuất sang các nước đang phát triển có tiền lương rẻ hơn. Do thu nhập của một bộ phận người làm công ăn lương không tăng tương ứng nên tổng cầu cũng sẽ không tăng tương ứng với nới lỏng tiền tệ của ngân hàng trung ương.

Ngược lại, ở Việt Nam, tiền lương nhìn chung được gắn chặt hơn với lạm phát, như được minh họa qua việc điều chỉnh thường xuyên lương tối thiểu. Do đó, áp lực lên lạm phát từ phía tổng cầu thường có xu hướng lớn hơn ở Việt Nam so với các nước khác.  

Khác biệt thứ tư là ở khối nợ của doanh nghiệp. Tuy mang tiếng đã được hưởng lợi lớn từ các đợt nới lỏn tiền tệ cũng như nới lỏng định lượng kéo dài trong nhiều năm qua nhưng, ví dụ, như ở Mỹ, tổng nợ của doanh nghiệp Mỹ mới chỉ tương đương với gần 75% GDP năm 2019, theo số liệu của IMF. Số liệu tương ứng từ IMF cho Việt Nam không tồn tại, nhưng số liệu từ Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam cho thấy tỷ lệ nợ phải trả so với GDP của doanh nghiệp Việt Nam là lớn hơn nhiều (ví dụ, năm 2017 tỷ lệ này của Việt Nam là 472%, tăng từ mức 436% năm 2016).                                                                     

Nếu các số liệu so sánh trên là tương thích với nhau ở mức độ nhất định nào đó thì có thể thấy các doanh nghiệp tại Việt Nam đang ngập trong nợ nần nhiều hơn nhiều so với các nước phát triển. Theo lý thuyết, năng suất của một đồng vốn tạo ra GDP hoặc thu nhập sẽ giảm đi nếu lượng vốn tăng lên. Và do năng suất vốn giảm nên đồng hành với sự tăng lên của GDP do tăng cung tiền sẽ là sự tăng lên của áp lực lạm phát. Điều này có nghĩa là để đạt cùng một hiệu ứng kích thích tăng trưởng như nhau thông qua cung cấp đủ vốn cho doanh nghiệp thì chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được nới lỏng ở mức lớn hơn nhiều so với phương Tây, trong khi lại gây ra áp lực lạm phát lớn hơn.

Tóm lại, do những khác biệt lớn về cấu trúc và hiện trạng kinh tế nên Việt Nam không thể “đua trend” với các nước phát triển trong việc nới lỏng tiền tệ, kích thích tăng trưởng nếu không muốn phải đối mặt với rủi ro lạm phát tăng vọt giai đoạn hậu kích thích.                  


Friday 12 February 2021

Những thách thức cho Việt Nam trong năm 2021 dưới góc nhìn của người nước ngoài (Bài đăng trên CafeF, 11/2/2021)

 https://cafef.vn/nhung-thach-thuc-cho-viet-nam-trong-nam-2021-duoi-goc-nhin-cua-nguoi-nuoc-ngoai-20210211153848261.chn

Tờ Straitstimes của Singapore vừa có bài viết tập hợp một số ý kiến đánh giá của các chuyên gia nước ngoài về các cơ hội và thách thức cho Việt Nam trước thềm năm mới.

Theo bài viết, dịch bệnh tuy đã ảnh hưởng mạnh đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020 nhưng đồng thời dịch bệnh cũng đã mở ra những cơ hội mới liên quan đến sự phong tỏa và xu hướng làm việc tại nhà, từ xa trên thế giới để Việt Nam bứt phá nếu kịp thời nắm bắt các cơ hội này trên nền tảng kiềm chế tương đối thành công đại dịch.

Bài viết nhấn mạnh Việt Nam cũng đã nhận thức rõ những cơ hội này nên đã đặt ra những mục tiêu tham vọng cho nền kinh tế, như tăng gấp đôi GDP/đầu người vào năm 2030 so với năm 2020 (Ghi chú: nguyên văn trong bài viết là tăng gấp đôi GDP vào năm 2025) và đạt được vị thế là nước thu nhập cao vào năm 2045 từ vị thế hiện tại là nước thu nhập trung bình thấp.

Bên cạnh những mục tiêu kinh tế tổng quát nói trên, Việt Nam cũng đề ra những mục tiêu kinh tế cụ thể hơn như tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tăng tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế từ 42% lên 50%. Một mục tiêu khác là tiến lên các bậc cao hơn trong chuỗi giá trị bằng cách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có chất lượng hơn.

Mặt khác, bài viết cũng chỉ ra những thách thức trong việc đạt được những mục tiêu tham vọng này, ngoài thách thức đến từ đại dịch vẫn chưa đến hồi kết vẫn đang gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế.

Trước hết, về mặt kỹ thuật, bài viết chỉ ra rằng để tăng gấp đôi GDP/đầu người vào năm 2030 thì kinh tế Việt Nam cần phải đạt được tốc độ tăng trưởng 9-10%/năm – là tốc độ mà theo bài viết là quá cao đối với Việt Nam.

Ngoài ra, theo bài viết, Việt Nam phải đối mặt với sự thiếu hụt lao động kỹ năng cao, cơ sở hạ tầng cần cải thiện và các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả. Hơn nữa, các vấn đề địa chính trị như tâm lý bảo hộ mậu dịch đã quay trở lại ở nhiều nước gây trở ngại cho xuất khẩu của Việt Nam, cũng như thương chiến Mỹ-Trung cũng sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực.

Trên thực tế, những thách thức trên không phải là một phát hiện mới trong con mắt của người nước ngoài đối với Việt Nam. Bởi bài viết cũng trích dẫn lời của lãnh đạo nước ta khi thẳng thắn chỉ ra những thách thức, trong đó có sự không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và sự tăng trưởng chưa bền vững của khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài.

Tuy vậy, bài viết trở nên có ý nghĩa hơn khi trích dẫn chuyên gia nước ngoài hoài nghi liệu Việt Nam có sẵn sàng tiếp tục chương trình cổ phần hóa hay chưa trước khi dịch bệnh được khống chế để không còn ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nữa.

Vì chương trình cổ phần hóa là một phần của kế hoạch tăng cường vai trò của khu vực tư nhân nên bài viết dẫn ý kiến của các nhà phân tích cho rằng Việt Nam cần phải thúc đẩy cổ phần hóa đúng tiến độ. Các nhà phân tích cũng cho rằng mục tiêu tăng tỷ trọng của khu vực tư nhân lên trên 50% có khả thi hay không còn phụ thuộc vào các giải pháp được triển khai để thu hút đầu tư.        

Đối với mục tiêu tiến lên bậc cao hơn trong chuỗi giá trị nhờ  thu hút đầu tư nước ngoài chất  lượng cao hơn, thách thức chủ yếu là sự thiếu hụt lao động có trình độ cao. Bài viết dẫn ý kiến chuyên gia cho rằng Việt Nam cần không chỉ tăng số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học mà phải mở rộng phạm vi sử dụng số người tốt nghiệp này vì hiện tại phần lớn số người tốt nghiệp đại học làm việc trong khu vực công.

Trong khi tính chính xác của ý kiến này (cụ thể về tỷ lệ người tốt nghiệp đại học làm trong khu vực công) vẫn cần phải được kiểm chứng nhưng chúng ta có thể thấy quan ngại này cũng có phần xác đáng nếu xét đến tâm lý vẫn còn ưa chuộng khu vực công của nhiều người tốt nghiệp đại học. Điều này đã và tiếp tục tạo ra trở ngại cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nếu không được khắc phục một cách căn bản.

Đối với thách thức từ sự bất cập của cơ sở hạ tầng, bài viết minh họa sự bất cập này bằng số liệu của Ngân hàng Thế giới mà theo đó tỷ lệ đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng trên GDP của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trong khu vực ASEAN. Bài viết nhận định điều này ảnh hưởng đến khả năng cung cấp một cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho sự phát triển ở giai đoạn tiếp theo.  

Với những thách thức và trở ngại nêu trên, bài viết cho rằng mặc dù các chuyên gia nước ngoài tin tưởng Việt Nam vẫn đang trong quỹ đạo tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng là điều bất trắc. Tốc độ tăng trưởng này cũng như việc đạt được các mục tiêu kinh tế tham vọng khác sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ xử lý các thách thức và trở ngại này hiệu quả như thế nào trong thời gian tới, bài viết kết luận. 

Wednesday 10 February 2021

Nhận dạng những xu hướng hậu Covid (Bài hình như được đăng trên Thời đại số Tết)

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến cuộc sống và làm việc của hầu như mọi tổ chức và cá nhân trên thế giới. Điều này đã buộc những ngành nghề cũ phải đổi thay và những ngành nghề mới ra đời. Những cách thức sống và làm việc mới đang trỗi dậy khi nỗi sợ hãi dần tan. Dưới đây là một số xu hướng sẽ định hình và định nghĩa lại đời sống, tổ chức và xã hội của tất cả chúng ta.

Tăng tốc chuyển đổi số

Đại dịch đã cho thấy không có gì là bền vững, bất biến, và chỉ có ai năng động, có tính thích nghi cao thì mới tồn tại và phát triển được. Nó càng buộc các công ty phải có những bước đi mạnh mẽ hơn nữa để áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại hóa cấu trúc tổ chức và văn hóa doanh nghiệp, hệ thống đo lường và kiến trúc hoạt động. Cho dù công ty hiện đang đi trước đối thủ, họ cũng phải tiếp tục sẵn sàng để thay đổi, đối mặt với rủi ro lường trước và sẵn sàng để thất bại chóng vánh, nếu không thì khả năng cao là việc kinh doanh của họ sẽ bị gián đoạn. Vì vậy, tăng tốc trên con đường chuyển đổi số sẽ là ưu tiên hàng đầu cho nhiều công ty muốn đảm bảo sự kinh doanh thông suốt, cải thiện năng suất và tung ra những mô hình kinh doanh mới để duy trì tính cạnh tranh.

Địa phương hóa

Toàn cầu hóa là xu hướng chiến lược phổ biến trong mấy thập kỷ qua. Nhưng biến đổi khí hậu và sau đó là Covid-19 vốn gây ra sự gián đoạn hơn nữa chuỗi cung ứng đã làm tăng vọt nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm địa phương cũng như làm suy yếu tổng cầu. Sản phẩm và dịch vụ cùng với chuỗi cung ứng địa phương đã trở nên quan trọng hơn với không chỉ người tiêu dùng mà còn cả với các công ty muốn tăng sức đề kháng cho các cuộc khủng hoảng trong tương lai. Điều này có ảnh hưởng đến và là hàm ý cho các vấn đề liên quan đến chuỗi cung ứng cũng như kỳ vọng khách hàng và việc đáp ứng kỳ vọng đó. Thế giới sẽ ngày càng cá nhân hóa. Khách hàng sẽ ngày càng đòi hỏi hơn, muốn sự đa dạng hóa sản phẩm và nhiều kênh phân phối hơn để lựa chọn, thời gian giao hàng nhanh hơn và minh bạch hơn.

Phân mảnh chuỗi cung ứng

Các chuỗi cung ứng sẽ phân mảnh hơn nữa với các nền tảng công nghệ nối kết các bộ phận của chuỗi cung ứng với nhau, được tiếp sức bởi việc ứng dụng và ngày càng phổ biến của internet 5G. Chuỗi cung ứng nhiều tầng này sẽ mở ra nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng, quản lý tồn kho, tối ưu hóa sản xuất và phân phối, quản lý hậu cần và quản lý dòng tiền/vốn.

Cuộc sống không cần sự hiện diện vật lý

Đại dịch dẫn đến các đợt phong tỏa và buộc nhiều người phải ở nhà. Mọi người dần trở nên thích nghi và làm quen tốt với xu hướng dùng sự hiện diện điện tử thay thế cho hiện diện vật lý ở trong nhiều lĩnh vực như làm việc, giáo dục và giải trí. Xu hướng không yêu cầu phải hiện diện vật lý sẽ tác động đến hành vi người tiêu dùng và kỳ vọng khách hàng đối với nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Xu hướng này sẽ ngày càng trở nên rõ nét hơn trong tương lai, cùng với những lựa chọn làm việc từ xa, nó sẽ thay đổi vĩnh viễn và mạnh mẽ cung cách và thói quen hiện nay và tạo ra những lĩnh vực kinh tế mới. Một trong những ví dụ điển hình là ngành khám chữa bệnh từ xa, vốn trước đại dịch chỉ là một mảng nhỏ trong ngành chăm sóc sức khỏe. Đại dịch đã làm cho nhiều người tiêu dùng quan tâm hơn đến và bệnh nhân bị hấp dẫn hơn bởi dịch vụ tư vấn, khám chữa bệnh từ xa, tạo điều kiện để các trung tâm y tế thiết lập và phát triển dịch vụ này trong tương lai. Tương tự là các ngành, lĩnh vực mới dựa vào trải nghiệm số hóa như triển lãm, hòa nhạc hay thậm chí nếm rượu vang online.

Định vị lại phân khúc khách hàng

Thông thường nhiều công ty định vị phân khúc khách hàng dựa vào các tiêu chí nhân khẩu học như độ tuổi, thành phố, và thu nhập. Nhưng điều nhiều khi có tính chi phối lại là trạng thái tâm lý của người tiêu dùng. Đại dịch làm cho nhiều người giảm thu nhập nên những người này hoặc cắt giảm tối đa chi tiêu, hoặc chỉ (muốn) mua những thứ gì “ngon, bổ, rẻ”. Việc giảm giá khuyến mại và/hoặc tăng cảm giác “đáng đồng tiền bát gạo” hướng vào đối tượng này sẽ giúp công ty duy trì, thậm chí tăng doanh thu, lợi nhuận. Ngược lại, đại dịch còn làm lợi cho không ít người nên họ sẵn sàng chi tiêu hơn nữa mà không bận tâm nhiều về giá. Do đó, chiến lược bán hàng thiết kế riêng cho hai phân khúc khách hàng khác nhau này sẽ giúp duy trì, thậm chí làm tăng sức mạnh làm giá của công ty. Ngoài ra, đại dịch làm thay đổi hành vi và thuộc tính người tiêu dùng còn tạo ra những phân khúc khách hàng mới sẵn sàng chi tiền cho một (số) sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó nên chiến lược bán hàng cũng cần nắm bắt kịp thời những xu hướng này.

Tăng cường thương mại điện tử

Không mấy ai phản đối rằng đại dịch là một cú hích quyết định cho thương mại điện tử. Trước xu hướng ngày càng có nhiều người tiêu dùng chuyển sang hoặc tăng cường mua sắm online, các doanh nghiệp đã và đang đẩy mạnh đầu tư năng lực thương mại điện tử để không tụt hậu với đối thủ. Đồng thời, sẽ ngày càng nhiều người lựa chọn đặt hàng online và đi nhận hàng tại điểm chạm (touchpoint) vì đối tượng khách hàng này muốn có sự kết hợp giữa nhu cầu có hàng sớm nhưng chỉ cần nỗ lực cá nhân tối thiểu trong nhận hàng, thường là những người không muốn mất thời gian đợi hàng được giao tại nhà nhưng cũng không muốn trải nghiệm bất tiện đi mua hàng tại quầy.

Thương mại điện tử còn được trợ giúp bởi nhu cầu bùng nổ các dịch vụ stream trong đại dịch như xem video trên nền tảng của Netflix. Nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt xu hướng này, sử dụng công nghệ có sẵn để số hóa tương tác của họ với khách hàng gồm giới thiệu sản phẩm và hỏi đáp trên các phương tiện truyền thông, với chi phí tối thiểu so với các kênh tương tác truyền thống.

Những doanh nghiệp không có kênh bán hàng online nào sẽ là doanh nghiệp bị ảnh hưởng nhất hiện tại và trong tương lai. Ngược lại, những doanh nghiệp nào vốn dĩ dựa vào bán hàng offline thì càng có thêm động cơ để đẩy mạnh số hóa các hoạt động thương mại của mình.

Thanh toán không tiếp xúc

Đại dịch đã làm tăng vọt nhu cầu thanh toán không tiếp xúc, ngay cả với những người bảo thủ, ưa thích các hình thức thanh toán truyền thống trước yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn trong phòng chống dịch. Thực tế này dẫn đến khả năng lớn là sẽ ngày càng có nhiều người chuyển sang và trở nên quen dùng các công cụ thanh toán không tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Các doanh nghiệp cần phải nắm bắt sự thay đổi và xu hướng này để kịp thời chuẩn bị và thích nghi với nhu cầu này của đại bộ phận khách hàng.

Tăng nhu cầu tái đào tạo và nâng cấp kỹ năng lao động

Đại dịch đã làm gián đoạn, tác động nặng nề đến nhiều ngành nghề như hàng không, bán lẻ, khách sạn, y tế, giáo dục xây dựng và công nghệ. Doanh nghiệp trong các ngành này cần nhanh chóng thay đổi mô hình kinh doanh và do đó cần kỹ năng mới/nâng cao cho nhân viên. Hệ thống đào tạo và giáo dục (trong và ngoài doanh nghiệp) cần phải được cải tạo  mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu tái đào tạo và nâng cấp kỹ năng cho lực lượng lao động bị dôi dư. Việc sử dụng công nghệ lấy con người làm trung tâm trở nên quan trọng để đảm bảo sự giao tiếp và truyền tải kiến thức thông suốt có hiệu quả.

Nhu cầu bất động sản thương mại thay đổi

Với sự thay đổi về môi trường kinh doanh, thương mại điện tử và làm việc từ xa..., chi phí thuê văn phòng thương mại sẽ bị áp lực giảm khi nhu cầu suy giảm. Nhiều hình thức sử dụng văn phòng thương mại mới như chia sẻ nơi làm việc, không gian làm việc thuê chung... sẽ ngày càng trở nên thịnh hành hơn là việc thuê/mua các trụ sở/văn phòng làm việc phức hợp, tập trung, cố định. Với chi phí bất động sản dễ thở hơn, nhiều ngành nghề sẽ được tái sinh hoặc quy hoạch lại về mặt không gian phù hợp với sự biến đổi của môi trường xung quanh.

Những xu hướng và thay đổi nói trên đã có tác động rõ ràng đến các chuẩn mực xã hội và hành vi của các tổ chức và cá nhân người tiêu dùng ngay cả ở Việt Nam. Hiểu đúng và phản ứng với những xu hướng này sẽ là động lực quan trọng cho thành công của doanh nghiệp và cả nền kinh tế của chúng ta trong tương lai. Đặc biệt, những nhà lãnh đạo công nghệ và đổi mới, những người phụ trách marketing và bán hàng đang có một động lực hiếm có trước mặt mình mà có thể sử dụng để thực thi những giải pháp cần thiết để xây dựng một nền tảng vững mạnh hơn cho doanh nghiệp và nền kinh tế trong tương lai.

Friday 5 February 2021

Rất nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ: Không thể nói khơi khơi mà phải phân tích (Bài đăn trên TBKTSG, 5/2/2021, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/313436/rat-nhieu-doanh-nghiep-fdi-bao-lo-khong-the-noi-khoi-khoi-ma-phai-phan-tich.html

Nhiều năm qua, có một “nghịch lý” là nhiều doanh nghiệp FDI ở Việt Nam triền miên báo lỗ mặc dù không ngừng tăng vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh và doanh thu tăng qua các năm. Nghịch lý này thường được thể hiện qua tỷ lệ rất cao (thường trên 50%; cụ thể như năm 2019 là 55%) doanh nghiệp FDI báo lỗ, dù tổng doanh thu của số doanh nghiệp này vẫn tăng, theo báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI năm 2019 của Bộ Tài chính.

Ngoài ra, cũng trong báo cáo trên, Bộ Tài chính chỉ đích danh một số doanh nghiệp FDI lớn tuy có doanh thu tăng nhưng đóng góp cho ngân sách lại giảm đi, “chưa tương xứng với những ưu đãi (đất đai, thuế...) dành cho những doanh nghiệp lớn này”.

Những tin tức như vậy thường ngay lập tức làm nóng dư luận, dấy lên nghi ngờ rằng chuyện đóng góp cho ngân sách giảm và khai báo lỗ này là kết quả của hành vi chuyển giá gian lận để trốn thuế bởi các doanh nghiệp FDI khai lỗ. Song song đó sẽ là những kiến nghị của giới chuyên gia rằng Nhà nước cần tiến hành thanh tra, kiểm tra để phát hiện và xử phạt các hành vi chuyển giá bất hợp pháp, nếu có, trong số các doanh nghiệp FDI báo lỗ này.

Điều đáng nói là tuy nghi ngờ như vậy nhưng trên thực tế đã không có nhiều vụ việc chuyển giá gian lận được phát giác và kết luận qua công tác tranh tra, giám sát các doanh nghiệp FDI trong diện nghi ngờ của các cơ quan chức năng Việt Nam trong nhiều năm qua.

Một mặt, thực tế “đáng tiếc” này hoàn toàn không có nghĩa là có thể kết luận rằng không có nhiều doanh nghiệp FDI đã có các hành vi chuyển giá gian lận và trốn được thuế ở Việt Nam. Nhưng mặt khác, nó cũng cho thấy, thậm chí sẽ là phản tác dụng nếu cứ nói khơi khơi, mang tính quy kết như là bản chất, mà “không vạch mặt chỉ tên” được hàng loạt doanh nghiệp FDI đã trốn thuế nhờ chuyển giá gian lận để minh họa. Chí ít thì sự quy kết vô căn cứ này sẽ làm xói mòn lòng tin vào môi trường đầu tư ở Việt Nam, cũng như gia tăng sự bài trừ, chống đối của một bộ phận công luận vào dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam như đã và đang được chứng kiến.

Chỉ cần nêu một ví dụ là trong khi chỉ có một số ít các doanh nghiệp FDI bị kết luận là có hành vi gian lận chuyển giá thì có hàng trăm doanh nghiệp trong nước chỉ riêng ở Hà Nội đã bị kết luận như vậy (1) là đủ thấy rằng đang tồn tại một thành kiến lớn về doanh nghiệp FDI, đại loại như trốn thuế và gian lận chuyển giá là thuộc tính riêng và xu hướng của doanh nghiệp FDI.

Quay lại với báo cáo trên của Bộ Tài chính, để việc công bố những con số về doanh thu, lỗ lãi của doanh nghiệp FDI trở nên có ý nghĩa hơn, có lẽ Bộ Tài chính cần công bố song song, và/hoặc so sánh tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước. Nếu tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong nước nhỏ hơn nhiều và/hoặc có xu hướng giảm thì chuyện thua lỗ của doanh nghiệp FDI mới là điều đáng nói, và ngược lại.

Hơn nữa, việc Bộ Tài chính kết luận rằng đóng góp cho ngân sách của một số doanh nghiệp FDI lớn, cụ thể như Formosa Hà Tĩnh, “chưa tương xứng với những ưu đãi mà các doanh nghiệp này được hưởng” là chưa hoàn toàn thỏa đáng. Bởi, các doanh nghiệp này rất có thể sẽ lập luận rằng đóng góp của họ cho nền kinh tế Việt Nam không chỉ được nhìn qua con số nộp ngân sách mà còn dưới các hình thức khác như tạo công ăn việc làm cho người địa phương, tạo ra các liên kết với và đem đến doanh thu cho các doanh nghiệp nội địa...

Thực tế là ngay trong báo cáo thẩm định và phê duyệt đầu tư của các cơ quan chức năng bao giờ cũng đề cập đến các hiệu quả tích cực này của doanh nghiệp FDI, mà không hiếm khi họ dùng chính những hiệu quả này để vận động chấp thuận dự án trước sự phản đối của dư luận vì những lo ngại như ô nhiễm môi trường. Nên nếu giờ mà nói rằng các doanh nghiệp lớn này không đóng góp tương xứng với những gì họ được ưu đãi thì cũng có nghĩa là đã thừa nhận sai lầm khi ủng hộ và phê duyệt dự án đầu tư của các doanh nghiệp này.

Những con số mang tính tiêu cực về doanh nghiệp FDI nêu trên còn đặt ra câu hỏi về năng lực của các cơ quan hữu quan. Cần lưu ý rằng tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ trong nhiều năm qua vẫn đứng ở mức lớn, thậm chí tăng lên. Ví dụ, năm 2017 tỷ lệ này là 52%, cao nhất trong giai đoạn 2012-2017 với tỷ lệ tương ứng từ 44% đến 52% (2). Nếu hiện tượng doanh nghiệp FDI thua lỗ được gắn với hành vi trốn thuế, gian lận chuyển giá thì sự tăng lên của tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cho thấy các nỗ lực xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật trong suốt hơn thập kỷ qua không có hiệu quả và tác dụng, đồng thời cho thấy sự yếu kém trong thực thi các biện pháp phòng chống gian lận chuyển giá của các cơ quan chức năng.

Hiển nhiên rằng sự suy diễn này là không thỏa đáng vì rõ ràng là hệ thống pháp luật liên quan đã chặt chẽ, đầy đủ hơn, và năng lực thanh tra cũng như sự phối hợp quốc tế trong lĩnh vực phòng chống gian lận chuyển giá đã được cải thiện liên tục trong những năm qua. Thế nên, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ cao (và tăng lên) càng cần phải được phân tích một cách thỏa đáng, khoa học và có căn cứ hơn để tìm ra nguyên nhân đích thực, từ đó đề ra những giải pháp xử lý xác đáng và hữu hiệu, cũng như cách đang làm với khu vực doanh nghiệp nhà nước.

Nói cách khác, nếu muốn thực hiện thì Bộ Tài chính cần tổng kết tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp FDI đặt trong bối cảnh chung của toàn bộ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tránh gửi đi một thông điệp sai lầm mang tính phân biệt, thành kiến.

(1)    http://thanglong.chinhphu.vn/thanh-tra-chong-chuyen-gia-giai-phap-ngan-chan-tron-thue

(2)    https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/mtttc/r/m/ptitutsuk/phodonttsk_chitiet?dDocName=MOFUCM147859&dID=154127&_afrLoop=3192203822257981#%40%3F_afrLoop%3D3192203822257981%26dDocName%3DMOFUCM147859%26dID%3D154127%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dgxnrxzkpm_46


Wednesday 3 February 2021

Giờ thì Tết chỉ mong hai chữ 'bình an'! (Bài đăng trên TBKTSG, 4/2/2021)

 https://www.thesaigontimes.vn/313472/gio-thi-tet-chi-mong-hai-chu-binh-an.html

Đúng một năm nay đã không thể trở về, có mặt ở Việt Nam. Con virus SARS-CoV-2 bé đến gần như vô hình đã làm đảo lộn và ảnh hưởng đến tất cả trong suốt một năm qua, không chừa một ai...

Tết Tân Sửu chỉ còn mấy ngày nữa sẽ đến để tống tiễn năm cũ Canh Tý ốm o vì dịch Covid-19. Lại nhớ trước Tết Canh Tý, như một thói quen mới hình thành mấy năm nay, lò mò tra cứu tử vi trên mạng để xem ông trời có mỉm cười hay lại nhăn với mình trong năm mới. Nhìn chung là một năm xấu đang đến, nhưng sợ nhất là mấy dòng nói về sao xấu gây chuyện khóc than.

Khi tin tức về dịch Covid-19 bắt đầu dồn dập và trầm trọng về cấp độ, chợt liên hệ với những dòng tử vi nói về sự khóc than này mà rùng mình. Suốt cả năm qua, tâm trí bất an hướng về Việt Nam, nơi có bố mẹ già và thân quyến. Cứ mỗi đợt bùng phát dịch, mỗi đợt phong tỏa mới, nhất là ở Hà Nội, là lòng dạ lại bồn chồn.

Lần hồi rồi thì năm con chuột cũng sắp đi qua. Đếm ngược từng ngày để mong nó bỏ đi, để tai qua, nạn sẽ không đến, và nước mắt không phải rơi. Năm con trâu sắp tới cũng không phải là tốt nhưng dường như ông trời đã thương hơn nên đã gạch đi mấy chữ kinh sợ kia trong lá số cho năm mới.

Rồi đột ngột lại có đợt bùng phát dịch mới ở mấy tỉnh của Việt Nam với số ca nhiễm mới phát hiện đã đến cả hàng trăm người trong những ngày giáp Tết này. Lòng lại nhói lên buồn lo. Những lúc như thế này mới thấy công danh, sự nghiệp, tiền tài... chẳng còn mấy ý nghĩa nếu đặt bên sự sống và sức khỏe. Nếu bị cấm tham lam, chỉ được chọn lựa một lời cầu ước duy nhất thì đó hẳn là hai chữ “bình an” cho bản thân và mọi người dịp năm hết Tết đến.

Nhớ hồi đầu dịch, bắt đầu phong tỏa, đã từng viết cho một bạn trong ban phụ trách của báo rằng cảm thấy ghen tỵ với người ở Việt Nam vì vẫn được đi lại tự do, kể cả ra nước ngoài, do đã kiểm soát dịch tốt mà không “sơ sểnh” như ở Singapore.

Trong khi đó, với một cơ sở hạ tầng y tế yếu kém không thể đủ sức đương đầu với sự bùng phát dịch cùng lúc trên nhiều địa phương, phòng dịch mới là giải pháp hiệu quả, rẻ tiền và tổn thất sinh mạng ít nhất trong cuộc chiến với dịch Covid-19. Nhưng sau khi quan sát cách làm và thực tế ở hai nước, lại thấy lo vì sự chủ quan, vô tư của nhiều người ở Việt Nam. Những gì đã qua cho thấy nỗ lực phòng chống dịch ở Việt Nam mới chỉ tập trung hầu như ở vế thứ hai - chống dịch, được tóm tắt khá đúng trong câu ví von “chống dịch như chống giặc”, chứ không phải vế đầu - phòng dịch.

Bệnh tật nào rồi cũng sẽ có thuốc chữa, virus nào rồi cũng sẽ có vaccin. Nhưng cho đến lúc có vaccin ngừa Covid-19 và đã được tiêm chủng cho khắp gần hết dân số thì còn phải cần ít nhất nhiều tháng nữa. Trước và trong thời gian đó, virus SARS-CoV-2 không chờ đợi mà sẽ rình quay trở lại hoành hành bất cứ lúc nào có sự lơi lỏng, chủ quan của con người. Sự bình an trong buổi giao thời và năm mới sẽ tiếp tục bị thử thách nếu con người không thật sự nghiêm túc với con virus này. 

Người Singapore sau một giai đoạn ngắn tưởng như bị mất kiểm soát trước sự lây lan của dịch Covid-19 đã nhanh chóng, nghiêm khắc và nhất quán thực thi chính sách phòng, chống dịch của mình theo từng giai đoạn. Dù đã khá lâu cho đến thời điểm này gần như không còn các ca lây nhiễm trong cộng đồng nhưng Chính phủ Singapore vẫn chỉ cho phép tối đa tám người (tăng lên từ năm người hồi tháng 12 năm trước) được tụ họp (mà vẫn phải đeo khẩu trang, trừ khi ăn uống...) trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Các địa điểm ăn uống thì vẫn phải triệt để thực thi giãn cách xã hội như để trống bàn ghế gần nhau nếu không muốn bị phạt nặng... Các cuộc hội họp, tụ tập đông người vì thế đã trở thành chuyện của quá khứ một năm trước, không có ngoại lệ, bất kể đó là gì, kể cả của Chính phủ.

Dịp Tết Nguyên đán sắp tới, rút kinh nghiệm từ các vụ lây nhiễm năm trước, Singapore còn thắt chặt giới hạn người tụ tập hơn nữa để phòng tránh lây lan dịch Covid-19. Kể từ 26-1, hàng ngàn nhân viên chính phủ và tình nguyện viên được cử đi khắp nơi giám sát sự tuân thủ hạn chế số người tụ tập. Ở cấp độ hộ gia đình, nếu nhà nào bị phát hiện có tổng cộng quá tám người khách đến nhà trong một ngày, và mỗi cá nhân nếu đến thăm quá hai nhà khác trong một ngày kể từ ngày 26-1 thì cả chủ nhà và khách sẽ bị phạt nặng. 

Nhờ sự nhất quán, nghiêm khắc, không buông lơi phòng chống dịch như vậy, Singapore đã vững vàng bước vào giai đoạn bắt đầu triển khai tiêm phòng Covid-19 toàn dân mà không còn các đợt bùng phát dịch mới.

Nhìn về Việt Nam, nỗi lo đã phần nào thành sự thật khi đợt bùng phát mới ở quy mô lớn hơn, rộng hơn. Như những lần trước, việc chống dịch Covid-19 đã thành ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của chính quyền nhiều địa phương. Nhưng, cũng như báo chí đã đưa tin, ở những địa phương và khu vực không bị phong tỏa, mọi thứ xem ra vẫn rất... bình an, vẫn hội họp, tụ tập đông người, vẫn nhiều người không đeo khẩu trang... Chắc rồi ngay cả những ngày Tết sắp tới thì sự tụ họp đông người cũng sẽ không bị quản chế, giới hạn, ngoài những vùng, khu vực bị phong tỏa từ đợt bùng phát dịch mới này.

Vì thế, hai chữ bình an thực sự cho mọi người có thể sẽ vẫn chỉ là lời ước. Nên, thay vào đó, mong mọi người dân và Chính phủ hãy làm tốt việc phòng dịch, cùng thực hành tốt hai chữ “tiết chế”, hạn chế tiếp xúc, đi lại, tụ họp đông người, để tự giữ mạng sống, sức khỏe của mình và người thân.

Trước mắt, cho dù có thể nhiều địa phương chưa xuất hiện ca nhiễm cộng đồng nào trong dịp Tết Nguyên đán này thì một trong những điều cần và có thể làm ngay là hủy bỏ, hạn chế, thu nhỏ quy mô, tổ chức nghiêm ngặt các biện pháp giãn cách xã hội trong các lễ, hội, cũng như không tổ chức bắn pháo hoa. 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).