Tuesday 19 July 2022

Duy trì room tín dụng: Nên hay không? (Bài đăng trên KTSG, 18/7/2022)

https://thesaigontimes.vn/duy-tri-room-tin-dung-nen-hay-khong/ 

Trong số tuần trước, KTSG có đăng bài “Vì sao Việt Nam vẫn cần ‘room’ tín dụng?” (“bài viết”). Bài viết dường như cổ xúy việc duy trì room tín dụng, và kết luận rằng nhờ room tín dụng nên đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát được quản lý tốt, tỷ giá biến động trong biên độ hẹp), giúp gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Người viết nhận thấy một số lập luận trong bài viết chưa chặt chẽ nên kết luận như trên là chưa thỏa đáng. Theo người viết, ngược lại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần nhanh chóng bỏ room tín dụng, tức là bỏ việc đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm.    

Vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam “rất khác” nhưng là khác thế nào?

Bài viết cho rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bơm vốn cho nền kinh tế. Chắc vì thế bài viết mới đưa ra nhận định rằng vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam “rất khác”.

Các dữ liệu và lập luận đưa ra trong bài viết nêu ra ba ý minh họa cho cái sự “rất khác” này: (i) tăng trưởng tín dụng của Việt Nam đứng hàng đầu ở châu Á; (ii) nhu cầu vốn dài hạn của nền kinh tế đang phụ thuộc (nhiều) vào nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng; và (iii) hiệu quả của tín dụng trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế đã được cải thiện nhờ áp dụng room tín dụng.

Đáng tiếc là cả ba ý trên đều không nêu bật được sự “rất khác” của vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong nền kinh tế. Để chứng minh được sự rất khác này, bài viết lẽ ra cần có thêm những so sánh tương ứng với quốc tế và khu vực.

Tuy ý (i) trên có sự so sánh với khu vực, nhưng từ sự so sánh đó thì không thể dẫn đến kết luận gì về sự khác biệt trong vai trò của hệ thống ngân hàng với nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng cao chỉ là kết quả của chủ ý “bơm” mạnh tiền (nới lỏng (quá mức) chính sách tiền tệ) của NHNN trong tham vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (ý này sẽ được nói thêm ở phần dưới). Bài viết lẽ ra cần chứng minh rằng, ví dụ, ở nhiều nước khác, với cùng mức bơm tiền (tăng cung tiền từ ngân hàng trung ương) nhưng tăng trưởng tín dụng đã không tăng mạnh như ở Việt Nam, để từ đó mới làm toát lên cái sự “rất khác” ở Việt Nam.    

Ở ý (ii), tương tự, bài viết cũng cần có những so sánh với các nước khác để cho thấy (hầu như) chỉ có mỗi Việt Nam là xảy ra tình trạng nguồn vốn ngắn hạn ngân hàng phải gánh vác nhu cầu vốn dài hạn của nền kinh tế. Nếu không làm được như vậy thì buộc phải kết luận rằng tình trạng này là rất... bình thường!

Ý (iii) là rất khiên cưỡng khi cho rằng nhờ có room tín dụng mà hiệu quả sử dụng vốn đã được cải thiện. Lý do đơn giản của sự cải thiện này là tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh. Nhưng tăng trưởng tín dụng giảm hay tăng đều là chủ ý, đều bắt nguồn từ việc chính sách tiền tệ của NHNN được thắt chặt hay nới lỏng thêm.

Room tín dụng nếu có vai trò ở đây thì chỉ là một sự biểu hiện ra thành câu chữ, văn bản của đường hướng chính sách tiền tệ của NHNN trong mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, room tín dụng năm nay nếu được đặt ở mức là 15% so với mức 25% của năm trước thì cần phải hiểu rằng NHNN muốn vặn bớt lại vòi bơm tiền trong năm nay so với năm trước, và chỉ thế thôi.

Trên hết, cần lưu ý rằng tiền để cho vay (tín dụng) trong hệ thống ngân hàng không phải là do các ngân hàng thương mại tự in/bơm ra, mà đều bắt nguồn từ cái van tổng là NHNN. Nên nếu NHNN giảm cung tiền thì không có cách gì mà tăng trưởng tín dụng (của cả hệ thống) lại có thể “bứt phá” được.

NHNN cũng quản lý cung tiền thông qua... lãi suất!

Tiếp theo các lập luận chưa hợp lý nói trên, bài viết đề cập đến một vấn đề còn chưa hợp lý hơn nữa. Một mặt, trong khi chỉ ra rằng Fed (ngân hàng trung ương Mỹ) quản lý cung tiền thông qua lãi suất, bài viết lại cho rằng việc quản lý cung tiền ở Việt Nam chủ yếu thông qua kênh ngân hàng thương mại.

Nhầm lẫn trên có lẽ bắt nguồn từ nhận thức sai lầm, như nói ở phần trên, rằng tín dụng của ngân hàng thương mại là độc lập với cung tiền của NHNN nên nếu muốn siết/quản lý cung tiền thì chỉ cần siết/quản lý tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại là xong.  

Một khi đã nói đến cung tiền – money supply thì phải hiểu rằng đây là cung tiền của/từ NHNN chứ không phải là của/từ một ngân hàng hay cả hệ thống ngân hàng thương mại. Do đó, quản lý cung tiền luôn là việc của NHNN và được thực hiện tại NHNN, thông qua các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất trên thị trường mở. Tóm lại là về bản chất cũng không có sự khác biệt gì so với Mỹ.  

Cần sớm bỏ room tín dụng

Từ những bất hợp lý được chỉ ra ở trên, có thể nói bài viết đã không nêu ra được một căn cứ chắc chắn nào hậu thuẫn cho việc ủng hộ duy trì room tín dụng cho cả hệ thống ngân hàng nói chung và từng ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, người viết cũng không muốn kết luận một cách dễ dãi từ đây, tuy khá... logic, rằng cần phải làm ngược lại, tức bỏ room tín dụng.

Thực tế, người viết đã có một số bài viết trên KTSG về cùng đề tài, mà gần đây nhất là bài “Hạn mức tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng!” (1). Một số lập luận trong bài này, cũng đã được nêu trên, là: (i) NHNN hoàn toàn đúng đắn khi cẩn trọng với rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng để quản lý tăng trưởng tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền. Muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ, chứ không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng; và (ii) Dù người viết và các tổ chức nước ngoài như IMF và Moody’s đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Sự kiên định này cho thấy dường như NHNN đang sử dụng hạn mức này với các ý đồ khác, chẳng hạn sử dụng nó như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo vệ công cụ hạn mức này nhưng tiếc là lại bằng những lý do chưa xác đáng,

Nói cách khác, room tín dụng cần sớm được loại bỏ nhưng, về phía NHNN, họ sẽ không bỏ nó chừng nào chưa tìm ra được công cụ “cây gậy hay củ cà rốt” khác để thay thế.   

-----

(1) https://thesaigontimes.vn/han-muc-tang-truong-tin-dung-nhung-ly-do-chua-xac-dang/

Monday 18 July 2022

Tại sao lãi suất lại tăng? (Bài đăng trên KTSG, 17/7/2022)

https://thesaigontimes.vn/tai-sao-lai-suat-lai-tang/

Lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại trong nửa đầu năm nay có xu hướng tăng với mức tăng khoảng 0,5 đến 1 điểm % tính đến tháng 6 so với cuối năm trước.

Một số ý kiến cho rằng nguyên nhân của xu hướng tăng này là do thanh khoản trong hệ thống ngân hàng không còn dồi dào như năm 2021. Cụ thể, nhu cầu tín dụng nửa đầu năm nay đã tăng mạnh, ở mức 8,5% so với cuối năm 2021 (mức tương ứng của năm 2021 là 6,8%), trong khi huy động vốn chỉ tăng gần 4% so với cùng kỳ (1).

Nguyên nhân trên là hoàn toàn không sai. Có điều, nó vẫn chưa trả lời được đâu là nguồn gốc của lãi suất tăng, vì nguyên nhân tại sao vốn huy động tăng chậm vẫn chưa được trả lời.

Tại sao huy động vốn tăng chậm?

Vốn huy động là một hàm số với nhiều biến số chi phối, trong đó có lãi suất huy động và mức độ sẵn có của vốn có thể huy động trong nền kinh tế. Với các điều kiện khác không thay đổi, gồm lãi suất huy động không thay đổi, số vốn huy động được sẽ tăng/giảm nếu mức độ sẵn có của vốn có thể huy động trong nền kinh tế cũng tăng/giảm tương ứng.

Câu hỏi tiếp đến là, điều gì quyết định số vốn có thể huy động trong nền kinh tế? Đó chính là cung tiền của ngân hàng trung ương. Cung tiền nhiều hay ít, tăng lên hay giảm đi thường được thể hiện qua số liệu M2, mà ở Việt Nam được gọi là tổng phương tiện thanh toán.

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy, như ở biểu dưới, tăng trưởng của M2 so với cùng kỳ năm trước đã  giảm tốc rõ rệt kể từ nửa năm sau của 2021 kéo dài sang bốn tháng đầu năm 2022. Cụ thể, bốn tháng đầu năm nay, tăng trưởng M2 trung bình là 11,95%. Nửa năm sau của năm 2021, tốc độ này cao hơn một chút, ở mức 12,2%, so với mức cao hơn thế nhiều là 14,52% ghi nhận trong nửa năm đầu 2021.

Do tháng 4 là tháng mới nhất có số liệu về M2 nên chưa thể khẳng định những tháng sau đó xu hướng giảm tốc của M2 quan sát trước đó có tiếp tục hay không. Tuy nhiên, dựa vào diễn biến mới gần đây của NHNN tăng cường hút tiền qua kênh phát hành tín phiếu và bán USD giao ngay, có thể kết luận tương đối chắc chắn rằng xu hướng giảm tốc M2 đã và đang tiếp diễn trong các tháng qua cho đến nay.

Chính cung tiền, M2, tăng trưởng chậm lại đã làm lượng tiền có thể huy động trong nền kinh tế để cho vay không còn dồi dào như trước trong bối cảnh nhu cầu vay từ nền kinh tế đã tăng mạnh như nói ở trên. Tại mức lãi suất huy động không đổi, do cung tiền giảm tốc nên tốc độ tăng vốn huy động được sẽ phải giảm tương ứng. Để phá vỡ sự trì trệ này, tăng cường huy động vốn, ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động và rốt cuộc là lãi suất cho vay.        

“Room” tín dụng có sớm được nới?

Khi đã rõ gốc rễ của xu hướng tăng lãi suất hiện nay thì có thể hiểu đúng điều gì có liên quan đang và sẽ xảy ra tiếp. Nhiều người cho rằng room (trần hạn mức tăng trưởng) tín dụng sẽ sớm được NHNN nâng lên cho nhiều ngân hàng thương mại vốn có tốc độ tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đã tiệm cận mức trần này để đáp ứng nhu cầu tín dụng đang tăng mạnh, đặc biệt từ gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Tuy nhiên, trong xu thế siết lại chính sách tiền tệ, giảm tốc độ cung tiền như nói ở trên trong một nỗ lực giảm áp lực lạm phát và mất giá tiền đồng, thật khó để thấy NHNN sẽ nới hạn mức tăng trưởng tín dụng chung cho hệ thống ngân hàng trong nửa cuối năm nay, bởi điều này đồng nghĩa với việc đảo ngược những gì mà NHNN đang làm!      

Với từng ngân hàng riêng lẻ, room tín dụng có thể được tinh chỉnh lên xuống ở một chừng mực nào đó nhưng tính trung bình vẫn phải đảm bảo ra được một con số cho toàn hệ thống ngân hàng không được vượt quá quỹ đạo của việc siết lại cung tiền đang diễn ra, tức là một tốc độ tăng trưởng M2 khiêm tốn hơn trong phần còn lại của năm nay.

Nhưng sẽ là khó chấp nhận với những ngân hàng vẫn còn room tín dụng (được cấp từ đầu năm) nhưng lại bị NHNN cắt đi để dành chỗ cho các ngân hàng khác đã dùng hết hoặc sắp hết room này. Thế nên tình huống “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra” này sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới, chừng nào xu hướng giảm tốc M2 trong các tháng qua vẫn tiếp tục.

Trên thực tế, sẽ có nhiều trường hợp một số ngân hàng không dùng hết room tín dụng trong thời gian còn lại của năm, đồng thời sẽ có một số khác “vô tình” vi phạm, tức cho vay quá mức được phép, như vẫn từng xảy ra. Kết quả là room tín dụng chung của hệ thống không nhất thiết bị phá vỡ (ở mức độ lớn).

Điều may mắn cho tất cả các bên là NHNN không công khai các tính toán cụ thể về room tín dụng cho từng ngân hàng cũng như tình hình thực hiện room tín dụng của từng ngân hàng nên các sự vi phạm nếu có thì cũng chỉ người trong cuộc biết mà thôi.

------

(1) https://nld.com.vn/kinh-te/vi-sao-lai-suat-tien-gui-day-song-20220710145810348.htm

Saturday 2 July 2022

Lãi suất điều hành chưa tăng nhưng chính sách tiền tệ đã bắt đầu thắt chặt! (Bài đăng trên KTSG, 30/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/lai-suat-dieu-hanh-chua-tang-nhung-chinh-sach-tien-te-da-bat-dau-that-chat/

Trong làn sóng tăng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới, đường hướng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong thời gian tới ra sao là một vấn đề còn đang gây thắc mắc. Hiện tại, NHNN vẫn khẳng định “tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành” (1).

Chính sách tiền tệ đã bắt đầu thắt chặt

Phát ngôn trên của NHNN có thể được thị trường “phiên dịch” ra thành chính sách tiền tệ sẽ không bị thắt chặt, bởi nếu hiểu theo lẽ thông thường thì thắt chặt tiền tệ phải đi đôi với, là kết quả của việc nâng lãi suất điều hành.

Tuy nhiên, thực tế thì NHNN đã bước đầu thắt chặt chính sách tiền tệ của mình (giảm cung tiền), được thể hiện rõ qua việc liên tục tung tín phiếu ra để hút tiền từ hệ thống ngân hàng về, với quy mô được ước tính khoảng 70.000 tỉ đồng. Nói cách khác, cung tiền thực sự đã giảm đi 70.000 tỉ đồng, nếu các điều kiện khác không thay đổi. Ví dụ, NHNN không đồng thời cho vay tái cấp vốn, cho vay chiết khấu giấy tờ có giá cho các ngân hàng thương mại từ khoản 70.000 tỉ đồng này (nhưng hiện tại chưa thấy có báo cáo nào đề cập đến các hoạt động này).

NHNN cũng được báo cáo đã bán ra trong tháng 5 khoảng 7 tỉ đô la Mỹ qua phương thức kỳ hạn 3 tháng không hủy ngang (tổng cộng qua các đợt lên đến hơn 10 t đô la)(2). Dựa vào hoạt động này, một số báo cáo cũng cho rằng NHNN đã hút tiền đồng về. Tuy nhiên, kết luận này là quá sớm bởi vẫn có khả năng khi đến thời điểm thanh toán, NHNN sẽ tung ngược trở lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đồng thu từ bán đô la kỳ hạn 3 tháng này ra nền kinh tế, thông qua mua tín phiếu và/hoặc cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu.

Do vậy, điều chỉ có thể khẳng định tại thời điểm này là NHNN đã thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua hút tiền đồng từ kênh tín phiếu như nói trên.    

Thắt chặt chính sách tiền tệ nhưng lại giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, hiểu thế nào cho đúng?

Quay lại với phát biểu của NHNN nêu ở phần đầu. Ở đây có chút hơi hướng của sự “nói vậy mà không phải vậy”.

Các mức lãi suất điều hành được đề cập đến thường chỉ là lãi suất cho vay của NHNN. Để giảm cung tiền, tức hạn chế cho vay ra nền kinh tế mà không phải tăng các lãi suất điều hành thì NHNN chỉ còn cách... ngừng cho vay ngân hàng thương mại. Đơn giản bởi một khi tiếp tục cho vay ngân hàng thương mại thì NHNN phải tiếp tục áp dụng các mức lãi suất điều hành hiện thời, vốn ở mức thấp nhằm khuyến khích tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn nới lỏng chính sách tiền tệ thời đại dịch trước đây.

Tuy nhiên, với tư cách là người cho vay cuối cùng, NHNN phải luôn sẵn sàng cho vay ngân hàng thương mại trong mọi thời điểm để tránh thiếu hụt, khủng hoảng thanh khoản. Như thế có nghĩa là NHNN không thể đóng băng việc cho vay ngân hàng thương mại trong bất cứ thời điểm nào.

Mặt khác, lãi suất điều hành, và tức là lãi suất cho vay của NHNN, trên danh nghĩa có thể chưa/không tăng nhưng thực tế NHNN đã tăng lãi suất đi vay của mình. Điều này được thể hiện qua việc NHNN phải nâng lãi suất đấu thầu tín phiếu kỳ hạn 7 ngày từ 0,3% lên 0,7% trong các phiên đấu thầu tuần trước (3).

Kết cục, NHNN đang phải đối mặt với tình huống vẫn phải sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp trong khi lại đi “huy động” với lãi suất cao nhằm giảm cung tiền. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết thông qua hoặc chính thức công bố nâng các mức lãi suất điều hành như việc phải làm của nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới, hoặc ngấm ngầm áp dụng các mức lãi suất cho vay cao hơn với từng ngân hàng thương mại để... không phải công bố các mức lãi suất điều hành mới.  

Đương nhiên, sự ngấm ngầm nói trên, nếu có, là điều không có lợi xét trên nhiều khía cạnh nên tốt nhất là không nên được áp dụng. Do đó, có thể nói, một khi NHNN đã bắt đầu siết lại chính sách tiền tệ (hút tiền đồng về) thì việc công bố nâng các mức lãi suất điều hành chỉ còn là vấn đề thời gian.

Trên thị trường, dường như chính vì phát biểu tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành của NHNN mà nhiều báo cáo phân tích đã đưa ra dự đoán NHNN chắc sẽ chỉ nâng lãi suất điều hành vào quí 4 năm nay.

Như đã phân tích, thật khó mà tưởng tượng NHNN sẽ đóng băng việc cho vay các ngân hàng thương mại tại các mức lãi suất điều hành hiện thời trong cả mấy tháng, thậm chí đến gần nửa năm nữa. Việc nếu có ngấm ngầm áp dụng lãi suất cao hơn đối với từng ngân hàng thương mại cũng chỉ mang tính câu giờ.

Do vậy, nếu NHNN tiếp tục xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ như được khởi động từ trung tuần tháng 6 này với các đợt phát hành tín phiếu thì NHNN sẽ phải sớm công bố nâng các mức lãi suất điều hành.   

Trường hợp không diễn ra như vậy thì... phải xem lại lập trường chính sách tiền tệ của NHNN. Rất có thể nó đã bị đảo chiều khi đó!

------

(1) https://cafef.vn/tai-chinh-da-chieu-sap-tang-lai-suat-2022062508485259.chn

(2)https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-da-ban-ra-hon-10-ty-usd-tu-du-tru-ngoai-hoi-20220625103217051.chn

(3)https://cafef.vn/vua-khoi-dong-lai-kenh-hut-tien-nhnn-da-rut-gan-50000-ty-ra-khoi-he-thong-20220624101259464.chn

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).