https://thesaigontimes.vn/duy-tri-room-tin-dung-nen-hay-khong/
Trong số tuần trước,
KTSG có đăng bài “Vì sao Việt Nam vẫn cần ‘room’ tín dụng?” (“bài viết”). Bài
viết dường như cổ xúy việc duy trì room tín dụng, và kết luận rằng nhờ room tín
dụng nên đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát được quản lý tốt,
tỷ giá biến động trong biên độ hẹp), giúp gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Người viết nhận
thấy một số lập luận trong bài viết chưa chặt chẽ nên kết luận như trên là chưa
thỏa đáng. Theo người viết, ngược lại, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần nhanh
chóng bỏ room tín dụng, tức là bỏ việc đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng
năm.
Vai trò của hệ
thống ngân hàng Việt Nam “rất khác” nhưng là khác thế nào?
Bài viết cho rằng
hệ thống ngân hàng Việt Nam đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bơm
vốn cho nền kinh tế. Chắc vì thế bài viết mới đưa ra nhận định rằng vai trò của
hệ thống ngân hàng Việt Nam “rất khác”.
Các dữ liệu và lập
luận đưa ra trong bài viết nêu ra ba ý minh họa cho cái sự “rất khác” này: (i)
tăng trưởng tín dụng của Việt Nam đứng hàng đầu ở châu Á; (ii) nhu cầu vốn dài
hạn của nền kinh tế đang phụ thuộc (nhiều) vào nguồn vốn ngắn hạn của ngân
hàng; và (iii) hiệu quả của tín dụng trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế đã
được cải thiện nhờ áp dụng room tín dụng.
Đáng tiếc là cả
ba ý trên đều không nêu bật được sự “rất khác” của vai trò của hệ thống ngân
hàng Việt Nam trong nền kinh tế. Để chứng minh được sự rất khác này, bài viết lẽ
ra cần có thêm những so sánh tương ứng với quốc tế và khu vực.
Tuy ý (i) trên có
sự so sánh với khu vực, nhưng từ sự so sánh đó thì không thể dẫn đến kết luận
gì về sự khác biệt trong vai trò của hệ thống ngân hàng với nền kinh tế. Tăng
trưởng tín dụng cao chỉ là kết quả của chủ ý “bơm” mạnh tiền (nới lỏng (quá mức)
chính sách tiền tệ) của NHNN trong tham vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (ý
này sẽ được nói thêm ở phần dưới). Bài viết lẽ ra cần chứng minh rằng, ví dụ, ở
nhiều nước khác, với cùng mức bơm tiền (tăng cung tiền từ ngân hàng trung ương)
nhưng tăng trưởng tín dụng đã không tăng mạnh như ở Việt Nam, để từ đó mới làm
toát lên cái sự “rất khác” ở Việt Nam.
Ở ý (ii), tương tự,
bài viết cũng cần có những so sánh với các nước khác để cho thấy (hầu như) chỉ
có mỗi Việt Nam là xảy ra tình trạng nguồn vốn ngắn hạn ngân hàng phải gánh vác
nhu cầu vốn dài hạn của nền kinh tế. Nếu không làm được như vậy thì buộc phải kết
luận rằng tình trạng này là rất... bình thường!
Ý (iii) là rất
khiên cưỡng khi cho rằng nhờ có room tín dụng mà hiệu quả sử dụng vốn đã được cải
thiện. Lý do đơn giản của sự cải thiện này là tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh.
Nhưng tăng trưởng tín dụng giảm hay tăng đều là chủ ý, đều bắt nguồn từ việc
chính sách tiền tệ của NHNN được thắt chặt hay nới lỏng thêm.
Room tín dụng nếu
có vai trò ở đây thì chỉ là một sự biểu hiện ra thành câu chữ, văn bản của đường
hướng chính sách tiền tệ của NHNN trong mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, room tín dụng
năm nay nếu được đặt ở mức là 15% so với mức 25% của năm trước thì cần phải hiểu
rằng NHNN muốn vặn bớt lại vòi bơm tiền trong năm nay so với năm trước, và chỉ
thế thôi.
Trên hết, cần lưu
ý rằng tiền để cho vay (tín dụng) trong hệ thống ngân hàng không phải là do các
ngân hàng thương mại tự in/bơm ra, mà đều bắt nguồn từ cái van tổng là NHNN. Nên
nếu NHNN giảm cung tiền thì không có cách gì mà tăng trưởng tín dụng (của cả hệ
thống) lại có thể “bứt phá” được.
NHNN cũng quản
lý cung tiền thông qua... lãi suất!
Tiếp theo các lập
luận chưa hợp lý nói trên, bài viết đề cập đến một vấn đề còn chưa hợp lý hơn nữa.
Một mặt, trong khi chỉ ra rằng Fed (ngân hàng trung ương Mỹ) quản lý cung tiền
thông qua lãi suất, bài viết lại cho rằng việc quản lý cung tiền ở Việt Nam chủ
yếu thông qua kênh ngân hàng thương mại.
Nhầm lẫn trên có
lẽ bắt nguồn từ nhận thức sai lầm, như nói ở phần trên, rằng tín dụng của ngân
hàng thương mại là độc lập với cung tiền của NHNN nên nếu muốn siết/quản lý
cung tiền thì chỉ cần siết/quản lý tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thương mại
là xong.
Một khi đã nói đến
cung tiền – money supply thì phải hiểu rằng đây là cung tiền của/từ NHNN chứ
không phải là của/từ một ngân hàng hay cả hệ thống ngân hàng thương mại. Do đó,
quản lý cung tiền luôn là việc của NHNN và được thực hiện tại NHNN, thông qua
các mức lãi suất điều hành của NHNN như lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn, lãi
suất cho vay qua đêm, lãi suất trên thị trường mở. Tóm lại là về bản chất cũng
không có sự khác biệt gì so với Mỹ.
Cần sớm bỏ
room tín dụng
Từ những bất hợp
lý được chỉ ra ở trên, có thể nói bài viết đã không nêu ra được một căn cứ chắc
chắn nào hậu thuẫn cho việc ủng hộ duy trì room tín dụng cho cả hệ thống ngân
hàng nói chung và từng ngân hàng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, người viết
cũng không muốn kết luận một cách dễ dãi từ đây, tuy khá... logic, rằng cần phải
làm ngược lại, tức bỏ room tín dụng.
Thực tế, người viết
đã có một số bài viết trên KTSG về cùng đề tài, mà gần đây nhất là bài “Hạn mức
tăng trưởng tín dụng: những lý do… chưa xác đáng!” (1). Một số lập luận trong
bài này, cũng đã được nêu trên, là: (i) NHNN hoàn toàn đúng đắn khi cẩn trọng với
rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng để quản lý tăng trưởng
tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền. Muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng
thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ, chứ
không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân
hàng và cả hệ thống ngân hàng; và (ii) Dù người viết và các tổ chức nước ngoài
như IMF và Moody’s đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng
nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Sự kiên định này cho thấy dường
như NHNN đang sử dụng hạn mức này với các ý đồ khác, chẳng hạn sử dụng nó như
“cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng
chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo
vệ công cụ hạn mức này nhưng tiếc là lại bằng những lý do chưa xác đáng,
Nói cách khác,
room tín dụng cần sớm được loại bỏ nhưng, về phía NHNN, họ sẽ không bỏ nó chừng
nào chưa tìm ra được công cụ “cây gậy hay củ cà rốt” khác để thay thế.
-----
(1) https://thesaigontimes.vn/han-muc-tang-truong-tin-dung-nhung-ly-do-chua-xac-dang/