Sunday 30 January 2022

Lo ngại với cái sự “lo ngại” (Bài đăng trên KTSG, 30/12/2022)

https://thesaigontimes.vn/lo-ngai-voi-cai-su-lo-ngai/

Ở nước mình đã và đang tồn tại hai thái cực đối lập. Ở thái cực này, chúng ta vẫn thường xuyên được nghe đại loại như phải mạnh dạn và sáng tạo, táo bạo và táo bạo hơn nữa, tức phải “đột phá” thoát khỏi lối mòn hay sự trì trệ của khuôn khổ luật lệ hiện hành!

Còn ở thái cực ngược lại thì chúng ta cũng thường xuyên được nghe những quan ngại, đại loại kiểu nếu Nhà nước mở ra, cho làm cái này, cái kia thì lo cái này, cái kia sẽ xảy ra, nên tốt nhất là đóng lại, hoặc không khuyến khích, hoặc tìm cách siết lại…

Không cần nói và chứng minh thì cũng phải đồng ý rằng cả hai thái cực này đều có thể tệ hại như nhau. Một đằng thì dễ để lại những hậu quả như kiểu Vinashin. Đằng kia thì hậu quả được thể hiện ở, ví dụ, sự bỏ lỡ cơ hội, sự cản trở cơ chế thị trường, sự bóp nghẹt và trói chặt hoạt động bình thường của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Trong bài này chỉ xin được nhắc đến việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), và thuộc vào thái cực “lo ngại”. Và xin được minh họa vấn đề qua các ý kiến gần đây của đại diện Bộ Tài chính(1).

Trước tiên, Bộ Tài chính cho biết/cho rằng các tổ chức tư vấn phát hành và phân phối TPDN trên thị trường vẫn chào mời nhà đầu tư cá nhân tham gia mua trái phiếu, thậm chí có hiện tượng “lách” để đưa nhà đầu tư cá nhân trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Bộ lý giải, “nhà đầu tư cá nhân vẫn là chính họ, chưa thể đánh giá hay lường hết những rủi ro của doanh nghiệp phát hành cũng như trái phiếu họ mua”.

Rõ ràng, nhận định như vậy là đang đánh giá thấp nhà đầu tư cá nhân và/hoặc, ngược lại, đánh giá cao nhà đầu tư tổ chức, ở cái nghĩa là coi nhà đầu tư cá nhân thì thường không hiểu biết gì mấy nên dễ bị “lùa”/lừa; còn nhà đầu tư tổ chức thì rõ ràng “già rơ”, thừa khôn ngoan, hiểu biết và có năng lực để mua đúng cái họ muốn mà không sợ bị “lầm lỡ” như nhà đầu tư cá nhân.

Cũng như chuyện TPDN nước ngoài cũng đủ loại, được xếp hạng (nôm na) từ 3 sao đến 0 sao mà không có loại nào bị ế, kể cả trái phiếu của doanh nghiệp đã và đang vỡ nợ. Bởi thị trường sẽ định giá chất lượng trái phiếu thế nào thì tiền sẽ ở mức đó (theo tỷ lệ nghịch). Và sẽ luôn có những trái phiếu mà đầu tư vào đó hệt như chơi xổ số, trúng thì trúng rất to nhưng khả năng mất là rất cao, dành cho nhà đầu tư cả tổ chức lẫn cá nhân ưa thích mạo hiểm.

Kiểu tư duy trên là một dạng đòi nghĩ thay, lo hộ cho thị trường. Trên thực tế, nhà đầu tư cá nhân không dễ “mù quáng” khi mua TPDN mà không tìm hiểu thông tin. Ví dụ, chỉ cần lên Google gõ cụm từ “Individual investors buying corporate bonds” thì sẽ ra rất nhiều thông tin về chuyện liên quan. Chẳng hạn như ở cái link này(2), có giải thích cặn kẽ TPDN về bản chất là gì, ai (được) mua, và nếu là nhà đầu tư cá nhân thì mua như thế nào, dễ dàng ra sao… Tức là, trên thế giới việc nhà đầu tư cá nhân mua TPDN, cả trực tiếp lẫn thông qua một trung gian môi giới, là một việc hết sức bình thường, chẳng có mấy nhà nước nào lại đứng ra can ngăn là các vị đừng mua vì nguy hiểm, rủi ro lắm…

Cũng đừng cho rằng TPDN ở nước ngoài thì có chất lượng cao hơn ở Việt Nam (nên nhà đầu tư cá nhân có “lỡ” mua thì cũng không sao). Bởi thực tế thì cũng đầy đủ “thượng vàng hạ cám” hệt như Việt Nam mà thôi. Cũng xin đừng nói rằng nhà đầu tư cá nhân nước ngoài có trình độ cao hơn và khôn ngoan hơn nhà đầu tư cá nhân Việt Nam, vì… chẳng thể chứng minh như thế được! Ít nhất là qua kinh nghiệm cá nhân của người viết với dân bản địa và đối tác ở nhiều nước (gồm cá nhân).

Chuyển sang cái ý thứ hai và cũng là một tư duy khá phổ biến ở Việt Nam, rằng nhà đầu tư cá nhân thiếu hiểu biết, dễ bị lừa. Còn nhà đầu tư tổ chức thì ngược lại.

Khỏi phải vận dụng đến những gương kinh điển về cá nhân nhà đầu tư đã thành công vang dội và thành tỉ phú như thế nào, chỉ xin nói rằng người viết, trong công việc hàng ngày, được biết đến nhiều tổ chức mà thực chất là do cá nhân lập ra và điều khiển, chi phối, cũng như có nhiều tổ chức đầu tư mà kết quả còn thua cả các nhà đầu tư cá nhân.

Cũng liên quan đến nỗi lo ngại cho sự “khờ dại” của nhà đầu tư cá nhân, Bộ Tài chính cho rằng: “Thị trường Việt Nam có một đặc thù là nhà đầu tư có xu hướng gia tăng tỷ trọng hoặc giá trị đầu tư mà chưa quan tâm đến rủi ro, dù các cơ quan quản lý và chuyên gia đã đưa ra khuyến nghị, cảnh báo”.

Tỷ trọng và giá trị đầu tư được đề cập ở đây có lẽ là dành cho TPDN. Nếu đúng vậy thì điều này cũng hết sức bình thường. Trong bối cảnh lãi suất tiết kiệm ngân hàng thì thấp, đầu tư chứng khoán, vàng, ngoại tệ, đất đai thì còn rủi ro lớn hơn, chỉ có mỗi kênh TPDN là cho ngay một lãi suất hấp dẫn hơn hẳn, và niêm yết rõ ràng (tất nhiên có chắc hay không lại là chuyện khác, cũng giống như đầu tư chứng khoán hay vào bất cứ thị trường nào khác lúc đang thăng hoa). Không đầu tư vào TPDN thì nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào đâu, hay cứ ôm tiền để đỡ rủi ro?

Và cũng không cần nhắc lại chuyện nhà đầu tư cá nhân trên thế giới mua TPDN là hết sức bình thường, cũng như chuyện TPDN nước ngoài cũng đủ loại, được xếp hạng (nôm na) từ 3 sao đến 0 sao mà không có loại nào bị ế, kể cả trái phiếu của doanh nghiệp đã và đang vỡ nợ. Bởi thị trường sẽ định giá chất lượng trái phiếu thế nào thì tiền sẽ ở mức đó (theo tỷ lệ nghịch). Và sẽ luôn có những trái phiếu mà đầu tư vào đó hệt như chơi xổ số, trúng thì trúng rất to nhưng khả năng mất là rất cao, dành cho nhà đầu tư cả tổ chức lẫn cá nhân ưa thích mạo hiểm, săn lùng lợi nhuận cao.

Về phía doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho biết: “Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu hạn chế, kết quả sản xuất – kinh doanh thua lỗ, nhưng vẫn huy động được khối lượng lớn trái phiếu. Ngoài ra, có doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng không gắn việc sử dụng vốn với mục đích phát hành. Thậm chí, hiện tượng lưu chuyển vốn lòng vòng giữa các tổ chức phát hành và tổ chức thực chất sử dụng vốn đã xuất hiện trên thị trường”.

Lại xin nói về chuyện trên thế giới. Như đã đề cập ở trên, và bản thân người viết cũng đã liên quan, có không ít doanh nghiệp thua lỗ, mất khả năng chi trả hay đang phải vật lộn về mặt tài chính, được đặt vào diện quản thúc, hay những doanh nghiệp startup chẳng có gì bảo đảm ngoài… lời hứa về tương lai, nhưng vẫn (được phép) phát hành trái phiếu (được xếp vào dạng trái phiếu rác – junk bonds). Tất nhiên, cái “xui khiến” nhà đầu tư mua loại trái phiếu rác này không phải vì nhà đầu tư khờ dại, thiếu hiểu biết, mà là lợi suất cao, giá bán kỳ vọng cao trong tương lai, theo đúng nguyên tắc rủi ro cao thì lợi suất cao(3).

Như thế thì cái kết quả kinh doanh kém cỏi, thua lỗ cũng không nên được coi là tiêu chuẩn để xem xét doanh nghiệp có được phát hành trái phiếu hay không, để khuyến nghị, thậm chí ngăn cản nhà đầu tư có nên đầu tư hay không, doanh nghiệp có được phép phát hành trái phiếu hay không.

Còn chuyện doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng không sử dụng đúng mục đích, chuyển vốn lòng vòng cũng nên được coi, ít nhất là, không phải chuyện bất thường, khi nhìn ra thế giới. Không hiếm doanh nghiệp phát hành trái phiếu với mục đích rất chung chung “for other corporate uses”(4), tức tiền phát hành trái phiếu thu về và được làm gì thì là chuyện của… doanh nghiệp. Chứ chẳng có mấy chính phủ nào lại đứng ra quy định doanh nghiệp phải/chỉ được sử dụng tiền phát hành trái phiếu cho mục đích công bố ban đầu.

———–

(1) https://thesaigontimes.vn/lo-ngai-rui-ro-tu-nhung-lo-hong-tren-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep/
(2) https://www.investopedia.com/financial-edge/0612/how-to-invest-in-corporate-bonds.aspx
(3)https://www.investopedia.com/terms/j/junkbond.asp#:~:text=Junk%20bonds%20represent%20bonds%20issued,offset%20any%20risk%20of%20default.
(4) https://www.saam.com/en/investors/saam-coloca-nueva-emision-de-bonos-por-us-506-millones/

Saturday 22 January 2022

Mang cái nhìn bất thường thì sẽ thành bất thường (Bài đăng trên KTSG, ngày 20/1/2022, bản được báo biên tập lại)

https://thesaigontimes.vn/mang-cai-nhin-bat-thuong-thi-se-thanh-bat-thuong/

Đấu giá đất Thủ Thiêm gần đây với mức trúng đấu giá cao nhất lên tới 2,4 tỉ đồng/mét vuông được nhìn nhận trái chiều trong dư luận và kể cả giới chức. Bên cạnh những quan điểm ủng hộ và liệt kê ra một số cái lợi thu về, chủ yếu cho ngân sách nhà nước, cho TPHCM, cũng có không ít quan điểm nghi ngại, chỉ trích kết quả đấu giá này là bất thường.

Đất Thủ Thiêm từng trúng giá tới 2,4 tỉ đồng/mét vuông. Ảnh: H.P

Để biết giá trúng có bất thường hay không thì điều đầu tiên phải làm rõ là cuộc đấu giá có được tổ chức (một cách) bất thường hay không. Nhưng xem ra cho đến nay hoàn toàn không có một thông tin nào nghi ngờ về bất cứ sự bất thường trong việc tổ chức cuộc đấu giá đất Thủ Thiêm này.

Hơn nữa, việc tổ chức đấu giá sẽ chắc chắn bị nghi ngờ khi giá trúng lại sát, hoặc chỉ cao hơn một cách tượng trưng so với giá mời thầu, giá khởi điểm đấu giá. Nhưng ở đây điều diễn ra lại là ngược lại, với giá trúng cao gấp nhiều lần so với giá khởi điểm, và trải qua nhiều bước trả giá trước khi chốt lại mức trúng.

Bản thân cái giá trúng có phải là bất thường hay không thường được nhìn nhận trong mối tương quan với giá đất ở các khu vực khác có thể so sánh được, chẳng hạn như giá thị trường ở khu vực lõi TPHCM. Nếu so với cái giá cao nhất ở đó (khoảng 1,5 tỉ đồng/mét vuông) thì dường như khó có thể phủ định giá trúng đấu giá đất ở Thủ Thiêm tới 2,4 tỉ đồng/mét vuông là rất bất thường.

Thị trường có cái lý riêng của nó. Hẳn hầu như ai cũng biết những chuyện xem ra rất khó tin, khó lý giải xảy ra đâu đó trên thế giới như chuyện đấu giá một con cá ngừ đầu năm hay cặp dưa lưới đầu mùa ở Nhật, lên tới hàng trăm ngàn, hàng triệu đô la Mỹ.

Tuy nhiên, cũng phải thấy một thực tế rằng khu vực lõi TPHCM giờ đây gần như không còn lô đất nào có diện tích cỡ vài ngàn mét vuông, còn lô đất diện tích trên 10.000 mét vuông như lô 3-12 ở Thủ Thiêm thì không tưởng. Do vậy, lấy giá của khu vực mà diện tích lô đất chỉ từ vài chục đến vài trăm mét vuông ra so sánh với những khu đất lớn ở những vị trí đắc địa cũng là so sánh khập khiễng.

Thị trường có cái lý riêng của nó. Hẳn hầu như ai cũng biết những chuyện xem ra rất khó tin, khó lý giải xảy ra đâu đó trên thế giới như chuyện đấu giá một con cá ngừ đầu năm hay cặp dưa lưới đầu mùa ở Nhật, lên tới hàng trăm ngàn, hàng triệu đô la Mỹ. Nếu cứ áp dụng cái nhìn so sánh thông thường với những con cá ngừ và quả dưa cùng loại được bán đại trà trên thị trường thì rõ ràng chúng ta chỉ có thể thốt lên với người trúng đấu giá này rằng: “Đúng là điên rồ!”.

Thế nhưng, không mấy ai biết được câu chuyện đằng sau những cuộc đấu giá “điên rồ” này. Chẳng hạn như tham gia cuộc đấu giá cá ngừ có những ông chủ chuỗi cửa hàng sushi nổi tiếng nhất nước Nhật. Việc một năm bỏ ra một hai triệu đô la Mỹ để trở nên “nổi danh”, để thương hiệu của mình phút chốc nổi tiếng cả Nhật lẫn thế giới xem ra cũng không phải là một phép tiếp thị tồi hay quá đắt đỏ.

Trở lại với cái giá trúng đấu giá đất Thủ Thiêm, cho dù vì động cơ gì chăng nữa thì có một điều rõ ràng là không chỉ có một nhà đầu tư muốn trả giá cao để có lô đất này. Thực tế Capital One Financial chỉ bỏ cuộc sau khi đã trả giá tới 23.800 tỉ đồng, chỉ thấp hơn 700 tỉ đồng so với giá trúng của một công ty thuộc tập đoàn Tân Hoàng Minh.

Lại giả sử Capital One Financial là người đấu thành công với giá thấp hơn nhiều ngàn tỉ đồng mức giá họ đã từng muốn chi ra để có được lô đất thì Nhà nước sẽ nghĩ gì?

Vì việc các bên “tranh” mua đã đẩy giá lô đất 3-12 lên rất cao, nên cái sự bất thường lại được chú ý và đem ra mổ xẻ ở góc độ nhà đầu tư – tại sao lại mua và làm gì với miếng đất có giá trên trời như vậy. Tất nhiên là khác một chút với câu chuyện mua cá ngừ tiền triệu đô ở Nhật, các nhà đầu tư trúng đấu giá đất Thủ Thiêm không phải là những cái tên sừng sỏ trong giới, có tiềm lực “khủng” so với giá trị mảnh đất họ đấu giá trúng, nên cũng khó chắc rằng có hay không việc họ đang dùng việc này để đánh bóng tên tuổi với một cái giá quá “đắt”.

Nhưng họ là nhà đầu tư chứ không phải là những kẻ chơi ngông, “điên rồ”, nên chắc chắn trước khi đấu giá và xác định phải trúng bằng mọi giá, họ đã có kế hoạch sử dụng mảnh đất này. Đã có những đồn đoán, những thuyết âm mưu rằng đằng sau các nhà đầu tư này là những tập đoàn và cá nhân hùng mạnh về quan hệ và tài chính, rằng họ dùng vốn vay ngân hàng để đấu giá nên rốt cuộc có thua lỗ thì họ (và quan chức ngân hàng) vẫn rút ra được một mớ tiền còn hậu quả thì ngân hàng và cả nền kinh tế phải gánh chịu… Đến mức mà đã có yêu cầu các ngân hàng báo cáo việc cấp tín dụng cho các chủ thể tham gia đấu giá đất Thủ Thiêm.

Nếu chỉ có thế thì chuyện xem ra cũng… bình thường! Dù là tập đoàn nào, cá nhân nào đứng sau các nhà đầu tư trúng đấu giá thì họ vẫn phải tính toán đến hiệu quả, công dụng của mảnh đất họ gián tiếp mua được này. Họ ra mặt hay không cũng không phải là điều đáng bận tâm, miễn là việc chuyển giao, mua bán lại được pháp luật công nhận (mà xem ra thì chẳng ai muốn việc mua bán, chuyển quyền sở hữu lại không được pháp luật công nhận cả).

Đối với nghi vấn vay ngân hàng để đấu giá rồi rút tiền chia nhau, thực ra chuyện nay cũng… xưa như trái đất rồi, khi thực tế luôn có các vụ nhân viên ngân hàng cấu kết với người vay tiền nâng khống giá trị tài sản thế chấp lên nhiều lần để rút tiền chia chác với nhau, kệ ngân hàng với gánh nợ xấu trong tương lai.

Nhưng kết quả kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy chưa có ngân hàng nào cho các doanh nghiệp vay để lấy tiền đi đấu giá đất ở Thủ Thiêm.

Đó là chưa kể vụ đấu giá đất, quyết thắng bằng mọi giá để trục lợi ngân hàng kiểu này, nếu có, thì phải gọi nhà đầu tư trúng đấu giá và ngân hàng liên đới, nếu có, thật sự là “điên rồ”, bởi trục lợi mà theo kiểu “lạy ông tôi ở bụi này”, thì cơ quan chức năng chẳng khó gì để “làm rõ” chỉ qua một cuộc thanh tra.

Giờ đây, có lẽ do sức ép từ nhiều phía, Tân Hoàng Minh đã quyết định bỏ cọc lô đất và dự kiến quyết định này sẽ khiến Tân Hoàng Minh thiệt hại gần 600 tỉ đồng và nhiều thiệt hại có thể có khác từ hệ lụy của thương vụ này.

Vấn đề đáng quan tâm sắp tới là điều gì sẽ xảy ra khi lô đất 3-12 ở Thủ Thiêm được đưa ra đấu giá lại? Nếu kết quả sắp tới, “nhờ” sự cố xảy ra với Tân Hoàng Minh mà giá trúng được kéo xuống, giả sử chỉ còn khoảng 10.000 – 12.000 tỉ đồng – mức giá mà hầu hết các công ty đã bỏ cuộc trong đợt đấu giá đầu tiên; và lại giả sử Capital One Financial là người đấu thành công với giá thấp hơn nhiều ngàn tỉ đồng mức giá họ đã từng muốn chi ra để có được lô đất thì Nhà nước sẽ nghĩ gì?

Tắc nghẽn hàng hóa: quyết liệt cũng bó tay! (Bài đăng trên KTSG, 13/1/2022)

https://thesaigontimes.vn/tac-nghen-hang-hoa-quyet-liet-cung-bo-tay/

Xin nói chuyện ngoài lề một chút. Tủ lạnh hiệu Hitachi sản xuất tại Nhật của nhà tôi hôm rồi đột nhiên dở chứng, chạy mà chỉ hơi man mát. Gọi điện cho đại lý của hãng Hitachi tại Singapore để sửa chữa thì đại lý bảo bó tay vì đời máy này đã lâu rồi, hãng đã ngừng sản xuất nên không còn phụ tùng thay thế. Đành phải ra cửa hàng điện máy Court gần nhà để tìm mua cái thay thế.

Sau một hồi loanh quanh nghe tư vấn của nhân viên, tôi quyết định chọn mua cũng một cái hiệu Hitachi sản xuất tại Nhật. Mặc dù từ khá lâu đã khá ngán ngẩm với hàng dán mác Made in Japan nhưng vẫn chọn mua chiếc này bởi nó có những tính năng và đặc điểm kỹ thuật hơn hẳn những model cùng hãng nhưng làm ở nước thứ ba, như Thái Lan, hoặc của các hãng khác. Và tất nhiên tiền phải trả cho cái mác này và những tính năng phụ trội thì đắt hơn 3, 4 lần so với những model sản xuất tại Thái Lan.

Nhân viên bán hàng cảnh báo trước là hiện họ không có hàng trong kho, bởi chính sách của Hitachi (không biết các hãng Nhật khác có giống thế không) là chỉ giao hàng trực tiếp từ Nhật, tất nhiên là với các model sản xuất tại Nhật, khi có người mua. Sớm nhất thì cũng phải hơn chục ngày nữa mới có thể giao hàng được. Không còn mấy lựa chọn nên tôi đồng ý.

Đột nhiên hôm trước, cửa hàng gọi điện báo là do vận chuyển (chắc chắn là bằng đường biển) chậm chễ nên chỉ có thể giao hàng vào cuối tháng 2 tới. Tưởng nghe nhầm, tôi hỏi lại là cuối tháng 2 hay cuối tháng 1 này. Họ khẳng định cuối tháng 2, và bảo là nếu muốn thì có thể hủy đơn. Ôi trời!      

Quay lại với bài viết. Ở Việt Nam hiện đang diễn ra tình trạng hàng hóa và nông sản tắc nghẽn tại các cửa khẩu biên giới với Trung Quốc. Lý do một phần được cho là bởi chính sách “Zero Covid” của Trung Quốc xiết chặt các biện pháp phòng chống dịch đã ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động thông quan hàng hóa tại các cửa khẩu với nước này.

Nhìn từ diễn tiến dịch bệnh ở Việt Nam, hoàn toàn có thể cảm thông, không thể trách cứ phía Trung Quốc trong việc duy trì chính sách nghiêm ngặt trong phòng chống dịch bệnh của họ. Nên việc tắc nghẽn hàng hóa thông quan chắc chắn sẽ diễn ra không chỉ với vận tải đường bộ, ở vùng biên giới phía Bắc, mà còn ở các cảng biển, hàng không và đường sắt, bởi đây đều là những cửa ngõ để Covid-19 có thể xâm nhập.

Mà chắc chuyện này không chỉ diễn ra ở Trung Quốc. Nó cũng đang diễn ra ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới, tuy ở các mức độ khác nhau. Bằng chứng là câu chuyện tôi đi mua cái tủ lạnh Hitachi sản xuất tại và giao hàng từ Nhật sang Singapore nói trên mà phải đến 2 tháng sau thì may ra mới nhận được hàng.

Điều đáng nói là trong bối cảnh tắc nghẽn, đứt gãy chuỗi cung ứng như vậy, phía Việt Nam dường như đang cố gắng tìm những giải pháp có thể coi là căn cơ hơn. Trong chuyện tắc nghẽn thông quan đường bộ hiện nay, một trong những giải pháp đưa ra là tăng cường xuất khẩu qua đường sắt và đường biển.

Cái khó của xuất khẩu qua đường sắt và đường biển dường như mới chỉ được đề cập ở khía cạnh là đòi hỏi phải dưới hình thức xuất khẩu chính ngạch, có hồ sơ đầy đủ. Những cái khó khác thì chỉ được đề cập qua loa, gián tiếp, kiểu như các doanh nghiệp vận tải biển cũng sẵn sàng giảm giá vận chuyển, logistics, hỗ trợ chuyển phương thức vận tải...

Từ câu chuyện cá nhân trên, có thể nói ngay rằng chuyển sang vận tải biển (tạm không bàn đến vận tải đường sắt) chưa hẳn đã là giải pháp căn cơ, dù cho doanh nghiệp xuất khẩu có xuất khẩu chính ngạch đi chăng nữa. Đầu tiên là phải tính đến chuyện tắc nghẽn vận tải biển, dẫn đến việc giao hàng sẽ chậm chễ nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng. Với cái khó này thì bất kể chúng ta có quyết liệt với quyết tâm, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị hay không thì cũng... bó tay! Bởi chúng ta có thể quyết liệt và quyết tâm đưa được hàng đến các cảng biển của nước đối tác, nhưng có thông quan được hay không thì lại hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng tắc nghẽn hay không ở các cảng đó, là điều mà sự quyết tâm với quyết liệt của chúng ta không thể can thiệp được.

Cái khó thứ hai nữa là, như đã biết, giá cước vận tải biển đã tăng lên đến dăm lần so với trước đây. Trong khi đó, cước vận tải đường bộ trong nước dù có thể cũng tăng nhưng chắc chắn không tương ứng. Nếu tính thêm thời gian kéo dài, thì chi phí vận tải biển đắt đỏ, đặc biệt là khi so sánh với giá trị hàng hóa xuất khẩu, càng làm cho xuất khẩu tiểu ngạch qua đường bộ vẫn là giải pháp tối ưu đối với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Chẳng phải thế mà dù biết tắc nghẽn mà các xe tải vẫn cứ tiếp tục đổ về các cửa khẩu phía Bắc, dù số lượng có giảm đi so với trước đây (1)?

Việc các doanh nghiệp vận tải biển hứa hẹn giảm giá vận chuyển chỉ là chuyện... tham khảo. Họ cũng là doanh nghiệp, không thể hy sinh vô biên và trong thời gian bất định lợi nhuận của mình. Và kể cả họ có hy sinh lợi nhuận, thì giá cước vận tải cũng chỉ có thể giảm có chừng mực, ví dụ 10-20%, và cũng chỉ là giảm nhất thời, vẫn là quá nhỏ nhoi so với mức tăng giá cước đến dăm lần như hiện nay.

Ngoài ra, những giải pháp kiểu thúc đẩy tiêu thụ trong nước cũng chỉ là giải pháp đối phó nhất thời, đặng chẳng đừng, vì cơ chế thị trường đã xác định rạch ròi rằng xuất khẩu nông sản tiểu ngạch, cụ thể là sang Trung Quốc, bằng đường bộ, vẫn là giải pháp tối ưu, có lợi nhất cho doanh nghiệp xuất khẩu, và tức là cho cả chuỗi nông nghiệp cung ứng thượng nguồn.

Chính vì thế mà câu chuyện tắc nghẽn xuất khẩu nông sản tại các cửa khẩu phía Bắc vẫn đều đều diễn ra hầu như hàng năm trong các năm gần đây, bất chấp đủ loại giải pháp với quyết tâm chính trị đã được đề xuất (và áp dụng).

-----   

(1) https://zingnews.vn/giai-cuu-hang-hoa-un-u-o-cua-khau-bang-duong-sat-duong-bien-post1288496.html

Cứu cung hay cứu cầu trước? (Bài đăng trên KTSG, số 1-2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-1-2022-2022-va-xa-hon/

Tổng cục Thống kê (TCTK) mới công bố các số liệu của năm 2021 cho thấy nhiều điểm yếu trong nền kinh tế. Một trong những điểm nổi bật là tổng cầu rất yếu, thậm chí còn yếu hơn cả của năm 20220. Tổng cung dường như cũng có vấn đề, nếu được nhìn nhận qua lạm phát của Việt Nam ở mức khá thấp (1,84%) so với các nước như Mỹ và châu Âu, điều hiếm có trong nhiều năm.

Trước tình trạng này, bài toán đặt ra cho việc phục hồi và phát triển kinh tế là phải làm tăng tổng cung và/hoặc tổng cầu. Điều này xem như là đương nhiên, bởi tăng tổng cung hay tổng cầu chính là tăng GDP. Vì vậy, đã có một quan điểm đối với Việt Nam hiện nay là "tập trung tăng cả tổng cung và tổng cầu, trong đó ưu tiên hơn tổng cung". 

Không rõ cơ sở xuất phát của quan điểm trên là như thế nào. Nhưng cách dùng các từ “tập trung” và “ưu tiên” xem ra vẫn cùng cách tư duy phát triển kiểu quả mít có gai, tuy có thể có cái gai to hơn.

Rõ ràng, trong hoàn cảnh nguồn lực có hạn như hiện nay thì không thể tăng cả tổng cung lẫn tổng cầu, dù có được thòng thêm chữ “ưu tiên”. Mà xét cho cùng, tổng cung hay tổng cầu chỉ là các con số thống kê thể hiện tình trạng nền kinh tế nhìn từ những góc độ liên quan. Nếu cứ bóc tách nền kinh tế thành tổng cung và tổng cầu thì cũng tương đương với việc coi GDP gồm hai cấu phần (chính) là tổng cung và tổng cầu cộng lại nên để tăng GDP thì cần tăng (tốt nhất là) cả hai cấu phần này.

Bởi vậy, thay vì loay hoay đi tìm lời giải cần cứu cái nào hơn, cái nào trước (tổng cung hay tổng cầu), điều cần làm là phân tích và tìm ra cái gì là điểm nghẽn trong nền kinh tế dẫn đến tăng trưởng GDP thấp nhất trong nhiều năm qua như vậy, để từ đó có phương pháp xử lý phù hợp.

Theo hướng này, điểm nghẽn đáng nói nhất gây ra hậu quả kinh tế nặng nề trong năm 2021 chính là việc cách ly, phong tỏa trên diện rộng, diễn ra nhiều tháng ở các trung tâm kinh tế chính của cả nước. Việc này đã đồng thời tác động mạnh đến cả tổng cung lẫn tổng cầu, và, quan trọng hơn, theo kiểu tăng cường lẫn nhau.

Phong tỏa, cách ly trước tiên sẽ đột ngột buộc nhiều người phải ở yên trong nhà, không ra ngoài, làm ăn gì được. Hậu quả là, về phía cầu, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cũng đột ngột rơi tự do. Về phía cung, không chỉ phải gánh chịu thiệt hại khi người lao động trong các ngành sản xuất, dịch vụ không thể đi làm bình thường nên doanh nghiệp buộc phải đóng cửa, hoạt động cầm chừng, mà còn bị thiệt hại khi nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của xã hội lao dốc làm cho hàng hóa, dịch vụ không có nơi tiêu thụ, như việc rau quả, lúa chín đầy đồng mà không có ai thu hoạch, không bán được cho ai. Đến lượt mình, doanh nghiệp đóng cửa, hoạt động cầm chừng lại làm tăng số người mất việc, bị giãn việc, dẫn đến thu nhập sụt giảm mạnh hoặc không có. Điều này lại tác động cùng lúc đến cả cung và cầu (không có người mua, người mua không có tiền).

Nhưng nếu đã xét thì phải xét đến cùng nguồn gốc của vấn đề, điều gì gây ra phong tỏa và cách ly? Tất nhiên, đó chính là đại dịch Covid-19 và các biến thể. Nhưng thế vẫn chưa xong, vì phải xét đến chuyện cùng bị Covid-19 hoành hành nhưng tại sao vẫn có nhiều nước tăng trưởng kinh tế cao hơn Việt Nam, dù Việt Nam lúc đầu có một thời gian khá “thanh bình” đáng ghen tị?

Như vậy, phong tỏa, cách ly chỉ là hậu quả của việc không kiểm soát được Covid-19, để nó lây lan rộng và lúc đã lây lan rộng thì không biết làm thế nào để sống chung với nó và giảm thiểu thiệt hại kinh tế và sinh mạng con người. Nguyên nhân không kiểm soát được và sống chung với Covid-19 gồm: tiêm vaccine muộn; (không loại trừ) việc cấu kết nhau tham nhũng đưa vào độc quyền sử dụng kit thử nhanh Covid cho kết quả sai lầm, bỏ sót người nhiễm và làm lây lan oan những người lành; và sự lúng túng, bất cập của chính quyền trung ương, mạnh địa phương nào địa phương ấy tùy nghi các biện pháp cách ly, phong tỏa, càng làm ảnh hưởng mạnh đến cả phía cung lẫn cầu...

Vậy, để phục hồi và phát triển kinh tế thì điều quan trọng cần làm là phải thống nhất và tìm ra được cách sống chung với Covid-19 với các biến thể mới Omicron và các biến thể có thể có khác trong tương lai rất gần. Khi dịch vẫn còn (và chắc chắn sẽ tiếp tục) hoành hành mà vẫn phải đóng cửa, hạn chế các hoạt động kinh tế thì chẳng có cách nào cứu được cái gì, dù là cung hay là cầu, dù là “ưu tiên” hay “tập trung”.

Khi đã có cách sống chung với dịch thì dù dịch bệnh vẫn lan truyền nhưng người dân vẫn được tự do ra đường, mua sắm, tiêu dùng, doanh nghiệp vẫn được sản xuất mà không bị mấy gián đoạn hay trở ngại (trừ lý do bất khả kháng như bị ảnh hưởng bởi chuỗi cung ứng thế giới bị đứt đoạn) thì tự khắc cả cung lẫn cầu đều tự thân phát triển và kích thích nhau cùng phát triển.

Tất nhiên ở đây nhiệm vụ của chính quyền là phải tìm ra được cách sống chung tối ưu này. Nên suy cho cùng, nguồn gốc của mọi nguyên nhân và, do đó, là động lực để nền kinh tế có phục hồi và phát triển được hay không chính là chất lượng bộ máy công quyền hiện nay. Chừng nào không có sự thay đổi về chất thì sự kéo dài của dịch bệnh sẽ không được đối phó một cách hữu hiệu để rồi tuy hô hào “sống chung với dịch” nhưng sẽ vẫn không thể thực hiện được, và cả cung lẫn cầu sẽ còn tiếp tục trì trệ. 

Sunday 9 January 2022

Giải bài toán khó hỗ trợ phục hồi kinh tế và kiểm soát nợ xấu (Bài đăng trên KTSG, 6/1/2022)

https://thesaigontimes.vn/giai-bai-toan-kho-ho-tro-phuc-hoi-kinh-te-va-kiem-soat-no-xau/

Nền kinh tế đã trải qua một năm rất đáng quên với nhiều khó khăn và thách thức khó có lời giải hữu hiệu mà không tạo thêm những rủi ro lớn hơn.

Hãy cùng nhìn vào một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nay của nền kinh tế. Đó là nhu cầu cấp bách về cần phải có sớm một chương trình phục hồi và phát triển kinh tế để vực lại hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã phải đóng cửa hoặc thoi thóp cầm cự trong suốt hai năm Covid vừa qua. Một chương trình phục hồi và phát triển như vậy cũng cần phải tính đến hàng chục triệu người lao động và người ăn theo cũng đã bị kiệt quệ cả về vật chất và tinh thần bởi đại dịch. Trên quy mô lớn chưa từng có với con số hàng trăm ngàn, hàng chục triệu như vậy thì chương trình phục hồi và phát triển kinh tế cũng phải ở quy mô vô tiền khoáng hậu thì mới mong đủ “thấm” và phát huy tác dụng.

Tuy nhiên, câu hỏi khó ở đây là nguồn vốn nào tài trợ cho chương trình phục hồi nói trên? Giải pháp được nhiều người đề xuất và/hoặc lựa chọn phổ biến nhất hiện nay là giải pháp dựa vào hệ thống ngân hàng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ, rót vốn với lãi suất thấp hoặc bằng 0 cho hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) để từ đó các NHTM cho vay lại doanh nghiệp và người dân với lãi suất bằng lãi suất cung ứng của NHNN cộng thêm chi phí hoạt động cho vay lại của NHTM.

Cách này trở nên phổ biến và dễ được lựa chọn và chấp nhận một phần bởi sự ngộ nhận rằng tiền của NHNN in ra qua nới lỏng tiền tệ là nguồn tiền đương nhiên, sẵn sàng (có), dễ dàng mà có và có giá rẻ, không để lại mấy hậu quả so với không có nguồn tiền này.      

Thoạt nghe thì kiểu cho vay bù lãi suất này đúng là lợi trăm bề mà hậu quả thì ít, bởi NHTM khi cho vay, kể cả là cho vay hộ NHNN, thì vẫn (phải) sát sao với tình hình thực tế của con nợ bởi nợ của khách hàng vay bù lãi suất vẫn là nợ của NHTM cho vay và NHTM này vẫn phải có trách nhiệm xử lý khi nợ cho vay biến thành nợ xấu chứ không phải là một ai khác.

Nhưng trên thực tế đã cho thấy qua các chương trình cho vay bù lãi suất lớn nhỏ trong hai ba chục năm qua (gồm cả hình thức cho vay chỉ định đến một nhóm đối tượng cụ thể) thì hậu quả để lại, tức nợ xấu, là điều không thể tránh khỏi và không hề nhỏ, nếu không muốn nói ngược lại. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là NHTM khi cho vay kiểu bù lãi suất này sẽ có rất ít động lực để xét duyệt và kiểm soát cho vay cũng như sử dụng tiền vay bởi con nợ, do họ biết rõ rốt cuộc hậu quả có thế nào thì NHNN nói riêng và cả nền kinh tế sẽ phải chịu trách nhiệm, chứ không phải là họ, sau khi họ đã thu đủ mọi loại phí và, đương nhiên, cả lợi nhuận “định mức” nữa.

Ở trên bình diện vĩ mô, việc NHNN nới lỏng tiền tệ, bù lãi suất để NHTM mở rộng cho vay ra nền kinh tế trên quy mô lớn cũng sẽ để lại hậu quả lớn là áp lực lạm phát tăng vọt song hành với quy mô và nhịp độ nới lỏng tiền tệ. Cộng thêm với những mất mát, thất thoát, thiệt hại, bất hợp lý trong quá trình cho vay bù lãi suất, chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN rất có thể dẫn nền kinh tế đến tình trạng phục hồi kinh tế đâu chưa thấy mà chỉ thấy có sự phát triển nóng của một số lĩnh vực như bất động sản, trong khi phần còn lại của nền kinh tế (nền kinh tế thực) thì tăng trưởng trì trệ song hành với lạm phát cao. Đến một lúc nào đó, NHNN buộc phải rút lại các biện pháp nới lỏng để kiềm chế lạm phát thì nền kinh tế sẽ lại đối mặt với nguy cơ rơi đổ vỡ, rơi tự do, nợ xấu tăng vọt khi bị đột ngột “cai” vốn tín dụng rẻ.

Vì vậy, và cũng nên tham khảo thêm kinh nghiệm của các nước, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Việt Nam nếu có thì không nên lặp lại lối mòn nguy hiểm trước đây, là NHNN nới lỏng tiền tệ và thực hiện cho vay bù lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.       

Thay vào đó, cách làm đỡ xấu hơn là ngân sách nhà nước sẽ trở thành vừa là con nợ, vừa là chủ nợ. Ngân sách nhà nước sẽ là con nợ trước tiên của nền kinh tế, khi nó phải huy động vốn từ dân và doanh nghiệp thông qua phát hành trái phiếu, công trái. Đương nhiên làm vậy sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn là làm tăng mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế, tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp và người dân đang chật vật phục hồi và tăng trưởng. Lúc này, ngân sách phải tính thêm phương án trở thành con nợ trực tiếp của NHNN, như kiểu Fed mua trái phiếu của Kho bạc Mỹ. Bằng cách phối hợp này, mặt bằng lãi suất và lạm phát sẽ tìm được một điểm cân bằng tuy có thể nghiêng về phía này hay phía kia nhiều hơn (tùy thời điểm) so với trường hợp dựa hoàn toàn vào việc bù lãi suất của NHNN nhưng sẽ là an toàn hơn và dễ chấp nhận hơn đối với doanh nghiệp và nền kinh tế.

Có nguồn vốn huy động, ngân sách nhà nước sẽ/cần đóng vai trò là chủ nợ tích cực hơn. Theo đó, ngân sách sẽ đóng vai trò là chủ đầu tư trong các dự án đầu tư công hiện tại và mới, ứng vốn/cho vay các nhà thầu trong nước thực hiện các dự án này. Việc xét duyệt nhà thầu, qua đấu thầu, tuy cũng có lùm xùm, nhưng ít ra thì còn đỡ hơn so với việc để mặc NHTM tự tung tự tác trong việc tìm và cho vay khách hàng trong chương trình cho vay bù lãi suất.

Ngân sách nhà nước cũng tăng cường vai trò là chủ nợ và/hoặc nhà tài trợ, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp và người dân qua các biện pháp thuế, phí, cho vay vốn hỗ trợ doanh nghiệp khi đáp ứng được các tiêu chuẩn và điều kiện chung đặt ra. Ngoài những khoản cấp phát, cho không mà dù có hay không có chương trình phục hồi và phát triển kinh tế thì vẫn cứ phải chi, không phải tất cả các khoản chi tiêu còn lại từ ngân sách là cấp phát, cho không, mà là các khoản cho nợ lại và/hoặc cho vay mới các đối tượng, có thể là với các điều khoản ưu đãi. Các khoản cho nợ lại/cho vay mới này, vì được coi là có nguồn từ ngân sách, nên về bản chất phải được công khai, minh bạch hóa. Cho vay trong một môi trường như vậy (tất nhiên thực tế thì vẫn có... nhiều chuyện!) thì sẽ là tốt hơn (ít để lại hậu quả hơn) so với phó mặc cho các NHTM như trong cho vay bù lãi suất.

Và xét cho cùng, dù việc thiết kế và thực thi chương trình phục hồi và phát triển kinh tế thông qua ngân sách nhà nước chắc chắn cũng sẽ để lại hậu quả như thất thoát, lãng phí, nợ xấu (doanh nghiệp không trả nợ ngân sách) nhưng những hậu quả này sẽ được tính vào nợ công. Dù nợ công có tăng lên thì ít nhất Chính phủ cũng vẫn còn lối thoát trong một thời gian dài là dùng nợ mới nuôi nợ cũ. Chứ nếu là nợ xấu phát sinh trong hệ thống ngân hàng, được hạch toán tại các NHTM, thì Chính phủ không được phép, không có cơ sở nào phát hành trái phiếu huy động vốn để trả nợ hộ, giải quyết nợ xấu tại các NHTM. Kể cả NHNN cũng không được phép in tiền để xóa nợ xấu tại các NHTM, ngoài biện pháp kiểu như dùng VAMC để “nuôi” nợ.

Wednesday 5 January 2022

Năm xu hướng kinh tế chính trong năm 2022 (Bài đăng trên KTSG, 5/1/2022)

https://thesaigontimes.vn/nam-xu-huong-kinh-te-chinh-trong-nam-2022/ 

Phần lớn nền kinh tế thế giới đã phục hồi trong năm 2021 sau một năm kể từ đại dịch Covid-19 nổ ra, tuy sự phục hồi này không đồng đều và liên tục giữa các nước và các khu vực kinh tế. Một trong những điều đáng chú ý nhất trong năm 2021 là sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ ở một số nước và khu vực đã tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng về cung và cầu, gây ra sự gián đoạn, đứt gẫy trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này cũng làm cho lạm phát tăng mạnh ở nhiều nền kinh tế.

Sang năm 2022, điều trước tiên có thể dự đoán là những làn sóng Covid mới, như của biến chủng Omicron sẽ không thể làm chệch ray quá trình phục hồi kinh tế ở nhiều nước, vì có nhiều dấu hiệu cho thấy dịch gây ra bởi Covid đang và sẽ biến chuyển từ đại dịch như năm trước sang dịch bệnh mang tính thông thường hơn, kiểu như cúm mùa. Tuy vậy, dù không còn nguy hiểm như năm trước nhưng những làn sóng lây nhiễm Covid mới vẫn sẽ làm các chính phủ duy trì một số hạn chế nhất định trong các hoạt động kinh tế để tránh sự bùng phát lây nhiễm dẫn đến sự quá tải của hệ thống y tế. Vì vậy, kinh tế sẽ tiếp tục phục hồi nhưng sẽ không thể với tốc độ nhanh chóng như kỳ vọng được.

Thứ hai, sự đứt gẫy chuỗi cung ứng toàn cầu trong năm 2021 làm cho nhiều hãng sản xuất lớn trên thế giới cũng phải cắt giảm công suất hoặc thậm chí ngừng sản xuất được kỳ vọng sẽ tiếp tục trong năm 2022 tới bởi nhiều nước vẫn duy trì các hạn chế về đi lại giữa các quốc gia để đối phó với các biến chủng Covid mới, tiếp tục làm gián đoạn dòng chảy hàng hóa và con người giữa các quốc gia, các ngành kinh tế. Tuy vậy, hậu quả của sự tiếp tục đứt gẫy chuỗi cung ứng gây ra tình trạng mất cung cầu, làm gia tăng áp lực lên lạm phát được dự báo sẽ giảm dần vào cuối năm 2022 khi một loạt chính sách ở tầm quốc gia được thi hành. 

Về phía cầu, sự gia tăng bùng nổ như trong năm 2021 chắc chắn sẽ không còn tái diến khi mà các ngân hàng trung ương sẽ nhất quán hơn trong việc thắt chắt chính sách tiền tệ để đối phó với áp lực lạm phát gia tăng từ việc siêu nới lỏng tiền tệ trước đó. Còn các chính phủ cũng sẽ/buộc phải ngừng hoặc rút lại các gói giải cứu kinh tế khi các ngân hàng trung ương không còn tiếp tục hỗ trợ ngân sách bằng cách mua vào ồ ạt trái phiếu chính phủ như hai năm trước đây. 

Phía cung cũng sẽ được các chính phủ tìm cách tháo gỡ các khó khăn, cản trợ, gồm sự rỡ bỏ dần các hạn chế đi lại, lưu thông hàng hóa và con người để thúc đẩy các ngành kinh tế trọng yếu cùng với đà gia tăng tiêm chủng và sự ra đời của các phương thuốc điều trị Covid có hiệu quả hơn.

Thứ ba, sự phục hồi kinh tế sẽ tiếp tục diễn ra một cách không đồng đều giữa các nước trong năm 2022. Và các nước được hưởng lợi nhiều nhất trong năm 2022 khi sự đứt gẫy chuỗi cung ứng thế giới được khắc phụ sẽ là các nước công nghiệp hóa và/hoặc các nước phụ thuộc lớn vào thương mại quốc tế. 

Thứ tư, thông thường sau mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hay khu vực, sẽ có nhiều nền kinh tế mới nổi lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc khó khăn nghiêm trọng về khả năng trả nợ do phải tăng vay nợ công để đối phó với khủng hoảng trước đó. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra lần này do Covid-19 được dự báo sẽ không để lại hậu quả tương tự cho các nền kinh tế mới nổi. Bởi phần lớn các nước này đã có nền tảng kinh tế vĩ mô tốt hơn trước đây, và đang duy trì các chương trình quản lý nợ một cách rất hiệu quả, giảm thiểu khả năng vỡ nợ, trong khi lại tận dụng được điều kiện thuận lợi của thị trường (ngoại tệ mạnh được các ngân hàng trung ương bơm mạnh ra, nay có thắt chặt thì cũng sẽ diễn ra một cách từ từ, nhưng vẫn trong xu thế nới lỏng hơn so với trước đây để đạt trạng thái toàn dụng) để tiếp tục củng có dự trữ ngoại hối và hưởng lợi từ sự phân bổ thêm quyền rút vốn đặc biệt.

Thứ năm, chương trình đầu tư có trách nhiệm liên quan đến môi trường, con người/cộng đồng và nền quản trị công ty (ESG) sẽ tiếp tục được nhấn mạnh và xúc tiến trong năm 2022. Tuy nhiên, sẽ có một số trở ngại và sự chống đối, gây áp lực lên một số chính phủ khi giá năng lượng tăng vọt, còn các ngành gây ô nhiễm lớn như nhiệt điện, luyện thép lại không có những phương án thay thế ít tốn kém. Bởi vậy, dù trên giấy tờ, tài trợ và đầu tư vào những ngành ô nhiễm sẽ có xu hướng tiếp tục giảm mạnh nhưng trên thực tế xu hướng đầu tư vào các ngành này sẽ có sự phân hóa đáng kể giữa các nước và khu vực kinh tế, tùy thuộc vào quyết tâm cũng như sự thực tâm của các chính phủ liên đới trong việc biến chuyển nền kinh tế của mình theo hướng xanh hóa. 


Tương lai của Defi (Bài đăng trên KTSG, số 52-2021, ngày 22/12/2021)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-52-2021-von-cho-sme-va-startup/

Tài chính phi tập trung, Defi, là một thuật ngữ chung dùng cho các loại ứng dụng tài chính đa dạng trong lĩnh vực tiền mã hóa hoặc blockchain (chuỗi khối) nhằm loại bỏ các trung gian tài chính (ngân hàng, nhà môi giới, công ty quản lý tài sản...). Có thể nói Defi lấy cảm hứng từ blockchain, công nghệ đằng sau đồng bitcoin số, là thứ cho phép một số tổ chức cùng có được bản sao kê lịch sử các giao dịch. Điều này có nghĩa bản sao kê này không bị kiểm soát bởi một nguồn duy nhất, tập trung.

Các ứng dụng Defi được xây dựng chủ yếu trên nền tảng blockchain Ethereum chung đang phát triển mạnh mẽ bởi chúng là lĩnh vực của các nhà đầu tư tiền mã hóa tìm kiếm lợi suất 3 con số. Nhưng Defi còn có tiềm năng thay đổi hoàn toàn ngành dịch vụ tài chính và trở thành trào lưu chính. Tiềm năng này đã xảy ra. Defi đã tăng trưởng từ một lĩnh vực trị giá 1 tỷ đô la Mỹ năm 2019 lên 100 tỷ đô la hiện nay. Ngoài giới trader tiền mã hóa, các tổ chức tài chính truyền thống hiểu rõ nhu cầu bức thiết phải đón đầu công nghệ Defi này.

Defi đang chuyển đổi ngành tài chính

Defi sẽ làm thay đổi ngành tài chính hầu như cùng cách mà mà trí tuệ nhân tạo và máy học trong ngành FinTech đang làm thay đổi lĩnh vực quản lý tài sản. Defi sẽ phổ cập, phổ thông hóa, với chi phí thấp, các dịch vụ cốt lõi mà các ngân hàng thương mại, công ty dịch vụ tài chính, và thậm chí là FinTech đang cung cấp hiện nay như cho vay, và nó sẽ giúp các thể chế này tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ khác của mình như trải nghiệm khách hàng, trải nghiệm nhà đầu tư một cách hiệu quả hơn thay vì đổ công sức và tiền ra để tìm cách duy trì sức cạnh tranh trong vô vọng với Defi trong những lĩnh vực truyền thống.     

Sử dụng mã nguồn mở, các giao thức Defi có thể được sử dụng để triển khai các sáng kiến, các sản phẩm và dịch vụ chuyên biệt một cách nhanh chóng. Các nhà sáng chế đôi khi có thể sáng tạo ra một sản phẩm mới trong một vài ngày. Tuy vậy, vẫn chưa có nhiều công ty đạt đến mức độ triển khai này, và đây là một lĩnh vực tiềm năng trong tương lai gần.

Như đã biết, Defi được xây dựng trên hạ tầng sổ cái phân tán. Lợi thế của việc xây dựng các ứng dụng trên nền hệ thống phân tán nằm ở chỗ nó cho phép tiếp cận mở và loại bỏ khỏi một số trung gian, làm cho nhiều sản phẩm tài chính hiệu quả hơn với chi phí thấp hơn. Các ứng dụng Defi có thể tự chạy mà không chịu ảnh hưởng của một nguồn điều khiển tập trung. Chúng thường được quản trị một cách dân chủ theo đó người sử dụng kiểm soát được tương lai của ứng dụng hoặc giao thức.

Hầu như mọi dịch vụ hay sản phẩm tài chính tập trung có thể bị thay thế bởi các giao thức phi tập trung và/hoặc các token dựa trên nền tảng blockchain. Ví dụ như trong cho vay tín dụng, giao thức phi tập trung giải phóng cho ngân hàng những công đoạn như quá trình tìm kiếm người vay phù hợp, quy trình kiểm soát rủi ro, trích lập phòng ngừa rủi ro của ngân hàng, cũng như quá trình chuyển giao tài sản giữa hai bên.            

Các giao thức Defi dân chủ hóa sự tiếp cận bởi ai cũng có thể sử dụng được chúng. Các ngân hàng thường chỉ cung cấp dịch vụ cho các cá nhân đáp ứng được một số tiêu chuẩn về tín dụng, số dư tài khoản... Trong khi đó, bản chất nguồn mở của các giao thức Defi mặc nhiên làm cho các dịch vụ này mở rộng cho mọi người tiếp cận, miễn là có đủ công cụ (một điện thoại thông minh, truy cập Internet, và một ví tiền mã hóa).

Tương lai sẽ ra sao?

Nhờ Defi, mọi nguồn giá trị đều có thể được token hóa để giá trị có thể tự do di chuyển khắp các lãnh thổ và ngành. Người trong ngành tài chính truyền thống thường hoài nghi về Defi vì nó chỉ là về token. Nhưng họ không hiểu rằng token có thể được sử dụng để đại diện cho mọi thứ - bất động sản, việc làm, thẻ hội viên...

Sẽ không phải quá lời nhưng trong tương lai hầu như mọi thứ đều có thể định giá và mang ra giao dịch được. Và như thế sẽ có sự ra đời của các cái gọi là “sàn giao dịch giá trị hợp nhất” – một sàn giao dịch mà mọi hình thứ giá trị đều có thể mua bán một cách số hóa với chi phí và trục trặc tương đối thấp trên các hệ thống phi tập trung.

Cũng cần phải nói thêm là hiện nay chúng ta đã có khả biến mọi thứ thành token. Vấn đề chính là thiếu tính thanh khoản (và tức là thị trường) cho các token này. Với sáng chế ra các quỹ thanh khoản để tạo lập thị trường – nền móng của Defi – sàn giao dịch giá trị của các loại tài sản khác nhau sẽ trở nên khả thi.

Ví dụ, chúng ta có tài sản A và có thể trao đổi lấy tài sản B, và tài sản B có thể trao đổi lấy tài sản C. Nhưng nếu chúng ta muốn trao đổi thẳng từ tài sản A sang tài sản C thì trước tiên sẽ phải tìm được người mua/bán tài sản B rồi sau đó lại tìm người mua/bán tài sản C. Quá trình này có thể sẽ tốn kém, mất thời gian và có khả năng không thành công. Trong khi đó, Defi giúp cho quá trình chuyển đổi tài sản thẳng từ A sang C một cách thông suốt và hiệu quả hơn nhiều, miễn là khi đó thị trường đã đủ lớn và có tính thanh khoản cao.        

Khái niệm trên dẫn đến một mô hình mới trong tương lai về giao dịch các giá trị. Lúc đó, chúng ta có thể đi mua sắm tại cửa hàng và trả tiền từ một ví điện tử gồm nhiều loại tài sản khác nhau mà chúng ta có, chẳng hạn như một ít tiền pháp định, một ít bitcoin, một ít NFT,      và thậm chí là một khoản vay nợ mới tại chỗ mà chúng ta phải tạo ra (tức là một khoản vay Defi) để có đủ tiền trả món hàng muốn mua.  

Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam (Bài đăng trên KTSG, 2/1/2022)

https://thesaigontimes.vn/trien-vong-kinh-te-the-gioi-va-viet-nam/

Mức độ và sự kéo dài của cơn sốc lạm phát toàn cầu đã làm ngạc nhiên hầu hết các ngân hàng trung ương cũng như các tổ chức đưa ra dự báo kinh tế. Tình hình kinh tế thế giới năm 2021 có thể tóm lại bằng một vài dòng, cụ thể là nhu cầu tiêu dùng phục hồi bùng nổ đã không được đáp ứng bởi phía cung, vốn đã bị ảnh hưởng mạnh bởi sự đình trệ, đứt gẫy của chuỗi cung ứng.

Nguồn cung bị bóp nghẹt đã làm cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu quý 3 năm nay tăng trưởng chậm hơn mức dự đoán của hầu hết các tổ chức. Những nền kinh tế phát triển bị ảnh hưởng mạnh nhất là Mỹ, Đức, Nhật từ hậu quả của sự gián đoạn chuỗi cung ứng gần đây.

Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 vẫn được nhiều tổ chức dự báo ở mức 5,5%-5,7%, là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1973, là năm chứng kiến tình trạng vừa trì trệ tăng trưởng vừa lạm phát cao.

Sang năm 2022, nhìn chung, dự báo của các tổ chức đưa ra trong khoảng 4,1-4,6%, và nguyên nhân cho sự sụt giảm về tốc độ tăng trưởng so với năm 2021, ngoài sự quay trở về tình trạng bình thường, còn là do sự tụt giảm tăng trưởng mạnh của Trung Quốc. Phản ứng của giới cầm quyền nước này tỏ ra chậm chạp hơn so với kỳ vọng. Mặc dù trong thời gian tới, có thể chính quyền Trung Quốc sẽ lại tung ra các biện pháp nới lỏng để kích thích tăng trưởng, tăng trưởng của nước này được dự báo chỉ ở mức dưới 5% năm 2022.

Lạm phát thế giới trong năm 2022 được kỳ vọng sẽ giảm nhiệt. Sự tăng nóng giá cả hàng hóa từ tháng 3 năm nay được châm ngòi bởi sự bùng nổ nhu cầu tiêu dùng, bắt nguồn từ các gói kích thích kinh tế của Chính phủ các nước đã và đang phát triển, nhất là Mỹ. Sang năm 2022, nhu cầu tiêu dùng sẽ hướng nhiều hơn vào dịch vụ, trong khi đầu tư tăng trưởng mạnh mẽ sẽ mở rộng nguồn cung hàng hóa, còn các gói kích thích kinh tế thì sẽ được thu lại.

Tuy nhiên, điều đáng quan ngại đối với các ngân hàng trung ương là nguy cơ áp lực lạm phát sẽ lan rộng. Dân chúng nhiều nước đã nhận thấy rõ hậu quả của lạm phát lên ví tiền của mình, và hậu quả này càng trở nên nặng nề hơn khi nó được kết hợp với cú sốc về giá năng lượng. Kỳ vọng lạm phát bởi vậy ngày càng gia tăng.

Nền kinh tế Mỹ đã phục hồi mạnh với GDP đã vượt qua mức trước đại dịch và chênh lệch giữa tăng trưởng thực tế và tiền tệ tiềm năng ở Mỹ sẽ trở nên dương trong năm 2022. Tương tự như vậy là tình hình ở một số nước khác ở phương Tây. Do đó, Fed được kỳ vọng sẽ nâng lãi suất lần đầu tiên vào quý 3 năm 2020, trong khi ngân hàng trung ương Anh sẽ có khả năng nâng lãi suất sớm hơn, ngay từ quý 1 năm sau.

Biến chủng Covid mới có khả năng sẽ lại tác động mạnh đến chuỗi cung ứng và làm tăng áp lực giá cả. Điều này đặt ra thách thức lớn với ngân hàng trung ương các nước nếu họ không khẩn trương bình thường hóa chính sách của mình – thắt chặt lại chính sách tiền tệ.   

Phản ứng chính sách của các ngân hàng trung ương sẽ có sự phân hóa lớn. Trong khi Ngân hàng Trung ương châu Âu được kỳ vọng tiếp tục trì hoãn nâng lãi suất đến tận năm 2023 thì Trung Quốc được kỳ vọng sẽ cắt giảm lãi suất năm 2022.

Ngoài ra, đồng đô la Mỹ được dự báo sẽ mạnh lên trong năm 2022 phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ và sự nâng lãi suất của Fed. Đô la Mỹ mạnh lên trong khi kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ tạo thành thách thức cho các nền kinh tế mới nổi khi họ cũng thắt chặt chính sách tiền tệ của mình.

Nhìn về Việt Nam, có một số khác biệt đáng chú ý so với thế giới. Trước tiên là, sau bao nhiêu đề xuất và tranh cãi, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã không nới lỏng chính sách tiền tệ, tung ra các gói kích thích, hỗ trợ kinh tế đáng kể theo % GDP như ở nhiều nước. Đại dịch lan tràn, hoành hành gây chết chóc, phong tỏa ở nhiều địa phương càng làm cho tổng cầu không thể tăng mạnh như ở nhiều nước khác. Điều này lý giải vì sao lạm phát  ở Việt Nam đã không tăng mạnh như quan ngại của nhiều người.

Tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Việt Nam được dự báo sẽ chỉ khoảng trên dưới 3% hoặc thấp hơn nhiều so với mức dự báo của các cơ quan hữu trách ở Việt Nam. Sang năm 2022, sự bình thường hóa nền kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP cao hơn năm 2021 (và có lẽ cũng không thể vượt qua mức trung bình của thế giới), đồng thời cũng làm tăng áp lực lạm phát khi tổng cầu dần hồi phục và tăng trưởng mạnh trở lại sau khi nền kinh tế mở cửa lại (hoàn toàn) với bên ngoài trong khi chuỗi cung ứng trong nước có thể sẽ bị ảnh hưởng từ sự gián đoạn của chuỗi cung ứng thế giới .

Sự mạnh lên của đô la Mỹ và áp lực gia tăng giá cả sẽ buộc Ngân hàng Nhà nước hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài thắt chặt trở lại chính sách tiền tệ của mình. Mức độ thắt chặt trở lại có thể sẽ không quá lớn bởi Ngân hàng Nhà nước không muốn gây ra một sự đổ vỡ trong nền kinh tế nội địa khi sự phục hồi còn chưa vững chắc. Do đó, lãi suất tiền đồng năm 2022 có chiều hướng sẽ tăng lên, tuy ở mức độ nhỏ, hoặc ít nhất thì sẽ khó có chuyện lãi suất sẽ giảm tiếp so với mức hiện nay.

Làm nhà đầu tư không khó... (Bài đăng trên KTSG, 22/12/2021)

https://thesaigontimes.vn/lam-nha-dau-tu-khong-kho/

Mấy năm gần đây, thường thấy một kịch bản, đúng hơn là một tình hình, được lặp đi lặp lại nhiều lần, với nhiều người. Đó là một phi vụ “đầu tư” đang dưng đang lành, tưởng chắc ăn, bỗng đổ bể. Thế là một số bị hại được lên báo với câu chuyện na na đại loại được mời chào đầu tư bởi một ai đó, thấy hứa hẹn  lợi nhuận đầu tư hấp dẫn, thậm chí cũng đi kiểm tra, xác minh người thật việc thật nên cảm thấy an tâm, tin tưởng, quyết định xuống tiền “đầu tư”.

Thời gian đầu (thậm chí kéo dài nhiều tháng), nhà đầu tư luôn được lĩnh lãi, vốn đúng như cam kết nên càng... hăng say đầu tư. Thế rồi vào một ngày đẹp trời, nhà đầu tư bỗng không còn nhận được tiền cam kết, mà liên lạc với chủ đầu tư thì chỉ thấy im hơi bặt tiếng. Thế là lên mạng hỏi nhau, tập hợp lại với nhau thành hội nhà đầu tư bị hại, căng băng rôn tố cáo chủ đầu tư và kêu chính quyền can thiệp, cứu giúp. Lúc đó mới phát hiện ra mình chỉ là một trong số hàng trăm, ngàn người may mắn được chủ đầu tư “ưu ái” dành cho cơ hội đầu tư béo bở. Và lúc đó nhà đầu tư mới bức xúc và đau khổ trần tình với báo chí rằng tiền đầu tư là tiền dành dụm sinh con, chữa bệnh, giấu vợ con thế chấp nhà cửa lấy vốn đầu tư, chỉ vì tin tưởng ai đó nên nay mất trắng..., tóm lại là rất hoàn cảnh.

Cái sai chung trong những câu chuyện trên là “thả gà ra đuổi”. Như việc bán nhà, mấy bạn môi giới chèo kéo ký hợp đồng môi giới trong đó có điều khoản người bán phải trả ngay cho môi giới 50% tiền đặt cọc hoặc 50% phí môi giới, tùy theo cái nào lớn hơn. Chủ nhà mới bảo các bạn này là chi tiền ra thì rất dễ nhưng lấy lại mới khó. Nhà thì là của chủ nhà nhưng toàn bộ rủi ro liên quan đến đặt cọc lại là do chủ nhà chịu, trong khi môi giới chẳng chịu rủi ro gì mà nghiễm nhiên được hưởng quyền lợi ngang bằng với chủ nhà (hưởng 50% tiền cọc). Trả cho các bạn rồi, đến lúc người mua lật kèo, ăn vạ lấy lại tiền cọc thì người bán đòi sao được 50% tiền đã trả kia? Bảo với các bạn là muốn lấy trước 50% tiền cọc thì các bạn phải ký vào hợp đồng đặt cọc cùng ký với người mua rằng đã nhận 50% tiền cọc từ người bán và sau này có vấn đề gì xảy ra không phải do lỗi người bán thì người mua phải đòi 50% tiền cọc từ môi giới nhưng các bạn lại giãy nảy lên nói rằng quy định nó phải thế...(?)

Vì vậy, một nguyên tắc sống còn trong việc bỏ tiền ra để đầu tư, cho vay ai đó, tổ chức nào đó là phải nắm được cái gì đó làm thế chấp để phòng ngừa rủi ro, hạn chế thiệt hại khi mọi việc đổ bể. Thế chấp này có thể là tài sản, có thể là tín chấp. Công việc quản lý rủi ro, phê duyệt tín dụng của người viết được tiến hành với đủ loại khách hàng, tổ chức và cá nhân nhưng trước tiên khách hàng đó phải trải qua quá trình xét duyệt nhân thân bởi một bộ phận khác để biết chắc chắn ai là người có trách nhiệm ở phía khách hàng, người đó có trong sạch về tư pháp hay không, địa chỉ liên lạc như thế nào... Sau đó là ký kết hợp đồng tín dụng với đủ loại điều kiện, điều khoản chặt chẽ đến từng câu chữ. Và rồi tùy theo thang điểm đánh giá rủi ro tín dụng, khả năng tài chính, người muốn vay tiền sẽ được xét duyệt một hạn mức tín dụng, có thể là không cần thế chấp hoặc phải thế chấp một phần, toàn bộ hoặc thậm chí là cao hơn giá trị khoản vay nếu tài sản thế chấp kém thanh khoản hoặc giá biến động mạnh... Còn có quy định là người vay có tài sản thế chấp sẽ bị “margin call” nếu giá trị tài sản này sụt giảm xuống dưới ngưỡng quy định, để luôn đảm bảo người cho vay nắm đằng chuôi. 

Đương nhiên là quá trình và công đoạn xét duyệt trên chỉ thích hợp với người cho vay/nhà đầu tư tổ chức nhưng ít nhất thì nhà đầu tư cá nhân cũng có thể tham khảo được mấy nguyên tắc sống còn tối thiểu là biết rõ người vay là ai, địa chỉ ở đâu, vay để làm gì, uy tín ra sao, có được kiểm chứng hay không (tuyệt đối không phải là do một nhân vật có tiếng tăm nào đó “bao” uy tín), khi đổ bể thì bên vay có chắc chắn phải bồi thường, chịu trách nhiệm hay không, với điều kiện nào, trong hoàn cảnh nào, tài sản nào được bên vay/chủ đầu tư mang ra thế chấp, bảo lãnh và sẽ được thanh lý như thế nào và bởi ai...      

Nếu những nguyên tắc tối thiểu trên không được tuân thủ thì chắc chắn nhà đầu tư đã lâm vào tình cảnh thả gà ra đuổi, chỉ còn trông vào hên xui, hy vọng rằng người vay/chủ đầu tư không phải là kẻ lừa đảo.

Thực ra thì không phải dự án kêu gọi đầu tư nào cũng là lừa đảo hoặc đổ bể. Rất có thể người vay/chủ đầu tư ban đầu có ý định làm ăn nghiêm túc, nhưng rồi dự án không diễn biến đúng như dự tính nên buộc phải chấm dứt, hoặc tìm cách... lừa đảo để nuôi dự án. Lúc đó, từng câu, từng chữ trong hợp đồng vay vốn/đầu tư là sẽ là cái phao hay không để bảo vệ (một phần) quyền lợi của người cho vay/nhà đầu tư.

Giả sử như trong hợp đồng đầu tư, tuy chủ đầu tư cam kết lợi nhuận, nhưng lại thòng thêm một số điều kiện nào đó để biến nó thành một hợp đồng theo kiểu hợp tác đầu tư lời ăn lỗ chịu thì người cho vay/nhà đầu tư lúc này chỉ còn nước... rán chịu!

Còn nếu thấy những nguyên tắc này xem ra viển vông, khó áp dụng nhưng vẫn cứ mong làm giàu nhanh thì có lẽ nên chơi xổ số thì hơn là trở thành “nhà đầu tư”.

Thúc đẩy kinh tế số: Trông… Singapore (Bài đăng trên KTSG, 12/12/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/thuc-day-kinh-te-so-trong-singapore/

Tháng 11/2014, Singapore khởi động chương trình Quốc gia Thông minh (Smart Nation) nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trên toàn quốc. Mục tiêu của Singapore thông qua chương trình này là biến họ thành động lực chính dẫn dắt làn sóng số hóa ở Đông Nam Á.

Trong số nhiều cấu phần của chương trình, có cấu phần quan trọng là số hóa doanh nghiệp. Ngoài việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng số, Chính phủ Singapore còn khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào số hóa. Về phần doanh nghiệp, họ cũng được thấy rõ lợi ích chuyển đổi số nên đã điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình để chuẩn bị tốt cho tham vọng này của Chính phủ.

Ở Việt Nam, các cơ quan chức năng đang trong giai đoạn xác định và đề xuất một Kế hoạch chuyển đổi số năm 2022 với khoảng 45 nhiệm vụ quan trọng, kèm theo đó là 50 tiêu chí định lượng.

Đến đây, đã thấy một số khác biệt lớn giữa Singapore và Việt Nam. “Trông người” thì rõ rằng họ đã có một tầm nhìn trước ta đến cả ngót thập kỷ trong cùng một câu chuyện chuyển đổi số quốc gia. “Ngẫm đến ta” thì phải thẳng thắn mà rằng chúng ta đã quá chậm chễ. Cho đến thời điểm này mà chúng ta mới chỉ dừng lại ở giai đoạn “đề xuất kế hoạch”. Càng đáng buồn hơn là nếu không có người tiên phong đi đầu tạo ra cuộc đua chuyển đổi số trong khu vực là Singapore thì có lẽ việc “đề xuất kế hoạch” này sẽ chỉ được nghe đến ở Việt Nam... vài năm sau!

Nhưng sự chậm chễ, đi sau quá xa này chưa phải là điều đáng nói nhất, bởi dẫu sao vẫn có một lý do hết sức khách quan luôn có thể vin vào để biện minh rằng Singapore là nước nhỏ, giàu có thì họ làm gì mà chẳng được, chẳng nhanh!

Điều đáng nói ở đây là tư duy làm chính sách, chiến lược. Đọc các chương trình và chiến lược của Singapore nói riêng trong chuyển đổi số và nói chung cho các lĩnh vực, vấn đề khác thì rất ít thấy những con số mục tiêu định lượng cụ thể cho một thời gian cụ thể. So với Việt Nam thì Singapore thua xa về mặt này. Chẳng hạn, Kế hoạch chuyển đổi số năm 2022 của Việt Nam như nói ở trên có phải nói là rất nhiều nhiệm vụ và tiêu chí cụ thể thậm chí chi li đến hàng thập phân, ví dụ như tỷ trọng kinh tế số trong GDP năm 2022 (11,5%).

Không lẽ người Singapore làm toán, làm kế hoạch không giỏi như người Việt nên họ mới không thể làm ra những mục tiêu, nhiệm vụ, con số và chỉ tiêu rạch ròi cỡ như vậy? Hay tại họ không có ý chí và quyết tâm chính trị để luôn có thể “huy động toàn bộ hệ thống chính trị” cho một nhiệm vụ chiến lược nào đó như ở Việt Nam nên không thể xây dựng và thực hiện những con số kế hoạch mà người Việt vốn đã quá quen thuộc trong suốt mấy chục năm thời kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa trước đây?

Không rõ vì lý do gì, nhưng chỉ biết rằng đến năm 2019, tức mãi đến 5 năm sau khi khởi động chương trình chuyển đổi số quốc gia mà chỉ có 40% doanh nghiệp Singapore cho biết rằng họ đã đầu tư vào số hóa (1). Trong khi đó, Việt Nam xem ra sẽ thành công hơn Singapore nhiều, theo kế hoạch trên giấy, khi có đến 30% doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng nền tảng số trong năm 2022, tức chỉ sau một năm kể từ khi Kế hoạch chuyển đổi số năm 2022 được... đề xuất!   

Nhưng trên khía cạnh thực hiện, người Singapore rất biết cách biến chương trình, chiến lược của mình thành hiện thực bằng những giải pháp cụ thể rất thực tiễn, thực dụng. Chẳng hạn, cũng là giải pháp thúc đẩy số hóa dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chính phủ Singapore đã thiết kế và tung ra một số chương trình cụ thể, mỗi chương trình nhắm đến một đối tượng và phạm vi cụ thể (2).

Chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số đầu tiên là “SMEs Go Digital” (tạm dịch: Doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số). Mục đích của chương trình này là làm cho việc chuyển đổi số trở nên đơn giản cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đã có hơn 75 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng các giải pháp số từ chương trình này.

Tiếp theo là Kế hoạch Số hóa các ngành (Industry Digital Plans), hướng dẫn từng bước một cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một số ngành nghề cụ thể về các giải pháp số hóa và đào tạo nhân viên của mình trên từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp.     

Kế đến là giải pháp hỗ trợ tài chính của Chính phủ. Các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số theo các giải pháp được thiết kế và cung ứng bởi các nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng, đáng tin cậy và cạnh tranh về chi phí thì sẽ được Chính phủ tài trợ tới 80% chi phí thực hiện các giải pháp này.

Bên trên mới chỉ là ba giải pháp đầu tiên trong số chín các giải pháp cụ thể mà Chính phủ Singapore thực hiện để trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp còn lại rất đa dạng, xử lý các vấn đề cụ thể khác, bao gồm giải pháp cho doanh nghiệp mới thành lập và chưa thực hiện chuyển đổi số thì sẽ chuyển đổi số thông qua những nền tảng cơ bản nhất như viễn thông và ngân hàng; giải pháp thành lập các nền tảng/sàn giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, và doanh nghiệp với người tiêu dùng để bán hàng ra nước ngoài mà không cần phải hiện diện ở đó; và dịch vụ tư vấn chuyên môn chuyển đổi số miễn phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu được tư vấn...

So với Singapore trên khía cạnh thực hiện, chương trình hành động và giải pháp của Việt Nam đang khá là mông lung. Thậm chí, nếu căn cứ vào nội dung của các cuộc hội thảo với hội nghị cho đến tận thời điểm gần đây thì có cảm tưởng như bản thân các khái niệm số hóa, chuyển đổi số là gì và các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số ra sao ở Việt Nam... vẫn còn đang ở giai đoạn tranh luận, làm rõ!

Nếu có giải pháp tương đối cụ thể nào đó về chuyển đổi số như của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 26 lĩnh vực thì, không mấy ngạc nhiên, té ra lại là giải pháp “học” của Singapore (3).  

Vậy nên, kết luận rút ra là để “đi tắt đón đầu” theo cái nghĩa đen là để rút ngắn khoảng cách tiếp tục tụt hậu so với Singapore trong cuộc đua chuyển đổi số, có lẽ Việt Nam nên có chiến lược thực dụng hơn, là học hỏi và áp dụng chiến lược của họ, thay vì mất thời gian và công sức vào xây dựng những chương trình và chiến lược được trang điểm bằng những con số hoành tráng mà có rất ít cơ sở hậu thuẫn, trong khi lại thiếu vắng những giải pháp cụ thể khả thi để biến chúng thành hiện thực.                                                                                                                                      

-------

(1) https://www.statista.com/topics/7166/digitalization-of-business-in-singapore/#dossierKeyfigures

(2) https://www.imda.gov.sg/-/media/Imda/Files/Programme/SMEs-Go-Digital/Factsheet_16September2021a.pdf                        

(3) https://vneconomy.vn/sap-co-khung-huong-dan-chuyen-doi-so-cho-doanh-nghiep-smes-va-san-xuat.htm

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).