Wednesday 27 November 2013

Tái cơ cấu kinh tế, hãy đợi đấy!

Đọc bài này và những bài tương tự thời gian gần đây về tái cơ cấu kinh tế với kinh tiếc, tớ lại ngậm ngùi cho số phận của con dân Việt, đồng thời phải thốt lên lần thứ n rằng tớ phục tớ quá vì cách đây đúng 2 năm tớ đã viết bài này trên VEF, dự cảm xấu về triển vọng tái cấu trúc với lại tái cơ cấu, câu cửa miệng một thời của người người, nhà nhà.

Tiếc là VEF đăng lên đâu như được 1 ngày thì tự diễn biến, thấy sợ sao đó bèn biên tập lại bài đã bị biên tập (mặc dù trong bài đã bị biên tập, giọng điệu và nội dung đã biến thái đi rất nhiều so với bài gốc mà tớ post ở đây, làm tớ không thể nhận ra bài của mình nữa. Phải nói thêm rằng vì viết cho báo nên trong bài gốc tớ cũng đã phải uốn lưỡi rất nhiều sao cho dễ được đăng, thế mà vẫn không xong).

Khi tớ phản ứng mạnh vì biên tập mà không hỏi ý kiến tớ, VEF có phân trần, đại loại, rằng viết thế thì ngang với nói rằng tình hình nước đến cổ mới nhảy, đã quá muộn để cải cách với tái cơ cấu, thế thì tiêu cực quá, cần phải viết lại cho tích cực hơn.

Tớ điên quá bèn bắt phải gỡ bài đầu Ngô mình Sở này xuống và chấm dứt luôn chuyện bài vở với VEF. Mới thế mà đã 2 năm trôi qua rồi, nhanh thật, và cũng nhanh như thế cho ngày xuống lỗ của nền kinh tế VN.

Tuesday 26 November 2013

Bình ổn vàng tổn thất ra sao?


Theo báo cáo “Xu hướng Nhu cầu Vàng của Hội đồng Vàng Thế giới, tổng nhu cầu tiêu thụ vàng của Việt Nam tiếp tục tăng trong quý 2 và quý 3 năm nay, đưa tổng lượng vàng tiêu thụ trong 2 quý này  lên 46,1 tấn, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2012 (xem bảng dưới).

Nhu cầu vàng tiêu dùng của Việt Nam
 Quý 2+3/2012Quý 2+3/2013% tăng
Tổng khối lượng (tấn)36,146,128%
Vàng trang sức4,45,320%
Vàng miếng, thỏi31,740,829%
Tổng giá trị (triệu USD)1.8912.0317%
Vàng trang sức2302342%
Vàng miếng, thỏi1.6611.7978%

Nếu tính theo giá trị, Việt Nam đã tiêu thụ một số lượng vàng có giá trị trên 2 tỷ USD trong 2 quý qua. Mức tăng so cùng kỳ năm ngoái chỉ là 7% vì giá vàng đã liên tục giảm trong các quý vừa qua, xuống còn 1,326 USD/oz trung bình trong quý 3 này.
Đáng chú ý là lượng tiêu thụ vàng miếng và thỏi đã tăng mạnh trong quý 2 và 3 năm nay so với cùng kỳ năm trước (tăng 9,1 tấn). Cũng cần lưu ý là thời kỳ này cũng là thời kỳ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức đấu thầu vàng cấp tập với khối lượng lớn.

Vì Việt Nam là nước nhập khẩu hầu như toàn bộ lượng vàng tiêu thụ, và vì không thể coi con số nhu cầu 46,1 tấn nói trên là tổng lượng vàng có (sẵn) trong nền kinh tế, nên có thể coi nhu cầu tiêu thụ vàng do Hội đồng Vàng Thế giới cung cấp nói trên chính là nhu cầu nhập khẩu vàng thêm vào nền kinh tế trong 2 quý qua. Và vì thời gian này cũng là thời gian diến ra đấu thầu vàng của NHNN – nguồn cung độc quyền vàng miếng và thỏi ở Việt Nam – nên có thể nói rằng phần lớn khối lượng vàng miếng và thỏi tăng thêm vào nền kinh tế trong thời gian qua gắn liền với (và là kết quả của) hành động đấu thầu vàng của NHNN.
Đương nhiên, để nhập khẩu vàng miếng và thỏi phục vụ cho đấu thầu vàng trong nước thì NHNN phải dùng ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối. Theo số liệu trong bảng trên thì Việt Nam đã phải bỏ ra gần 1,8 tỷ USD để nhập khẩu vàng miếng và thỏi trong 2 quý qua. Như thế, số ngoại tệ mà NHNN đã phải bỏ ra chắc cũng không xa con số này lắm.

Và mới đây, NHNN lại có chủ trương mua vào vàng miếng với dự đoán xu hướng giá vàng sẽ giảm trong 6 tháng hoặc 1 năm tới, được cho là có mục đích để bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam (mua rẻ và hy vọng vàng lên giá để tăng giá trị quỹ dự trữ ngoại hối).
Giả sử NHNN đã dự đoán đúng xu hướng giảm giá vàng này, và NHNN giá vàng trong 6 tháng tới sẽ giảm đi so với mức giá hiện tại như kỳ vọng của NHNN. Lúc đó, NHNN có 3 lựa chọn mua vào vàng miếng: mua vàng từ thế giới; mua vàng từ trong nước; và mua từ cả 2 nguồn này.

Đối với lựa chọn mua vàng từ thế giới, NHNN tiếp tục phải bỏ ra một lượng ngoại tệ  trong quỹ dự trữ ngoại hối để nhập khẩu vàng. Tuy giá vàng có thể đúng như dự đoán là sẽ rẻ hơn thời điểm này, và do đó lượng ngoại tệ bỏ ra cho cùng một số lượng vàng nhập khẩu sẽ ít đi, nhưng đồng thời với việc mua vàng về thì quỹ dự trữ ngoại hối lại mất đi một lượng USD tương ứng về giá trị. Như thế có nghĩa là tổng giá trị quỹ dự trữ ngoại hối không thay đổi về giá trị (quy đổi theo USD), mà chỉ có sự hoán đổi cấu thành của quỹ, chứ không có tác dụng “bổ sung” vào (làm tăng giá trị của) quỹ dự trữ ngoại hối như NHNN có thể đã dự tính. Và sẽ càng là vấn đề khi giá vàng lại tiếp tục giảm sau khi NHNN mua vào, vì lúc đó quỹ dự trữ ngoại hối càng tổn thất thêm nữa về giá trị.
Đối với lựa chọn mua vàng miếng từ thị trường trong nước, NHNN có thể in/xuất tiền đồng ra để mua vàng mà không cần phải dùng đến ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, do nguồn cung vàng trong nước là rất có hạn (chủ yếu là lượng vàng do dân nắm giữ trước đây, đặc biệt kể từ khi NHNN tổ chức đấu thầu), nên hành động này của NHNN nhanh chóng đẩy giá vàng trong nước lên cao. Kết cục là NHNN hoặc phải rút thanh khoản từ hệ thống ngân hàng hoặc phải in tiền thêm để mua đủ số lượng vàng cần thiết. Như vậy, hành động mua vàng trong nước để bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN sẽ gây ra hoặc là tăng lãi suất do thanh khoản tiền đồng khan hiếm, hoặc gây ra áp lực lạm phát do in tiền. Cả 2 hậu quả này đều là điều NHNN muốn tránh, nhất là trong thời điểm hiện tại.

Đối với lựa chọn thứ 3, tức kết hợp cả 2 lựa chọn trên, tuy hậu quả có vẻ như được san sẻ giữa 2 lựa chọn ban đầu, nhưng nói ngắn gọn thì hậu quả vẫn là hậu quả (ví dụ, quỹ dự trữ ngoại hối có thể ít hao tổn hơn nhưng nền kinh tế sẽ bị thiệt hại nhiều hơn do lãi suất hoặc lạm phát tăng cao).
Tóm lại, cái giá của bình ổn vàng là sự hao hụt khá lớn trong quỹ dự trữ ngoại hối trong suốt thời gian qua, chưa kể những rủi ro đi kèm với việc NHNN có thể mua vàng vào trong thời gian tới (tùy theo lựa chọn mua vào của NHNN mà rủi ro sẽ là khác nhau).

Wednesday 20 November 2013

NH Nhà nước đã thực sự thành NH Trung ương? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2013/11/1078110/nh-nha-nuoc-da-thuc-su-thanh-nh-trung-uong/

Hôm trước đồng chí Nguyễn Quốc Dân làm tớ mừng hụt vì tưởng Chính phủ sợ tớ mà vội vàng ban hành quyết định về thành lập NHTW. Tớ cũng quáng gà, vào đọc mấy lời bình luận của tờ báo mà tin sái cổ. Chỉ thấy lạ là một chuyện tầy đình thế mà sao lại được tiến hành im im, không hề được đề cập đến trên báo cho đến ngày được ký.

-----------------------------------------------------------------------------
Ở nhiều nước, Ngân hàng Trung ương (NHTW) độc lập với Chính phủ nói riêng và giới chính trị nói chung. Sự độc lập này là điều cần thiết để NHTW có thể theo đuổi chính sách có tác động tích cực lên tăng trưởng và ổn định kinh tế trong dài hạn. Nếu không được độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung thì NHTW dễ tạo ra những cơn trồi sụt của nền kinh tế trong ngắn hạn bắt đầu bằng chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức thông qua áp lực của giới chính trị đặc biệt trước thời điểm bầu cử nhằm “ghi điểm” với cử tri.

Ở Việt Nam, ngày 11/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương của Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của NHTW về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của NHNN.

Với sự ra đời của Nghị định 156, nhiều ý kiến bình luận rằng từ 26/12 tới (là ngày Nghị định 156 có hiệu lực), Việt Nam sẽ chính thức có một NHTW hoạt động độc lập, tự chủ giống như các nước trên thế giới, với nhiệm vụ quan trọng nhất là ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh trong khuôn khổ luật pháp.
Tuy nhiên, xem xét kỹ một chút thì có thể thấy NHNN vẫn chưa thể là một NHTW độc lập như ở nhiều nước trên thế giới. Để được gọi là độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung, một NHTW phải thỏa mãn (ít nhất) một trong những điều kiện sau: độc lập về mặt pháp lý; độc lập về mục tiêu; độc lập về hoạt động; và độc lập về quản lý.

Về độc lập pháp lý, lưu ý rằng Nghị định 156 là một văn bản luật do Chính phủ ban hành, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam. Như thế, cho dù có thể NHNN đã được trao thêm nhiệm vụ và quyền hạn mới, về bản chất nó vẫn là một cơ quan trực thuộc của Chính phủ, do Chính phủ lập ra và bị chi phối hầu như trên mọi mặt.
Đối với việc độc lập về mục tiêu, Nghị định 156 không đề cập đến việc NHNN được quyền độc lập quyết định mục tiêu chính sách của mình (ví dụ, có thể là mục tiêu về lạm phát, cung tiền, và tỷ giá). Điều này có thể được minh họa rõ nét hơn ở nhiệm vụ “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ” mà Nghị định 156 quy định cho NHNN. Nếu chỉ dừng lại ở quyền hạn “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ”, rõ ràng NHNN vẫn chưa thể coi là đã có sự độc lập với Chính phủ nói riêng và giới chính trị nói chung. Việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm đương nhiên là việc của NHNN, với tư cách là một bộ chủ quản ngành, chứ không thể giao cho một cơ quan bộ nào khác. Bởi vậy, bản thân việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát không phải là một điều mới mẻ, cho thấy một sự chuyển biến căn bản gì ở đây cả.

Thêm nữa, giả thiết rằng chỉ tiêu lạm phát của NHNN, tuy theo tính toán của NHNN là cần thiết để đảm bảo lạm phát thấp, lại bị Chính phủ coi là “không phù hợp” (với ai, vì cái gì đó). Lúc đó, Chính phủ hoàn toàn có thể phủ quyết chỉ tiêu lạm phát này, buộc NHNN phải trình ra một chỉ tiêu nào đó theo ý đồ của Chính phủ thì mới được chấp nhận. Nói cách khác, việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát và việc chỉ tiêu đó được phê duyệt bởi Chính phủ là 2 chuyện có thể hoàn toàn khác nhau, và rốt cuộc, để “xuôi chèo mát mái” thì rất có thể NHNN phải nhượng bộ hoàn toàn trước yêu cầu của Chính phủ trong việc kiểm soát lạm phát.
Về độc lập trong hoạt động, thông thường NHTW có sự độc lập trong việc quyết định cách thức nào là tối ưu để đạt được các mục tiêu chính sách của mình, bao gồm loại hình công cụ chính sách và thời điểm sử dụng chúng. Về điểm này, Nghị định 156 cũng trao NHNN quyền sử dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm: Tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng điều này tự thân không cho biết rằng NHNN từ nay sẽ có quyền độc lập trong việc hoạch định mục tiêu (của chính sách tiền tệ quốc gia), khi, ví dụ, mục tiêu lạm phát bị Chính phủ thay đổi và buộc NHNN phải có hành động chính sách tương ứng để đạt được mục tiêu lạm phát mới.

Và cuối cùng là độc lập về quản lý, theo đó NHTW có sự độc lập trong điều hành hoạt động của mình, bao gồm bổ nhiệm nhân sự, lập ngân sách hoạt động v.v... mà không có sự can thiệp mạnh mẽ của Chính phủ. Nhưng trong trường hợp của NHNN, Nghị định 156 lại có những quy định rất rõ ràng liên quan đến công tác điều hành hoạt động của NHNN, ví dụ, bộ máy và nhân sự của NHNN.
Tóm lại, điểm qua những loại hình độc lập của NHTW thì có thể kết luận NHNN theo Nghị định 156 vẫn chỉ là một cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ và không có sự độc lập như của nhiều NHTW trên thế giới về bản chất như dư luận nhìn nhận. Sự mới mẻ có chăng là sự gia tăng thêm một số nhiệm vụ và quyền hạn cho NHNN.

Thursday 14 November 2013

Quản lý giá: Không phải cứ muốn “bình” là “ổn” (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 14/11/2013, bản gốc)

Thị trường đã nhiều phen chứng kiến một số mặt hàng nào đó lên cơn sốt giá. Những mặt hàng này bao gồm đủ loại, từ những thứ thiết yếu như mớ rau, cân thịt lợn, hộp sữa cái đinh, lá tôn lợp đến những thứ cao cấp và giá trị hơn nhiều như vàng, ngoại tệ.

Một trong những phản ứng chính sách thường thấy là cơ quan chủ quả (thuộc Bộ Tài chính, và/hoặc các bộ quản lý ngành chức năng), nói một cách nôm na, dùng mệnh lệnh hành chính cấm người cung những mặt hàng này trên thị trường tăng giá, tại thời điểm hiện tại. Những biện pháp quản lý giá cụ thể trong những trường hợp này là buộc người bán theo giá niêm yết, giá quy định; đưa (một số) những mặt hàng này vào diện hàng hóa được bình ổn về giá; thanh tra, điều tra, phát hiện và xử phạt những ai vi phạm các quy định về giá cả đã đăng ký và/hoặc trong diện được bình ổn; khi muốn tăng giá phải giải trình với cơ quan chủ quản và không được tăng liên tục trong vòng một thời gian nào đó v.v...

Vụ việc lùm xùm mới đây nhất là chuyện giá sữa trẻ em dưới 6 tuổi liên tục tăng trong thời gian ngắn (mà không vì lý do gì!?). Nguyên nhân cuối cùng được cho té ra là do các mặt hàng sữa trước đây đã bị thay tên đổi họ thành sản phẩm dinh dưỡng theo quy định của Bộ Y tế, và, do đó, “thoát” bị nằm trong danh mục hàng hóa phải bình ổn giá do Bộ Tài chính quản lý.

Và như một giải pháp xử lý để giá sữa trẻ em không tăng nữa, người ta đã nhanh chóng đưa sữa trẻ em vào lại danh mục hàng hóa phải bình ổn giá của Bộ Tài chính. Và rồi dư luận thở phào một cái, với những tờ báo giật tít lớn đại loại giá sữa từ này hết “cửa” tăng với hành động chính sách này! Tìm ra nguyên nhân và xử lý vấn đề xem ra thật rõ ràng và đơn giản.

Thế nhưng, có thể nhìn thấy trước tương lai tiếp tục bất ổn của những mặt hàng thuộc diện bình ổn giá nói chung và của sữa nói riêng. Có không ít những mặt hàng thuộc diện bình ổn mà giá của chúng nhiều khi và ở nhiều nơi còn cao hơn cả ngoài thị trường. Có nhiều mặt hàng bình ổn mà lượng cung như muối bỏ bể và tiểu thương đổ xô đến để mua rồi bán lại với giá cao hơn, để rồi rốt cuộc giá tăng vẫn cứ tăng. Có nhiều mặt hàng mà giá niêm yết một đằng, bán một nẻo mà người mua vẫn cứ phải lẳng lặng chấp nhận và móc túi trả tiền vì nhiều chiêu lách luật của người bán mà nếu có phát hiện thì cơ quan chủ quản chẳng thể làm gì, và người mua thấy chỗ nào cũng vậy v.v... Trong khi đó, có nhiều mặt hàng mà để giá của chúng được bình ổn, hàng loạt ưu đãi tài chính phải được đưa ra để rồi phí tổn liên quan đến bình ổn trở nên phi lý và tạo động cơ cho những hành động trục lợi của những doanh nghiệp tham gia bình ổn.

Mấu chốt của vấn đề, rất tiếc, lại rất đơn giản. Do cung và cầu chênh lệch nhau, chính xác hơn, cung nhỏ hơn cầu. Để khắc phục quy luật cơ bản này của thị trường, người ta phải tăng cung và/hoặc giảm cầu, và/hoặc bù giá. Tăng cung có thể bằng cách tăng sản xuất trong nước, tăng/nới lỏng điều kiện nhập khẩu. Giảm cầu có thể bằng cách “bóp mồm bóp miệng”, hoặc tìm loại hàng hóa thay thế được. Bù giá là lấy ngân sách nhà nước ra để bù vào phần chênh lệch giữa giá do thị trường quyết định và mức giá mà nhà nước thấy có thể chấp nhận được, làm cho tất cả nhu cầu hiện tại vẫn được thỏa mãn. Cứ dựa vào những yếu tố này sẽ thấy có nhiều vấn đề liên quan đến giá đã bị bỏ qua ở Việt Nam.

Cụ thể với mặt hàng sữa, việc tăng cung xem ra không phải là vấn đề khi, theo một số báo cáo, có tới hơn 200 nhà nhập khẩu sữa vào Việt Nam, chưa kể nguồn cung từ “hàng xách tay”. Sản xuất trong nước dường như không bị chịu một cơn sốc nào, vẫn không ngừng tiếp tục tăng trưởng, khó mà tạo thành cơn sốt giá đột ngột. Nhưng có điều, vẫn chưa thấy có phân tích nào, kể cả từ cơ quan chức năng, chỉ ra rằng chi phí và giá nhập khẩu sữa, và nguyên vật liệu vào Việt Nam để sản xuất sữa, có tăng lên không. Thay vào đó, một ví dụ cụ thể, cái mà người ta vẫn hay viện dẫn ra là một cái bảng giá sữa nhập khẩu vào Việt Nam của nhiều hãng sữa chỉ bằng một phần của giá bán hiện tại trong nước, để rồi kết luận rằng giá sữa tăng lên ở Việt Nam là vô lý. Nhưng phân tích theo kiểu này là vô nghĩa vì người ta không chỉ ra rằng giá nhập khẩu đó đã có thay đổi hay không so với trước khi các hãng sữa tăng giá. Nếu quả thật đã có sự thay đổi (tăng lên) thì đương nhiên giá sữa trong nước cũng phải thay đổi (tăng lên), bất chấp chênh lệch giá trong nước và giá nhập khẩu là bao lần. (Chuyện chênh lệch này lại thuộc một chủ đề khác).

Về phía cầu, cũng có một vài yếu tố bị bỏ qua. Chẳng hạn, người ta không chịu xem xét xem trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch về lượng và cơ cấu của cầu về sữa làm thay đổi giá sữa hay không. Từ ngoài nhìn vào, có thể chỉ ra ngay một yếu tố có thể đã có ảnh hưởng đến cầu về sữa ở Việt Nam. Đó là việc mua vét sữa của dân Trung Quốc xảy ra trên phạm vi toàn cầu, từ Âu sang Mỹ xuống Úc và New Zealand rồi lên Á do người dân Trung Quốc lo ngại với chất lượng sữa sản xuất trong nước họ. Với nhu cầu mua vét khổng lồ này, việc tăng giá sữa trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam, nếu có, là điều không khó hiểu và bất ngờ. Ngược lại, việc Trung Quốc vơ vét sữa “ngoại” thế này đương nhiên cũng đẩy giá sữa và nguyên liệu sữa nhập khẩu lên, làm giá sữa sản xuất ở Việt Nam cũng phải tăng lên (xét về phía cung).

Về việc bù giá. Một khi cung cầu đã có biến động theo hướng bất cân đối như vậy thì giá sẽ chịu áp lực tăng lên. Để mọi người tiêu dùng vẫn tiếp cận được mức giá không đổi thì nhà nước phải bù giá. Nhưng ở Việt Nam hình như cho đến nay vẫn chưa nghe thấy chuyện ngân sách đã bỏ ra từng này đồng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu sữa hoặc nhập khẩu nguyên liệu sữa để sản xuất sữa với giá bán rẻ hơn so với không có hỗ trợ. Và cũng chưa nghe thấy chuyện nhà nước trợ cấp mỗi hộp sữa cụ thể là từng này đồng để người mua chỉ phải bỏ ra một số tiền không đổi so với trước cho cùng một hộp sữa. Chuyện thiếu vắng sự hỗ trợ và bù giá thế này xem ra vẫn tiếp tục trong thời gian tới. Ở đây ta chưa nói đến quy mô hỗ trợ cần thiết để đảm bảo mọi nhu cầu được thỏa mãn tại mức giá hiện tại (không tăng) và những tổn hại to lớn đi kèm với việc hỗ trợ, mà vì thế mà nhiều nước đang có trợ giá cho mặt hàng nào đó (xăng dầu, lương thực, thực phẩm v.v...) đã và đang phải cân nhắc thu hẹp hoặc xóa bỏ tài trợ do ngân sách của họ không thể kham nổi.

Tóm lại, việc quản lý giá hàng hóa nói chung và giá sữa nói riêng đang có nhiều bất ổn, từ chuyện phân tích và tìm ra nguyên nhân, cách tư duy và biện pháp xử lý, công cụ xử lý, năng lực và nguồn lực xử lý, và kể cả việc giám sát công tác xử lý. Bởi vậy, có thể thấy trước (và thực tế cũng cho thấy vậy) rằng giá cả các mặt hàng được bình ổn sẽ tiếp tục bất ổn và/hoặc đi kèm với những tổn thất lớn cho ngân sách.


Thursday 7 November 2013

Khi chính sách tiền tệ gánh chính sách tài khóa (Bài trên TBKTSG, số ngày 7/11/2013, bản gốc)

Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) vốn là 2 chính sách kinh tế vĩ mô độc lập và được chịu trách nhiệm bởi 2 cơ quan chủ quản khác biệt, Ngân hàng Trung ương (NHTW) và Bộ Tài chính.

Về chức năng, NHTW thông qua CSTT để điều chỉnh cung tiền để đạt được một mức lãi suất phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế và ổn định. Trong số những mục tiêu theo đuổi chính thống thường có mục tiêu ổn định giá cả và thất nghiệp thấp. Còn CSTK là việc Chính phủ sử dụng tiền thu về ngân sách (trong đó có thuế) để chi tiêu và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế. 2 công cụ chính của CSTK là thay đổi mức độ và cấu thành của thuế và chi tiêu của Chính phủ vào các ngành và lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Sự độc lập của NHTW với Bộ Tài chính nói riêng và rộng hơn là với Chính phủ và cả giới chính trị nói chung là điều cần thiết để NHTW có thể theo đuổi chính sách có tác động tích cực lên tăng trưởng và ổn định kinh tế trong dài hạn. Nếu không được độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung thì NHTW dễ tạo ra những cơn trồi sụt của nền kinh tế trong ngắn hạn bắt đầu bằng CSTT nới lỏng quá mức thông qua áp lực của giới chính trị đặc biệt trước thời điểm bầu cử nhằm “ghi điểm” với cử tri.

Điều đáng nói ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước ( NHNN)  không có tư cách độc lập với Chính phủ. CSTT vì thế cũng bị sự chi phối các định hướng điều hành chung của Chính phủ. Bởi vậy, ở Việt Nam, CSTT nhiều lúc đã phải đảm đương cả vai trò của CSTK mỗi khi Chính phủ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách lớn mà “không tiện” giải trình để xin Quốc hội cho nới lỏng trần thâm hụt, như đang chứng kiến hiện nay. Có điều, vì NHNN không phải giải trình và xin phép Quốc hội trong việc nới lỏng cung tiền ở từng thời điểm để tạo ra nguồn tiền tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ nên việc CSTT phải gánh vác vai trò của CSTK thường không bị chú ý, không được biết đến và tác động tiêu cực của nó lên nền kinh tế cũng vì thế mà thường được bỏ qua, lãng quên. Sự lỏng lẻo và dễ dãi trong việc “thò tay” vào túi NHNN để lấy tiền, ngược lại, càng như một động lực khuyến khích Chính phủ lạm dụng NHNN như một bầu sữa ngân sách không bao giờ cạn để bổ khuyết cho sự bất cập về kỷ luật tài chính của mình, đặc biệt khi bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước có nhiều điểm không thuận.
Có thể liệt kê ra đây một số ví dụ về việc CSTT phải gánh vác vai trò của CSTK , hay đúng hơn là NHNN phải thay Bộ Tài chính tài trợ cho các khoản chi tiêu mà lẽ ra phải lấy từ ngân khố quốc gia để chi trả. Đó là, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, hàng loạt các hỗ trợ cho 5 lĩnh vực ưu tiên lẽ ra của chính sách tài khóa thì lại qua ngân hàng, dùng tiền của ngân hàng trung ương; tạm ứng cho ngân sách như để giải phóng mặt bằng quốc lộ 1, hay tạm ứng ngân sách đối ứng giải ngân vốn ODA, 30.000 tỷ đồng hỗ trợ vay mua nhà, rồi xử lý nợ xấu qua VAMC cũng có thể tới 100.000 tỷ đồng, hay một vài lĩnh vực khác “không thể nói ra”… đều qua Ngân hàng Nhà nước.

Riêng xử lý nợ xấu qua VAMC mà ông Nghĩa đề cập, không rõ chuyện “xử lý” này là như thế nào, nhưng nếu chi có tới 100 nghìn tỷ đồng thì có lẽ ông Nghĩa chưa tính đủ, vì lượng nợ xấu của Việt Nam hiện lên tới mấy lần con số này. Trong bối cảnh ngân sách đang thâm hụt mạnh, vượt trần cho phép, đương nhiên ngân sách chẳng thể gánh vác được khối nợ xấu lớn như vậy. Mà cho dù thâm hụt ngân sách có được phép tăng lên và Chính phủ có được phép phát hành thêm trái phiếu để tài trợ cho việc mua nợ xấu thì hành động này hoặc sẽ dẫn đến lãi suất tiền đồng tăng vọt do tiền đã bị hút vào trái phiếu, hoặc NHNN phải nới cung tiền, cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng thương mại để mua trái phiếu Chính phủ nhằm giữ lãi suất không tăng lên, dẫn đến tăng áp lực lạm phát do tăng cung tiền. Cả 2 kịch bản đều không phải là điều được mong muốn ở Việt Nam.
VAMC được ra đời với hình thức mua nợ độc đáo của nó là bằng trái phiếu đặc biệt, dùng để chiết khấu tại NHNN lấy tiền mặt được cho là một giải pháp sáng tạo của Việt Nam, khi ngân sách không phải trực tiếp chi trả cho việc mua nợ xấu. Và Thống đốc NHNN có thể đã đúng khi tuyên bố rằng: “Việc mua bán nợ của VAMC không sử dụng tiền của ngân sách”.

Tuy vậy, việc các ngân hàng thương mại mang trái phiếu đặc biệt của VAMC đến chiết khấu tại NHNN để lấy dù chỉ là 70% giá trị nợ xấu đã bán cho VAMC thì cũng vẫn có nghĩa là có nhiều trăm nghìn tỷ đồng vẫn sẽ phải được NHNN in ra và chảy vào nền kinh tế. Mà như vậy thì tác hại của nó lên kinh tế vĩ mô (cụ thể là lạm phát) cũng sẽ tương tự như việc phát hành trái phiếu Chính phủ để mua nợ xấu và được “hỗ trợ” bằng thanh khoản của, bằng cung tiền từ NHNN.
Như vậy, có thể thấy, việc thành lập VAMC và phát hành trái phiếu đặc biệt của nó nói riêng và nhiều khoản mục khác trong chi tiêu của Chính phủ được tài trợ bởi tiền từ NHNN nói chung là một hình thức lách luật của Chính phủ nhưng rốt cuộc hậu quả tiêu cực của hành động này lên nền kinh tế lại không thể tránh khỏi. Nếu làm nghiêm ngặt và thống kê đầy đủ thì thâm hụt ngân sách lẽ ra đã và sẽ phải ở mức lớn hơn như đã biết nhiều. Bởi vậy, những câu phát biểu kiểu như “ngân sách không tốn một đồng” chẳng hề có chút giá trị chút nào ngoài việc xoa dịu và đánh lạc hướng dư luận.

Và dẫu có muộn, cũng đã đến lúc hoạt động của NHNN phải được độc lập với Chính phủ, và hoạt động của nó phải chịu sự theo dõi sát sao của Quốc hội. Bằng không, sự tồn tại của NHNN cũng chỉ như là một cánh tay nối dài của Kho bạc Nhà nước.

Wednesday 6 November 2013

"Hay, dở đều do Ngân hàng Nhà nước" (Bài trả lời phỏng vấn, tiêu đề do báo đặt)

 
 
PV: Nhiều ý kiến cho rằng điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng giữ cho lạm phát năm nay ở mức thấp. Nhưng lại cũng có phản bác, rằng, Ngân hàng Nhà nước "ăn may" vì giá cả thế giới không tăng. Ông nghĩ sao?
 
TS Phan Minh Ngọc: Cái đó đúng một phần. Thêm yếu tố nữa là tổng cầu đã tăng trưởng chậm lại nên bất chấp cung tiền vần tăng khá mạnh trong 10 tháng qua nhưng lạm phát mới dừng lại như hiện nay.

Nên quả thật là Ngân hàng Nhà nước có sự may mắn ở đây, chứ không hẳn cho thấy tính hiệu quả của chính sách tiền tệ như tự nhận.

Áp lực lớn nhất của điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2014 theo ông là gì?

Đó là áp lực phải chạy theo mục tiêu tăng trưởng tín dụng, phát hành trái phiếu Chính phủ, mặt khác phải kiên định với ổn định tỷ giá.

Có người nói phát hành trái phiếu Chính phủ không làm tăng áp lực lạm phát nhưng thật ra không hẳn thế. Nếu để tăng tổng vốn đầu tư xã hội thì chính sách tiền tệ buộc phải chạy theo bằng cách cung cấp thanh khoản, vốn cho hệ thống ngân hàng để họ có tiền mua trái phiếu Chính phủ.

Rồi nữa, nhiều người sốt ruột với tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp trong năm nay nên gây áp lực tăng nó lên trong thời gian còn lại của năm và năm sau. Điều này sẽ làm tăng áp lực lạm phát ngay từ đầu năm sau.

Cuối cùng, áp lực gia tăng lạm phát (làm tiền đồng lên giá thực) một bên và áp lực phá giá để hỗ trợ xuất khẩu như Thủ tướng chỉ đạo bên khác sẽ làm cho kỳ vọng phá giá càng tăng mạnh, càng gây thêm áp lực lạm phát.

Nói gọn lại, chính sách tiền tệ năm sau sẽ phải đánh vật giữa nhiều mục tiêu trái chiều nhau, vừa ổn định kinh tế vĩ mô vừa phải cấp vốn cho Chính phủ, cho nền kinh tế để chạy theo mục tiêu tăng trưởng không kém tham vọng.

Như vậy, căn bệnh kinh niên “chính sách tài khóa lấn lướt chính sách tiền tệ” có vẻ sẽ tái phát trong năm tới?

Không phải là lấn lướt, mà chính xác hơn là ép chính sách tiền tệ phải chạy theo một cách vô tình hay hữu ý. Cũng có thể do quan niệm chưa đúng và đầy đủ của những người có trách nhiệm, rằng phát hành trái phiếu Chính phủ không làm tăng áp lực lạm phát, vì thế, cho tiện lợi, người ta cứ đề xuất và rồi được phê chuẩn.

Ngân hàng Nhà nước có thể xoay sở như thế nào trong năm tới nếu chính sách tài khóa không thắt chặt?

Tài khóa không thắt chặt có nghĩa là Chính phủ tiếp tục tăng chi tiêu và đầu tư. Sẽ không thành vấn đề nếu chỉ có duy nhất mục tiêu tăng trưởng. Nhưng sẽ thành vấn đề nếu có thêm đồng thời mục tiêu kiềm chế lạm phát. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ sẽ phải ngược hướng với chính sách tài khóa.

Hình dung cụ thể của ông về lạm phát năm tới là như thế nào trong bối cảnh này?

Phần lớn sẽ phụ thuộc vào hành động nới lỏng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Càng nới
lỏng, càng chạy theo mục tiêu tăng trưởng, theo yêu cầu cấp vốn của Chính phủ thì áp lực lạm phát càng gia tăng.

Hy vọng, triệu chứng lạm phát sẽ đến sớm trong năm và Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ sẽ phải chùn tay, siết lại chính sách tiền tệ và tài khóa của mình.

Theo ông, lãi suất năm 2014 sẽ diễn biến như thế nào?

Ngân hàng Nhà nước đã biết và xác định được cơ sở thiết lập lãi suất, đó là dựa trên lạm phát và kỳ vọng lạm phát. Bởi vậy, lãi suất năm sau sẽ phụ thuộc vào lạm phát và lạm phát kỳ vọng, đến lượt nó, lạm phát và lạm phát kỳ vọng lại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ nới lỏng đến mức độ nào.

Các quân cờ đều nằm trong tay Ngân hàng Nhà nước, hay dở thế nào đều do Ngân hàng Nhà nước thực hiện. Và sâu xa hơn là quan điểm của những lãnh đạo cấp cao hơn. Nếu họ vẫn mang tâm lý thích tăng trưởng bằng mọi giá thì Ngân hàng Nhà nước còn phải vật lộn một cách khá vô vọng với những mục tiêu mâu thuẫn, loại trừ lẫn nhau.

Nhưng sự độc lập của Ngân hàng Nhà nước, như ông biết, chỉ là tương đối?

Vì Ngân hàng Nhà nước chỉ là một cơ quan cấp bộ, không có sự độc lập về chính sách, mục tiêu hoạt động. Kết quả là nền kinh tế sẽ còn tiếp tục bị trồi sụt trong bãi lầy chính sách.

Theo ông, có cách nào để thoát khỏi bãi lầy đó?

Không thể cầu toàn và tham lam mọi chuyện được. Phải biết điểm dừng và giới hạn, tuyệt đối cần bỏ thái độ chủ quan duy ý chí. Như vậy cần theo đuổi và chấp nhận một sự tăng trưởng vừa phải, trong những phạm vi an toàn cho phép để có được sự ổn định vĩ mô tương đối nhằm tạo điều kiện cho những cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế hướng đến mục tiêu tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Cái nhìn dài hạn thay cho tâm lý ứng phó, xoay sở trong ngắn hạn là cái cần thiết, cần có ở đây hiện nay.

Xin cảm ơn ông!
Tường Vi

Tuesday 5 November 2013

Bồi bút của bác Lại Trần Mai

Hình như có lần bác Lại Trần Mai, chủ nhân của blog "Tôi thích đọc", người cũng thỉnh thoảng ghé chơi blog này, đề cập đến đồng chí phóng viên (nhà báo?) Xuân Ba của Tiền Phong, gọi đồng chí này là bồi bút thì phải.

Đọc mấy bài của đồng chí Xuân Ba, nhất là mấy bài viết về các lãnh tụ kính yêu của tớ, quả thật tớ thấy đôi lúc cũng muốn lộn mửa. Ấn tượng nhất là một bài viết của đồng chí ấy về chuyến thăm Nhật của đồng chí X kính yêu hồi mấy năm trước, có đoạn viết, đại loại mấy đồng chí CEO của các tập đoàn lớn của Nhật cứ "thập thò" ngoài cửa để mong được vào diện kiến đồng chí X.

Có lẽ nếu đồng chí Xuân Ba nói thế với mấy đồng chí quan chức của Việt Nam cứ thập thò diện kiến Bill Gate thì tớ còn tin chút chút, chứ nói mấy đồng chí Nhật, mà lại là CEO của ví dụ như Sony, Panasonic, Toyota v.v... cũng như vậy thì tớ muốn ... vào cái ... của bác Xuân Ba lắm, vì tớ nghĩ tư cách của mấy người Nhật, nhất là những nhân vật không phải tầm thường như thế này đâu có cho phép họ "thập thò", cho dù chỉ là để ngóng ý con ông trời là đồng chí X.

Hôm qua và hôm nay đọc thêm tuyệt phẩm này này của đồng chí Xuân Ba về Thống đốc Bình và NHNN mà thú thật là tớ chỉ đủ kiên nhẫn đọc được một đoạn (mà cũng không thể hiểu nổi ý của nó), tớ càng thấy cái thứ văn xôi thịt theo kiểu "thập thò", dây cà ra dây muống, thấy người sang bắt quàng làm họ, bốc thơm mang phong cách đặc trưng này.

Vỗ tay cho đồng chí Đặng Thành Tâm

Lần này tớ phải vỗ tay hoan nghênh đồng chí doanh nhân Đặng Thành Tâm khi phát biểu về Vinacomin xin miễn giảm thuế như ở bài này.

Thường tớ không mấy thiện cảm và ấn tượng với giới doanh nhân Việt Nam, nhất là khi nói gì đó về vấn đề quốc tế. Nhưng đọc phát biểu của đồng chí Đặng Thành Tâm, người từng bị tớ phang trước đây về phát biểu "hạnh họe" của đồng chí ấy với đồng chí X kính yêu của tớ trước nghị trường, tớ thấy khá phục đồng chí ấy về hiểu biết trong ngành sản xuất nhôm (nếu là trả lời phát biểu vo, không có chuẩn bị trước, không trả lời bằng giấy bút thì càng phục).

Có những đoạn viết như thế này:

"Tại vì sao không khả thi? Tôi là thành viên hội đồng cố vấn Apec cùng với ông Oleg Deripaska - ông vua nhôm lớn thế giới. Chính ông đã nói thẳng, chính bản thân ông ấy mua mỏ của nước Nga từ khi giá còn rất rẻ nhưng vẫn bị lỗ.
Nhà tỷ phú Oleg Derpaska – ông chủ Tập đoàn United Co Rusal của nước Nga buộc phải cắt giảm sản lượng vì riêng quí IV năm 2011 lỗ 974 triệu USD trong khi quí IV năm 2010 còn thu lãi 1,45 tỷ USD! Sáu tháng đầu năm 2012, lợi nhuận ròng sụt giảm tới 95,25%, doanh thu giảm 9,66% khi giá một tấn nhôm chỉ còn 1.810 USD. Chính vì thế, ông ấy rất băn khoăn chuyện Việt Nam đầu tư vào 2 dự án này."

Thực hư về quan hệ quen biết của đồng chí Tâm với đồng chí Deripaska như thế nào thì tớ không biết, nhưng cái đoạn nói về tình hình sản xuất nhôm, giá nhôm... mà đồng chí Tâm nói vanh vách, khá chính xác thì tớ phục thật. Chả là tớ cũng đã và sẽ phải làm các báo cáo thị trường kim loại định kỳ, trong đó có nhôm, nên cũng biết chút chút về chuyện này.

Và cả những đoạn khác về tình hình ngành và thị trường, về Vinacomin, là những phát biểu khá khách quan, chính xác.

Giá mà đồng chí Tâm lúc nào và ở đâu cũng minh mẫn, khách quan được thế này thì tốt thật.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).