Monday 28 June 2021

Khó khả thi đề xuất hạ lãi suất tiền gửi VND về 0% (Bài đăng trên Đầu tư, 29/6/2021, bản gốc)

https://baodautu.vn/kho-kha-thi-de-xuat-ha-lai-suat-tien-gui-vnd-ve-0-d145993.html

Mới đây, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (Vafi) đề xuất đưa dần lãi suất tiền gửi VND về mức 0% như các nước trong khu vực.

Cơ sở đề xuất này trước hết là lãi suất tiền gửi đồng nội tệ tại các nước trong khối ASEAN gồm Thái Lan, Philippines, và Singapore đang ở mức rất thấp (0% cho tiền gửi ngắn hạn, 0,2-0,7% cho tiền gửi dài hạn). Trong khi đó, Việt Nam đã có những tiền đề kinh tế vững chắc như các nước trong khu vực để có thể đưa lãi suất tiền gửi dần về 0% gồm chính trị ổn định; tăng trưởng kinh tế cao, ổn định; xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 2 con số, đưa Việt Nam lên vị thế xuất siêu; dự trữ ngoại hối tăng mạnh; thị trường chứng khoán phát triển mạnh bất chấp đại dịch; hệ thống ngân hàng nội địa vững mạnh...

Để hiện thực hóa mục tiêu trên, Vafi đề xuất hạn chế mạnh dòng tiền đầu cơ chảy vào thị trường bất động sản, kiểm soát không cho tăng giá đất, áp dụng thuế tài sản lũy tiến... Dòng tiền nhàn rỗi sau đó  sẽ được hướng vào thị trường trái phiếu với lãi suất huy động dưới 2%/năm. Đồng thời tiến hành thu phí tiền gửi ngoại tệ để ngăn chặn dòng tiền nhàn rỗi đổ vào đầu cơ ngoại tệ.

Đề xuất của Vafi như trên thiếu thuyết phục trên một số phương diện.   

Trước hết, Vafi mới chỉ so sánh lãi suất của Việt Nam với của Thái Lan, Philippines và Singapore mà không phải là với các nước khác như Malaysia và Indonesia.

So sánh lãi suất với Singapore là khá khiên cưỡng, bởi nền kinh tế Singapore đã đạt đẳng cấp của các nước đã phát triển phương Tây, nơi mà lãi suất tiền gửi nội tệ tất nhiên là thấp và rất thấp. Nhưng cũng cần lưu ý rằng không phải tự nhiên lãi suất ở những nước này thấp, bởi chí ít nhà đầu tư vẫn được tự do mang vốn đầu tư ra nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn trong nước, chứ không bị kiểm soát như ở các nước mới nổi như Trung Quốc, Việt Nam.

Trong khi đúng là lãi suất tiền gửi của Thái Lan tương đối thấp, với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm dao động từ 0,4% đến 1,35%/năm (1), con số này thực ra vẫn còn cách khá xa lãi suất đề xuất 0%.

Đối với Philippines, lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 1 năm hiện đứng ở mức rất thấp như Vafi nêu (cao nhất là khoảng 0,75%/năm). Nhưng, như nói thêm ở dưới đây, có lẽ chỉ có Philippines là nước duy nhất trong số các nước ASEAN-5 là có lãi suất rất thấp, gần với mức đề xuất 0% nhất.

Lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 1 năm tại các ngân hàng thương mại của Malaysia hiện dao động trong khoảng 2,3%-3,03%/năm (2). 

Với Indonesia, lấy ví dụ về lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 1 năm tại ngân hàng DBS, lãi suất này dao động từ 3,75% đến 4% tùy thuộc số tiền gửi (3).

Như vậy, có thể nói lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm trong nhóm các nước ASEAN-5 biến thiên khá mạnh, từ gần 0% (Singapore, Philippines) lên đến trên 3%-4%/năm (Malaysia, Indonesia), với Thái Lan đứng ở giữa. Nói cách khác, nếu muốn so sánh với các nước trong khu vực thì thực ra cũng không thể rút ra kết luận rằng lãi suất trong khu vực (ASEAN) đang ở mức rất thấp, gần 0% như Vafi lập luận.

Điều thiếu thuyết phục thứ hai của Vafi là việc siết các khoản đầu tư mang tính đầu cơ vào bất động sản. Đây là một biện pháp theo nghĩa đen là bịt một đầu ra của tín dụng, chặt bớt một kênh đầu tư để tiền của dân cư và doanh nghiệp chỉ loanh quanh trong những kênh tiền gửi, những cơ hội đầu tư hữu hạn còn lại.

Sự thiếu thuyết phục nằm ở chỗ, gần như không thể phân biệt được sự đầu tư với đầu cơ. Nếu siết đầu tư vào bất động sản thì có nghĩa là loại trừ việc kinh doanh bất động sản, bởi lúc này nếu kết hợp với đánh thuế lũy tiến như Vafi đề xuất thì việc cá nhân hay tổ chức nào đó kinh doanh bằng cách nắm giữ trên một bất động sản sẽ trở nên quá đắt đỏ, làm cho việc kinh doanh bất động sản không còn hấp dẫn nữa. Nhưng tại sao lại phải đối xử phân biệt với một ngành kinh doanh như vậy, trong khi ngành kinh doanh nào mà chả có nạn đầu cơ, ví dụ như thép, nguyên liệu sản xuất? Nói cách khác, đầu cơ là bản chất của kinh tế thị trường, có gì là xấu, phải triệt tiêu?

Quan trọng hơn, kể cả siết tín dụng vào bất động sản kết hợp với đánh thuế lũy tiến, việc này chưa chắc đã hạn chế dòng tiền chảy vào bất động sản một khi nhu cầu thị trường vẫn mạnh, đủ để hấp dẫn nhà đầu tư/đầu cơ bỏ vốn vào bất động sản. Điển hình cho chuyện này là các ví dụ về sốt bất động sản ở các nước phát triển và ở Hong Kong, Trung Quốc và Singapore như hiện nay, bất chấp các nước này đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế đầu cơ bất động sản, gồm đánh thuế cao.

Đó là chưa kể, nếu bịt được dòng tiền chảy vào bất động sản thì nó sẽ tìm cách chảy vào đâu đó, ít nhất là vào chứng khoán và vàng. Xét kênh chứng khoán trước, thay vì để xảy ra đầu cơ trong bất động sản thì nay sẽ có nạn đầu cơ nghiêm trọng hơn trong lĩnh vực chứng khoán, nếu mọi thứ khác không thay đổi. Không lẽ Vafi coi sốt nóng và bong bóng chứng khoán lại không nguy hiểm, lại tốt hơn là sốt nóng và  bong bóng bất động sản?

Tương tự, vì việc nắm giữ và đầu tư/đầu cơ vàng là một việc làm hợp pháp, chính đáng, nên nếu siết đầu tư bất động sản thì, ngoài thị trường chứng khoán, thị trường vàng có khả năng sẽ lại nóng sốt quá mức, và rủi ro đính kèm theo đó cũng khó có thể nói là nhỏ hơn so với rủi ro của sốt đất, bong bóng bất động sản. Và có lẽ Vafi đã quên không đề xuất đánh thuế, phí mua bán, nắm giữ vàng?

Vafi đã khôn khéo đề xuất thu phí tiền gửi ngoại tệ như là một cách khác để chặn thêm các kênh đầu tư khác ngoài bất động sản, tạo điều kiện ngân hàng giảm lãi suất tiền gửi nội tệ. Tuy nhiên, dù điều này có một phần tác dụng “làm khó” cho người có tiền đang tìm cơ hội đầu tư ngoài gửi tiền vào ngân hàng, nó cũng sẽ mất tác dụng nếu rốt cuộc nhà đầu tư tính toán thấy khả năng đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ vẫn là có lợi khi ngoại tệ có xu hướng lên giá mạnh so với tiền đồng, thừa đủ bù đắp mọi loại phí phát sinh phải trả. Đây cũng là lý do vì sao hiện nay lãi suất tiền gửi USD là 0% nhưng vẫn có nhiều người chọn gửi bằng USD thay vì tiền đồng.

Rất có thể đến lúc này Vafi lập luận thế thì cần phải nâng cao hơn nữa phí nắm giữ USD. Vậy, cũng tương tự như với bất động sản, thuế phí cao đến mấy nhưng rốt cuộc vẫn có nhu cầu cho bất động sản hay USD để rồi nhà đầu tư/đầu cơ vẫn thu lãi được từ những hàng hóa này.

Nói tóm lại, để đề xuất của Vafi thành hiện thực thì phải triệt để chặn đứng, ngăn cấm được một cách tuyệt đối tất cả các kênh đầu tư khác ngoài trái phiếu ngân hàng. Vì điều này là không tưởng nên đề xuất của Vafi cũng là không tưởng, ít nhất cho đến khi Việt Nam... lọt vào hàng ngũ các nước phát triển.

-------

(1) https://www.bot.or.th/english/statistics/_layouts/application/interest_rate/in_rate.aspx

(2) https://ringgitplus.com/en/blog/fixed-deposits/best-fixed-deposit-accounts-in-malaysia.html

(3) https://www.dbs.id/digibank/id/en/investasi/produk-investasi/deposito


Friday 25 June 2021

Phải thu được thuế của Google, Facebook: nhưng bằng cách nào? (Bài đăng trên KTSG, 25/6/2021, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/td/317638/phai-thu-duoc-thue-cua-google-facebook-nhung-bang-cach-nao.html

Ngành thuế luôn đặt quyết tâm bắt những ông lớn công nghệ của Mỹ như Google, Facebook, Youtube... phải trả thuế đúng và đủ cho doanh thu họ thu được ở Việt Nam. Mới đây, Cục thuế TP. Hồ Chí Minh kiến nghị Chính phủ nêu một số khó khăn và đề xuất các giải pháp để buộc các doanh nghiệp này phải thực hiện nghĩa vụ thuế tại Việt Nam, cũng như hợp tác cung cấp thông tin của các tổ chức và cá nhân tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh và có thu nhập từ các doanh nghiệp này.(1)

Tuy nhiên, như phân tích dưới đây, những khó khăn và giải pháp mà Cục thuế thành phố kiến nghị lại không mấy hợp lý, thích đáng.

Khó khăn thứ nhất được Cục thuế thành phố nêu ra là, việc xác minh lý do dòng tiền ra vào các nhà mạng xã hội (tức các doanh nghiệp công nghệ trên) là rất khó khăn bởi thông tin tài khoản ngân hàng không thể hiện nội dung chuyển tiền.

Khó khăn nêu trên là khá hiển nhiên, bởi để tránh bị “nhòm ngó”, điều tra thì cả bên bán (doanh nghiệp công nghệ) và bên mua (người mua quảng cáo) đều có xu hướng thống nhất cách ghi mục đích chuyển tiền sao cho “an toàn” nhất. Với mục đích khai báo như vậy thì đúng là khó có thể truy ra doanh thu của cả hai bên để mà tính được thuế tương ứng.

Nhưng ngành thuế có thể khắc phục khó khăn này bằng cách yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thanh tra, tăng cường kiểm soát hoạt động thanh toán quốc tế giữa người cư trú và không cư trú qua hệ thống ngân hàng nội địa. Bởi đây là lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối, trong đó có nghĩa vụ của ngân hàng là kiểm tra, xác thực mục đích và tính hợp pháp của việc chuyển tiền.

Một khi đã làm chặt khâu thanh toán, chuyển tiền quốc tế qua hệ thống ngân hàng thương mại dưới sự theo dõi, thanh tra chặt chẽ của NHNN thì sẽ không còn dễ dàng cho các tổ chức và cá nhân cư trú chuyển tiền ra nước ngoài cho các doanh nghiệp công nghệ trên (mà không khai báo đầy đủ, chính xác) nữa. Đồng nghĩa với đó là ngành thuế sẽ có thêm bằng chứng, căn cứ để điều tra thuế với các bên liên quan.

Khó khăn thứ hai mà Cục thuế nêu ra là có đến 34 trong tổng số 40 ngân hàng “không nhiệt tình” cung cấp thông tin liên quan đến các tổ chức, cá nhân có thu nhập từ Google, Facebook. Do đó, Cục thuế kiến nghị Chính phủ có quy định bắt buộc các ngân hàng phối hợp cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, cũng như thực hiện việc khấu trừ nộp thuế theo quy định.

Không rõ khi nêu ra khó khăn trên, Cục thuế có nắm được tình hình rằng trên thực tế thì Chính phủ đã ban hành Nghị định 126/2020 hướng dẫn Luật Quản lý thuế 2019, trong đó quy định ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan thuế? Cũng dám chắc một điều là cả luật và nghị định này, cũng như các luật lệ liên quan khác đều là do chính ngành thuế dự thảo để Quốc hội, Chính phủ thông qua. Kiến nghị nêu trên của Cục thuế vì thế mà thành thừa và lạc đề.

Thay vào đó, ngành thuế có thể áp dụng các quy định về xử phạt trong Luật và Nghị định để (qua một bên thứ ba như NHNN, tòa án...) buộc tất cả các ngân hàng có liên quan phải “phối hợp” với họ như yêu cầu, theo đúng quy định nếu không muốn bị xử lý theo pháp luật.

Thứ ba, Cục thuế nêu khó khăn rằng Google và Facebook không đặt máy chủ tại Việt Nam nên (cơ quan quản lý nhà nước) không thể giám sát dòng tiền ra vào. Các doanh nghiệp này lại “lơ là” với việc kê khai và tự nộp thuế. Do đó, Cục thuế kiến nghị yêu cầu Google, Facebook đặt văn phòng tại Việt Nam rồi tự kê khai và thực hiện nghĩa vụ thuế. Nếu họ thực hiện nghĩa vụ thuế không đúng quy định thì cần có chế tài mạnh hơn.

Cần lưu ý rằng việc yêu cầu doanh nghiệp công nghệ đặt văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam đã được quy định chế tài rõ trong Luật An ninh mạng được thông qua tại Việt Nam năm 2018. Như vậy, việc kiến nghị buộc các doanh nghiệp này mở văn phòng tại Việt Nam cũng là... thừa.

Trong khi đó, vấn đề chủ chốt cần làm rõ là tại sao Google, Facebook lại “lơ là”, không đếm xỉa gì đến việc mở văn phòng tại Việt Nam mặc dù luật pháp Việt Nam có quy định như vậy?

Nếu họ vẫn thản nhiên, “bình an vô sự” đều đều thu tiền quảng cáo của doanh nghiệp và cá nhân mà phớt lờ yêu cầu phải có văn phòng ở Việt Nam thì có nghĩa là có một lý do nào đó đã cho phép, xui khiến họ làm vậy mà không sợ bị Chính phủ Việt Nam “trừng phạt” hay chế tài. Và vấn đề này chắc chắn nằm ở tầm/trên bàn đàm phán thuế quốc gia (với Mỹ) và quốc tế (ví dụ, như thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu mới đây của nhóm quốc gia G7, trong đó có việc đánh thuế các doanh nghiệp công nghệ Mỹ). Những vấn đề này tuy không thuộc phạm vi bài viết, nhưng qua đó cho thấy ngành thuế dường như đã không cập nhật và phân tích thấu đáo tình hình thực tiễn trước khi đưa ra kiến nghị, giải pháp nói trên.

Xu hướng hợp tác quốc gia và quốc tế trong việc đánh thuế doanh nghiệp toàn cầu nói chung và các doanh nghiệp công nghệ Mỹ nói riêng như Google và Facebook cũng là một gợi ý cho thấy Việt Nam nên xử lý vấn đề thuế đối với các doanh nghiệp này như thế nào, thay cho phương pháp tiếp cận duy ý chí mà ngành thuế đã và đang đề xuất.

(1) https://nld.com.vn/kinh-te/phai-thu-duoc-thue-cua-google-facebook-tai-viet-nam-20210608204510182.htm


Friday 18 June 2021

Thanh toán không dùng tiền mặt: Cần dung hòa lợi ích (Bài đăng trên KTSG, 18/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/317411/thanh-toan-khong-dung-tien-mat-can-dung-hoa-loi-ich.html/#292898 

Cục Thuế TP HCM vừa có kiến nghị Chính phủ sớm quy định việc các tổ chức áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt với tất cả giao dịch bán ra và mua vào, không giới hạn tổng giá trị thanh toán. Lý do là để, theo giải thích của cơ quan này, “hỗ trợ cơ quan thuế trong việc kiểm soát doanh thu và chi phí của các tổ chức có hoạt động sản xuất - kinh doanh, tăng cường tính nghiêm minh trong công tác quản lý thuế”.

Như vậy, có thể nói kiến nghị trên chỉ để phục vụ cho sự tiện lợi của ngành thuế là chính, mà quên đi sự bất tiện, thậm chí là tổn hại đến lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người dân.

Thế giới cũng dường như không có tiền lệ

Nói “dường như” chỉ là để đề phòng trường hợp có thể có một (số) nước nào đó “độc đáo” như Việt Nam trong việc đề xuất (và sẽ áp dụng) quy định doanh nghiệp áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt với mọi giao dịch, mọi giá trị. Chứ còn điểm qua sơ sơ một vài nước phát triển ở cả Á lẫn Âu như  Mỹ, Úc, Singapore, Thụy Điển và Hàn Quốc, nơi người dân và doanh nghiệp có đầy đủ mọi loại hình thanh toán, và thanh toán không dùng tiền mặt đã phổ biến từ lâu và ngày càng phát triển thì doanh nghiệp cũng không bị bắt buộc phải thanh toán không dùng tiền mặt.

Xin nhấn mạnh điều này: Ở những nước này, nói chung, không có luật nào quy định doanh nghiệp (tư nhân) phải chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt. Nói cách khác, doanh nghiệp có quyền hợp pháp từ chối nhận tiền mặt, nếu muốn.(1)(2) Nhưng điều này không có nghĩa là luật pháp bắt buộc doanh nghiệp phải từ chối thanh toán bằng tiền mặt.

Gần đây ở một số nước nổi lên chuyện doanh nghiệp không chấp nhận tiền mặt, nhưng đó nhiều khi vì lý do rất đơn giản là giữ vệ sinh, an toàn trong đại dịch, chứ không phải vì lý do thuế khóa hay bị luật pháp cấm đoán gì. Do đó, nếu không “quan ngại” chuyện vệ sinh thì doanh nghiệp ở nước ngoài vẫn hoàn toàn có thể tiến hành giao dịch bằng tiền mặt một cách hợp pháp.

Cần nói thêm rằng, ở Hàn Quốc, nước đứng đầu trong danh sách top 10 các nước thanh toán không dùng tiền mặt nhiều nhất thế giới, vẫn có đến 14% tổng số giao dịch thanh toán là dùng tiền mặt, và vẫn có 23% dân chúng thícdh dùng tiền mặt hơn là các phương tiện thanh toán phi tiền mặt, theo một cuộc khảo sát của Global Web Index.(3)

Có cả lợi và hại

Cũng như cái nhìn của ngành thuế Việt Nam, thanh toán không dùng tiền mặt rõ ràng đem đến một cái lợi lớn cho nhà chức trách ở chỗ nó làm cho doanh nghiệp khó che giấu, ngụy tạo các khoản thu chi để trốn thuế. Đồng thời, nó cũng có lợi cho nhà chức trách ở cái nghĩa là giảm thiểu nguy cơ rửa tiền vì nhà chức trách có thể truy vết được bọn tội phạm.

Đối với doanh nghiệp, thanh toán không dùng tiền mặt, ngoài cái lợi về chuyện vệ sinh như nói trên, còn được lợi từ chuyện ít bị cướp bóc, ăn trộm hơn bởi không giữ tiền mặt tại doanh nghiệp; giảm chi phí hoạt động do không phải kiểm đếm, lưu trữ tiền mặt...

Ngược lại, doanh nghiệp khi chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt thì họ sẽ phải chịu chi phí phát  sinh, ví dụ chi phí thẻ tín dụng, vốn có thể là đáng kể, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ. Tất nhiên là doanh nghiệp hoàn toàn có thể bắt khách phải chịu các chi phí này, nhưng như thế sẽ làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ của họ, dẫn đến giảm doanh số bán hàng do khách hàng thấy đắt đỏ hơn. (Cũng cần biết là luật hiện hành của Việt Nam quy định khách hàng khi dùng thẻ tín dụng không phải trả thêm tiền hoặc phụ phí cho đơn vị chấp nhận thẻ - tức doanh nghiệp nhận thanh toán).

Về phía khách hàng của doanh nghiệp, bắt buộc phải thanh toán phi tiền mặt cũng phát sinh nhiều phí tổn và mối nguy hại cho khách hàng. Trước tiên phải kể đến nguy cơ bị lộ thông tin cá nhân khi dữ liệu bị xâm phạm. Tiếp đó, khi người tiêu dùng bị hack tài khoản hoặc gặp trở ngại/vấn đề kỹ thuật mà không tiếp cận được các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt thì họ... bó tay!

Đồng thời, dù xã hội có phát triển đến đâu vẫn sẽ có một bộ phận dân chúng hoàn không thể tiếp cận, không thể dùng được các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt (trong một số hoàn cảnh, thời điểm, địa điểm). Ở Việt Nam thì ít nhất trong nhiều năm tới sẽ tiếp tục còn nhiều người không có kiến thức, tài khoản ngân hàng, hay smartphone (cùng đó là tiếp cận internet) để tham gia vào xã hội thanh toán không dùng tiền mặt cao độ.

Và cuối cùng, có một lý do đơn giản làm cho nhiều người vẫn muốn dùng tiền mặt: Họ muốn kiểm soát chi tiêu của mình (tránh nguy cơ tiêu “phóng tay”), mà thường là sẽ khó thực hiện được khi sử dụng các phương tiện thanh toán khác như thẻ tín dụng chẳng hạn.

Như vậy, việc bắt buộc doanh nghiệp không được chấp nhận tiền mặt trong thanh toán sẽ chỉ làm lợi cho nhà chức trách, về mọi mặt, còn người tiêu dùng thì rõ ràng là chỉ có thiệt đi. Doanh nghiệp thì lợi hại đan xen, nhưng cũng khó nói là thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tốt hơn cho họ về tổng thể, ít nhất là so với khi có thêm lựa chọn được chấp nhận tiền mặt.

Nói cách khác, nhà nước hãy thực thi đề xuất của ngành thuế khi nào mà quyền lợi của doanh nghiệp và người dân là không đáng để đánh đổi lấy sự tiện lợi cho ngành thuế.

Cũng có người đề xuất giải pháp trung dung hơn, theo đó thiết lập lộ trình giảm dần mức chấp nhận tiền mặt, từ 20 triệu đồng xuống 10, 5 triệu... để khách hàng và thị trường thích nghi dần. Vấn đề với giải pháp này và tương tự là chúng ít nhất đã bỏ qua bên lề một bộ phận dân chúng kiểu gì cũng không thể chi trả phi tiền mặt được, dù muốn. Chưa kể những quyền lợi hợp pháp khác liên quan của doanh nghiệp và người dân như nói ở trên khi họ được lựa chọn dùng tiền mặt. 

Để kết thúc, xin lưu ý rằng Ngân hàng Trung ương châu Âu, ECB, là một trong những cơ quan chức năng tiền tệ trên thế giới đã nhìn nhận rằng tiền số ngân hàng trung ương (CBDC) sẽ không thay thế mà chỉ bổ sung cho tiền mặt – thứ mà sự sản xuất (in tiền) sẽ còn tiếp tục.(4)

Vì tiền mặt cũng dùng để thanh toán nên khi nó tiếp tục được tồn tại mãi thì điều này có nghĩa là việc sử dụng tiền mặt để thanh toán sẽ không bao giờ bị cấm ở nhiều nước, nếu không muốn nói là cả thế giới, trừ...  Việt Nam!

--------

(1) https://www.patriotsoftware.com/blog/accounting/can-business-refuse-cash-is-it-legal/

(2) https://www.adamslawyers.com.au/can-a-business-legally-refuse-a-cash-payment/

(3) https://www.cnbctv18.com/photos/technology/top-10-countries-that-prefer-card-payments-over-cash-asian-country-takes-top-spot-8056691.htm

(4) https://hackernoon.com/how-cbdc-will-replace-cash-experiment-to-programmable-money-m5193z6a

Sunday 13 June 2021

Mảnh ghép lớn còn thiếu trong chiến lược cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc (Bài đăng trên KTSG, 14/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/317173/manh-ghep-lon-con-thieu-trong-chien-luoc-canh-tranh-cua-my-voi-trung-quoc.html

Nỗ lực của Mỹ nhằm cạnh tranh với Trung Quốc đã tiến thêm một bước hôm 25/5 với việc Hạ viện Mỹ giới thiệu luật củng cố tính cạnh tranh về kinh tế và gây áp lực lên Trung Quốc về vấn đề nhân quyền. Trong khi đó, Thượng viện Mỹ cũng đang có kế hoạch bỏ phiếu thông qua gói luật riêng đối phó với Trung Quốc. Như vậy, mong muốn duy trì một lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc là một trong số ít lập trường được thống nhất cao giữa hai đảng của Mỹ.

Chính quyền của Tổng thống Biden cũng ủng hộ các nỗ lực chống Trung Quốc, qua việc các quan chức liên tục liệt kê việc cạnh tranh với Bắc Kinh là một trong những thách thức chiến lược lớn nhất của mình. Tổng thống Biden cũng đang tỏ cho thấy nỗ lực xây dựng và củng cố liên minh của Mỹ tại châu Á để kiềm chế sự vươn lên một cách quyết đoán của Trung Quốc.

Tuy vậy, giới phân tích cho rằng dù các chính trị gia Mỹ có mạnh miệng cam kết cạnh tranh với Trung Quốc đến đâu thì họ dường như đã vui vẻ bỏ trống một lĩnh vực và để Trung Quốc thắng ở đó: thương mại. Nếu quả là ông Biden muốn bỏ qua lĩnh vực thương mại thì chiến lược xây dựng đồng minh của Mỹ ở châu Á sẽ sẽ khó thành hiện thực.

Trong khi chính quyền ông Biden kể từ ngày đầu ra mắt vẫn tỏ ra né tránh câu hỏi về việc Mỹ có quay lại với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà người tiền nhiệm của ông Biden, Tổng thống Trump đã rút lại việc tham gia của Mỹ năm 2017, thì Bắc Kinh đã đôi lần bầy tỏ ý định tham gia của mình một cách cả phi chính thức và chính thức, như trong phiên làm việc thường niên của Chính phủ Trung Quốc hồi tháng 3.

Trước ý định của Trung Quốc, giới quan sát lập luận rằng Trung Quốc đã có thể không bày tỏ ý muốn gia nhập CPTPP nếu Mỹ đã là thành viên của hiệp định này. Lý do đơn giản là vì với nguyên tắc chỉ cần một nước thành viên CPTPP phản đối thì một nước mới xin gia nhập sẽ không được chấp nhận, Mỹ rất có thể sẽ phủ quyết đơn tham gia của Trung Quốc nếu Mỹ không tin vào ý định nghiêm túc trong cải cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực của Trung Quốc để đáp ứng yêu cầu khi gia nhập. Và Mỹ cũng sẽ là nước sẽ quyết liệt xử lý Trung Quốc nếu sau khi gia nhập, nước này xem thường các điều khoản thỏa thuận, bởi vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới với đầy đủ khả năng để chống lại áp lực của Trung Quốc, không như với các nước thành viên nhỏ hơn khác đôi khi phải chọn thỏa hiệp với đòi hỏi và sự cứng rắn của Trung Quốc. Cũng cần nói thêm là với cơ chế phủ quyết này thì Trung Quốc hòan toàn có thể phủ quyết sự tham gia của Mỹ sau này khi Trung Quốc đã là thành viên của CPTPP.

Hiện tại, còn quá sớm để nói trước được tương lai gia nhập của Trung Quốc vào CPTPP và điều này có thể chỉ thành hiện thực sau nhiều năm nữa. Dẫu vậy, nếu Mỹ tiếp tục để ngỏ vấn đề tái gia nhập CPTPP thì sẽ càng làm tăng mối nghi ngờ về cam kết của Mỹ đối với châu Á, về sự chung lòng, sát cánh của Mỹ với các đồng minh trong khu vực trong nỗ lực kiềm chế Trung Quốc. Các nước thành viên trong khu vực cũng sẽ không nỗ lực “thoát Trung”, giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc nếu Mỹ không đóng vai trò thay thế một cách vững chắc.

Tuy chính quyền ông Biden cũng có một số lý do để ngần ngại tham gia CPTPP, chủ yếu nhìn từ góc độ tổn thất công ăn việc làm trong ngành chế tạo, kèm với rủi ro bị các nước khác thao túng tiền tệ và gian lận thương mại, nhưng mặt khác nền kinh tế Mỹ ước tính sẽ được lợi thêm khoảng 130 tỷ USD/năm vào năm 2030 từ việc gia nhập CPTPP.

Ông Biden rõ ràng là cũng không muốn làm phật lòng thêm phái tả trong đảng Dân chủ của mình. Nhưng cũng cần biết rằng Mỹ đã đồng ý loại bỏ các đòi hỏi cứng rắn ban đầu của mình trong các cuộc thương thuyết được tiến hành từ thời Tổng thống Obama, gồm bảo hộ các công ty dược và cơ cấu giải quyết tranh chấp cho các nhà đầu tư. Thay vào đó, chính quyền ông Biden có thể tập trung vào những đòi hỏi mới để làm hài lòng những chính trị gia vẫn còn chống đối CPTPP trong nội bộ đảng Dân chủ hay đảng đối lập, gồm bảo hộ quyền của người lao động như trong Hiệp định Mỹ-Canada-Mexico, ủng hộ các công nghệ xanh và cấm trợ cấp cho năng lượng hóa thạch.

Với những lợi ích từ gia nhập CPTPP như vậy, đặc biệt là muốn dẫn đầu trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc, nhiều nhà phân tích chính trị cho rằng Mỹ cần tiến hành đàm phán gia nhập CPTPP trước khi quá muộn (Trung Quốc đã giap nhập CPTPP), song song với các nỗ lực trong nước cổ súy cho đổi mới công nghệ, tăng trưởng kinh tế và phân phối bình đẳng sự thịnh vượng kinh tế.

Về phần mình, các nước thành viên cần hiểu rõ nhu cầu thực sự muốn kiềm chế Trung Quốc của Mỹ để có những điều chỉnh cần thiết nhằm hấp dẫn và tạo điều kiện cho Mỹ tham gia CPTPP.


Friday 11 June 2021

Tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương có thay thế tiền thật? (Bài đăng trên Đầu tư, 11/6/2021)

https://baodautu.vn/tien-ky-thuat-so-ngan-hang-trung-uong-co-thay-the-tien-that-d144868.html

Tiền kỹ thuật số ngân hàng trung ương (CBDC) đang được nhiều nước nghiên cứu và triển khai, và có khả năng sẽ trở nên phổ biến và thịnh hành trên thế giới trong thời gian không quá xa. Câu hỏi đặt ra là liệu đến một thời điểm nào đó CBDC có làm cho tiền pháp định/tiền thật truyền thống trở nên không còn cần thiết và biến mất không?

Một hậu quả lớn nhất của CBCD là nó sẽ làm cho sự tồn tại của hệ thống ngân hàng thương mại, vốn đóng vai trò như trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trở thành vô dụng. Bởi CBCD cho phép người tiêu dùng trực tiếp thanh toán qua ngân hàng trung ương, cho phép các cá nhân và nhà bán buôn bỏ tiền vào hệ thống CBCD thay vì hệ thống các ngân hàng thương mại truyền thống. Mà như vậy thì các ngân hàng thương mại sẽ mất đi sự tiếp cận một nguồn vốn giá rẻ có nguồn gốc từ tiền gửi thanh toán của cá nhân và tổ chức như truyền thống từ trước đến nay. Kết cục tiếp đến sẽ là dư nợ cho vay trong nền kinh tế sụt giảm và các hoạt động kinh tế tư nhân trở nên trầm lắng hơn nhiều, theo đó là tăng trưởng kinh tế giảm sút.

Để viễn cảnh trên không xảy ra, phương án giải quyết sẽ là hạn chế phát hành CBCD về lượng, cũng như hạn chế tiếp cận CBCD – dành quyền tiếp cận chỉ cho nhà bán buôn và những chủ thể kinh tế lớn, song song với việc áp dụng phí hay lãi suất phạt cho các khoản CBCD nắm giữ. Có nghĩa là CBDC cũng sẽ không bao giờ thay thế được tiền thật.

Nếu thực hiện phương án hạn chế sử dụng CBCD như trên thì tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng giá của một đơn vị CBCD không bằng giá của một đơn vị tiền thật. Về bản chất, điều này không có gì là phi lý, bởi mỗi  loại tiền phục vụ cho các đối tượng khách hàng khác nhau. Nhưng nếu ngân hàng trung ương thấy sẽ là không ổn nếu, giả sử, một USD tiền thật lại có giá trị khác với 1 USD tiền số, nên tìm cách xóa bỏ tình trạng này bằng cách cho chuyển đổi thoải mái giữa hai loại tiền, thì sẽ lại dẫn đến tình trạng sụp đổ hệ thống ngân hàng thương mại như nói trên.

Vì đây là điều mà các nhà làm chính sách muốn tránh bằng mọi giá nên rốt cuộc sự phân ly giá trị giữa tiền số và tiền thật sẽ phải được cho/để tồn tại. Nói cách khác, lúc đó trong nền kinh tế sẽ tồn tại cùng lúc hai loại giá khác nhau cho cùng một loại hàng hóa và dịch vụ, tùy thuộc chúng được đo lường bằng tiền thật hay tiền CBDC. Để đỡ phức tạp, có lẽ giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ sẽ được niêm yết bằng đơn vị tiền thật truyền thống, song song với tỷ giá chuyển đổi giữa tiền thật và CBDC nếu người tiêu dùng muốn thanh toán bằng CBDC, tương tự như cách mà nhà bán lẻ đề giá chưa có thuế và kèm thêm cạnh đó mức thuế cần trả, hoặc niêm yết bằng nội tệ đi kèm với tỷ giá ngoại tệ dành cho khách du lịch.

Bằng cách ngăn cách hai khu vực kinh tế dùng tiền thật và CBDC, ngân hàng trung ương có một công cụ điều tiết chính sách tiền tệ mới rất hữu hiệu. Thay vì phải dùng nghiệp vụ thị trường mở và tỷ lệ dự trữ bắt buộc để điều tiết lượng tiền bơm vào nền kinh tế như truyền thống, nay với CBDC, ngân hàng trung ương chỉ cần điều tiết lượng phát hành CBDC là có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thực. Và hành động điều tiết CBDC của ngân hàng trung ương khi đó cũng sẽ là một chỉ số cho thấy đường hướng chính sách của ngân hàng trung ương mong muốn đối với nền kinh tế.

Cứ như vậy, khu vực tài chính dựa trên CBDC sẽ liên tục phát triển, kéo theo đó là mức độ số hóa của nền kinh tế, cũng như nhu cầu cao hơn đối với hệ thống thanh toán và chi trả dựa trên CBDC. Có thể nói lúc đó nền kinh tế sẽ được chia thành hai khu vực song song tồn tại, một dựa trên tiền truyền thống, một dựa trên CBDC ngày càng phát triển, lấn lướt khu vực còn lại.

Sự ra đời của CBDC có làm cho các đồng tiền số tư nhân phát hành diệt vong không? Rất có thể câu trả lời là không. Bởi CBDC chỉ có thể đáp ứng một số mục đích mà không phải là tất cả. Chẳng hạn, nói về mục đích riêng tư, nặc danh, CBDC sẽ không đáp ứng tốt bằng các đồng tiền số tư nhân như bitcoin.

Bản thân các ngân hàng thương mại cũng có thể phản ứng lại sự lấn lướt, cũng như sự lựa chọn mang tính phân biệt người dùng của CBDC (chỉ cho phép các nhà bán buôn tiếp cận hệ thống CBDC...) bằng cách phát hành tiền số ổn định stablecoin gắn giá trị với CBDC. Việc này cho phép nhà bán lẻ và người tiêu dùng tiếp cận một cách gián tiếp với CBDC. Lúc đó, trong nền kinh tế sẽ tồn tại cùng lúc nhiều loại tiền, gồm CBDC, stablecoint, tiền thật truyền thống, tiền số tư nhân, và thậm chí cả CBDC do ngân hàng trung ương nước ngoài phát hành.   

Thursday 10 June 2021

Gánh nặng bảo hiểm dữ liệu và an ninh mạng (Bài đăng trên KTSG, 11/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/317160/ganh-nang-bao-hiem-du-lieu-va-an-ninh-mang.html

Trên tờ Financial Times mới đây có bài viết về việc nhiều hãng bảo hiểm thế giới đã chùn tay trong việc bảo hiểm đối với các cuộc tấn công mạng cho các doanh nghiệp (1). Lý do là bởi từ năm ngoái các vụ tấn công mạng đã tăng nhanh, đặc biệt là trong vòng 2 tháng qua với nhiều vụ tấn công gây hậu quả nghiêm trọng. Trong số này phải kể đến các vụ tấn công đòi tiền chuộc gần đây vào hệ thống bảo hiểm y tế ở Ireland, một mạng đường ống dẫn dầu chủ chốt của Mỹ, và mới tuần rồi là nhà cung cấp thịt JBS – là những tổ chức đã phải đóng cửa hoạt động sau khi bị tấn công.

Hãng bảo hiểm khắt khe hơn trước rủi ro lớn hơn

Nếu may mắn thì tổ chức bị tấn công đã mua bảo hiểm dữ liệu và an ninh mạng sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường tiền chuộc và các tổn thất khác như phải dừng hoạt động sản xuất, kinh doanh, và các chi phí cho các dịch vụ phát sinh như phục hồi dữ liệu.

Do tính nghiêm trọng và tần suất các cuộc tấn công mạng đều tăng lên nên phí bảo hiểm an ninh mạng cũng vì thế mà tăng. Theo số liệu trên Financial Times, mức tăng này là 27% trong khoảng tháng 4 đến giữa tháng 5 so cùng kỳ năm trước.

Không chỉ có tăng phí bảo hiểm như một phương cách phòng vệ, các hãng bảo hiểm hiện nay còn thận trọng hơn rất nhiều trong việc nhận bảo hiểm trong lĩnh vực này cho các doanh nghiệp. Họ sẽ tìm hiểu và điều tra kỹ càng với doanh nghiệp bằng rất nhiều câu hỏi bổ sung so với trước đây. Nếu doanh nghiệp cho thấy có mức độ kiểm soát quá thấp đối với vấn đề an ninh mạng thì thậm chí sẽ bị từ chối bảo hiểm. Một số hãng khác nếu có chấp nhận bảo hiểm thì sẽ không chỉ tăng phí bảo hiểm mà còn giảm mức độ bồi thường bảo hiểm, thậm chí là một nửa đối với các vụ tấn công đòi tiền chuộc. Hoặc một cách khác là hãng bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp cùng bảo hiểm, tức doanh nghiệp cũng sẽ phải cùng chia sẻ tổn thất với hãng bảo hiểm khi có biến. Nhưng nhìn chung thì, theo báo cáo của Financial Times, hiện nay còn rất ít hãng bảo hiểm đồng ý bồi thường 100% thiệt hại liên quan đến tấn công đòi tiền chuộc.

Ngoài ra, các hãng bảo hiểm cũng bắt đầu trở nên lựa chọn hơn với những ngành mà họ nhận bảo hiểm. Chẳng hạn ở Mỹ, theo một cuộc khảo sát của cơ quan chức năng, các hãng bảo hiểm đã giảm nhận bảo hiểm cho các ngành như y tế và giáo dục.

Ở Việt Nam, lĩnh vực bảo hiểm dữ liệu và an ninh mạng dường như vẫn còn khá mới mẻ, ít được đề cập đến. Bên cạnh một vài hãng bảo hiểm nước ngoài như Chubb và MISG, một số hãng bảo hiểm trong nước như Bảo Việt, BSH, và Bảo Long đã triển khai sản phẩm bảo hiểm này trong năm 2020.

Trước xu hướng gia tăng chi phí bảo hiểm và yêu cầu khắt khe hơn trong việc nhận bảo hiểm trên thế giới như nói trên, có thể dự đoán rằng xu hướng này cũng đã và đang diễn ra ở Việt Nam, tuy không có nhiều chi tiết thực tế được biết đến bởi những người ngoài cuộc.                      

Áp lực lên doanh nghiệp

Một đặc điểm của các cuộc tấn công đòi tiền chuộc là chúng thường không có mục tiêu tấn công từ ban đầu, mà chỉ tìm được con mồi sau khi đã rà quét các doanh nghiệp để tìm ra các lỗ hổng an ninh mạng kiểu như không có xác thực nhiều lớp cho email hay cho việc cập nhật từ xa vào các mạng của doanh nghiệp. Trong khi đó, trên thực tế thì có rất nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại không có những biện pháp an ninh tối thiểu như vậy.

Ở Việt Nam, theo Trend Micro, việc chi tiêu cho an ninh internet “vẫn chưa được đẩy ở mức quá cao. Chúng chỉ ở mức hời hợt ở một số doanh nghiệp, nếu Luật an ninh mạng thông qua có thể mọi người sẽ càng thêm có sự không quan tâm về những rủi ro trên internet. Tại Việt Nam, có thể nói rằng họ là một trong những quốc gia chưa đánh giá đúng về tầm quan trọng của việc bảo mật dữ liệu”(2).

Mức độ quan tâm thấp như vậy nên dễ hiểu là tại sao Việt Nam lại là quốc gia đứng thứ 3 khu vực châu Á - Thái Bình Dương về tỷ lệ máy tính của hệ thống điều khiển công nghiệp bị tấn công bằng mã độc đòi tiền chuộc, chỉ sau Trung Quốc và Indonesia, theo công bố của hãng an ninh mạng Kaspersky hồi tháng 11/2020 (3).

Lý do có thể chủ yếu là chuyện chi phí. Đã là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì nhiều người sẽ coi là chuyện xa xỉ khi phải đầu tư một khoản đáng kể vào các giải pháp và cơ sở hạ tầng an ninh mạng cho nội bộ doanh nghiệp. Hơn nữa, cũng với lý do là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhiều người cũng cho rằng họ không đáng để bọn tin tặc tấn công đòi tiền chuộc. Nhưng cả hai luồng suy nghĩ này đều là sai lầm, bởi bọn tin tặc sẽ không chừa một ai, kể cả đó là cá nhân mà chúng không hề biết đến ngoài đời, mà chỉ là qua các dấu vết để lại trên mạng và bị chúng phát hiện ra rồi tìm cách tống tiền.

Như vậy, doanh nghiệp sẽ vừa phải đầu tư trang bị vào giải pháp và cơ sở hạ tầng an ninh mạng, dù là cơ bản, trước những rủi ro lớn hơn, vừa phải quan tâm đến chuyện mua bảo hiểm an ninh mạng để giảm thiểu tổn thất khi bị tấn công, nhất là khi việc bảo vệ an ninh mạng của họ chỉ là cơ bản, không đủ phức tạp, có thể bảo vệ họ ở mức độ cần thiết.

Nhưng việc mua bảo hiểm an ninh mạng cũng sẽ gặp trắc trở do sẽ bị các hãng bảo hiểm đòi hỏi phí bảo hiểm cao hơn và nhiều điều kiện hơn. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ còn tiếp tục mắc kẹt trong tình thế nan giải này, và buộc phải mạo hiểm với may rủi, hy vọng các vụ tấn công mạng sẽ “chừa” mình ra.

Trong bối cảnh này, Việt Nam có thể xem xét đến giải pháp khắc phục mà Financial Times đề cập. Đó là Chính phủ cung cấp thêm các dịch vụ an ninh và thậm chí là hỗ trợ tài chính liên quan đến an ninh mạng. Sự trợ giúp của Chính phủ trong lĩnh vực này có thể thông qua các dàn xếp dưới dạng công tư kết hợp với mục đích tối thượng là để giảm thiểu rủi ro đã trở nên lớn quá mức có thể hấp thụ nổi bởi cả doanh nghiệp lẫn ngành bảo hiểm.

--------

(1) https://www.ft.com/content/4f91c4e7-973b-4c1a-91c2-7742c3aa9922

(2) https://trendmicro.ctydtp.vn/an-ninh-mang-tai-viet-nam-va-nhung-anh-huong-de-doa-tu-noi-bo-doanh-nghiep.html

(3)  https://thoibaonganhang.vn/co-hoi-phat-trien-bao-hiem-khong-gian-mang-109803.html

Monday 7 June 2021

Tiền mã hóa và sự 'chia rẽ' của các ngân hàng (Bài đăng trên KTSG, 6/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/316965/tien-ma-hoa-va-su-chia-re-cua-cac-ngan-hang.html

Hiện nay các ngân hàng thương mại trên thế giới đang có cái nhìn trái ngược nhau về bitcoin và các tiền mã hóa altcoin khác. Trong khi một số nhìn nhận tiền mã hóa là kẻ phá bĩnh trong ngành, những ngân hàng khác thì cho rằng chúng là cái neo tiềm năng cho thị trường, hoặc cả hai. Sự phân chia quan điểm này xuất phát từ sự biến động mạnh về giá của bitcoin dẫn đến việc áp đặt các quy chế mới lên nó. Đồng thời, sự biến động mạnh này cũng làm cho việc mua bitcoin và thanh toán bằng thẻ tín dụng cũng rất rủi ro cho các ngân hàng, bởi giá trị các khoản mua này trong tương lai có thể sẽ không còn đủ lớn để trả nợ tiền mua qua thẻ tín dụng.

Nhưng điều trên không có nghĩa là không có ngân hàng nào chấp nhận bitcoin. Nó cũng không có nghĩa là các ngân hàng đã không tìm cách giải quyết vấn đề này, cũng như không tự mình mua bitcoin trong cơn sốt bitcoin để cho phép họ chấp nhận thanh toán bằng bitcoin. Sàn Coinbase báo cáo rằng một số mạng thẻ tín dụng lớn đã thay đổi mã phân loại hàng hóa (MCC) đối với việc mua tiền số để các ngân hàng phát hành thẻ tín dụng có thể tính phí bổ sung – có thể lên tới 23,99% – ngoài phí giao dịch trên sàn.

Trên thực tế, đã có hàng chục ngân hàng chấp nhận bitcoin. Trong số này phải kể đến những cái tên như Goldman Sachs, Morgan Stanle và National Bank of Canada. Chẳng hạn, Goldman Sachs đã cho ra mắt bộ phận kinh doanh altcoin và chào bán các sản phẩm altcoin từ năm 2018, còn Morgan Stanley là ngân hàng đầu tiên (và theo sau bởi Goldman Sachs) chào các quỹ bitcoin cho khách hàng của mình. Ngoài việc cho phép mua bitcoin bằng thẻ ghi nợ, các ngân hàng trong số này cũng đang xem xét các lựa chọn như Biên nhận Tài sản Số (Digital Asset Receipt) như là một hình thức bảo hiểm, bảo vệ và giám sát thêm đối với các giao dịch bitcoin.

Một số ngân hàng khác như UBS và JPMorgan cũng được báo cáo là đang xem xét việc chào tiền mã hóa như một sản phẩm đầu tư cho khách hàng của họ.

Việc cung cấp cho khách hàng các lựa chọn và cơ hội kinh doanh bitcoin như một tài sản hấp dẫn sẽ làm tăng tính cạnh tranh và vị thế của các ngân hàng tiên phong này, và đây có lẽ là một trong những lý do chính để các ngân hàng chuyển hướng sang chấp nhận bitcoin. Cũng cần biết thêm rằng cho đến nay, những người đầu tư vào bitcoin vẫn phải dựa vào các app của các fintech thế hệ mới như Robinhood, hoặc của các “ông lớn” trong lĩnh vực thanh toán như PayPal và Square, hoặc các sàn giao dịch chuyên tiền mã hóa như Coinbase.  

Ở chiều hướng ngược lại, cũng đã có hàng tá ngân hàng tuyên bố không chấp nhận hay hạn chế việc mua bitcoin. Điển hình trong số này là các ngân hàng và tổ chức tài chính lớn như Bank of America, Chase, CitiGroup, Lloyds Bank, và Bank of Scotland... Các ngân hàng này không còn cho phép khách hàng dùng thẻ tín dụng và các hạn mức tín dụng mà ngân hàng cung cấp để mua các loại tiền mã hóa (dù khách hàng vẫn có thể dùng thẻ ghi nợ và chuyển khoản để mua tiền mã hóa). Một số ngân hàng khác như Virgin Money, TD Bank, và PNC Bank... thì cấm khách hàng tham gia vào bitcoin qua hệ thống của họ.

Mới đây nhất, HSBC tiết lộ trên Reuters rằng họ không có kế hoạch thiết lập bộ phận kinh doanh tiền mã hóa hay chào mời tiền mã hóa như một kênh đầu tư cho khách hàng của mình. Lý do là bởi tiền mã hóa quá biến động và thiếu minh bạch. Dù thừa nhận rằng khách hàng của mình có thể rất quan tâm nhưng ngân hàng này cho biết họ sẽ không cổ xúy tiền mã hóa như một loại tài sản đầu tư trong mảng quản lý tài sản của họ.

Đi xa hơn nữa, HSBC cũng cho biết họ sẽ không dấn thân vào mảng tiền mã hóa có giá trị ổn định (stablecoin) như đồng tiền Tether. Thay vào đó, HSBC quan tâm đến tiền số ngân hàng trung ương (CBDC) mà một số nước như Mỹ và Trung Quốc đang xem xét hoặc đã thử nghiệm. Với HSBC, sự hấp dẫn của CBDC ngoài những ưu thế của tiền số nói chung còn là sự minh bạch và chức năng lưu giữ giá trị mạnh mẽ của chúng.

Cũng có thể các ngân hàng từ chối bitcoin một phần vì lý do như lý do mà nhà đầu tư tỷ phú Ray Dalio, nhà sáng lập quỹ phòng hộ lớn nhất thế giới Bridgewater Associates lo ngại cho tương lai của bitcoin. Đó là rủi ro lớn nhất cho bitcoin chính là sự thành công của nó. Khi đó, nó sẽ bị các ngân hàng trung ương, các Chính phủ tìm cách triệt hạ bởi đã trở nên hấp dẫn, cạnh tranh hơn trái phiếu. Nên quan điểm của những ngân hàng như HSBC cũng là dễ hiểu khi không muốn đổ nguồn lực vào một lĩnh vực mà tương lai hoàn toàn bất định, thay cho thứ dễ đoán định hơn, như CBDC.

Như vậy, có thể nói sự chia rẽ trong lập trường về bitcoin và các loại tiền mã hóa của các ngân hàng nằm ở cán cân giữa lợi ích và rủi ro nghiêng về phía nào trong con mắt của từng ngân hàng. Điều này cũng dễ hiểu nếu lấy ví dụ qua việc cùng một chứng khoán nhưng các ngân hàng lại đưa ra các khuyến nghị trái ngược nhau. Nhưng có điều chắc chắn là con số các ngân hàng chấp nhận hoặc không chấp nhận bitcoin sẽ ngày càng tăng mạnh chứ không dừng lại ở con số vài chục cho mỗi bên như hiện tại, bởi tương lai của các đồng tiền mã hóa phi nhà nước như bitcoin sẽ ngày càng trở nên rõ nét hơn.

Sunday 6 June 2021

Dự thảo quy định cho vay đặc biệt: Lấy từ túi người này trả cho người kia? (Bài đăng trên KTSG, 6/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/td/316915/du-thao-quy-dinh-cho-vay-dac-biet-lay-tu-tui-nguoi-nay-tra-cho-nguoi-kia.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo thông tư quy định về cho vay đặc biệt từ NHNN, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, và tổ chức tín dụng (TCTD) khác đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Lãi suất cho vay đặc biệt là lãi suất ưu đãi đến mức 0%.

Đáng chú ý trong dự thảo thông tư trên là quy định cho vay đặc biệt từ các tổ chức nói trên, ngoài NHNN.

Trước tiên, xét về cho vay đặc biệt của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam. Tổ chức này cho vay đặc biệt hỗ trợ thanh khoản với TCTD khi TCTD mất khả năng chi trả trong thời gian TCTD được kiểm soát đặc biệt. Tương tự, Bảo hiểm Tiền gửi cho vay đặc biệt với công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô có nguy cơ mất khả năng chi trả. Bảo hiểm Tiền gửi cũng cho vay đặc biệt để hỗ trợ phục hồi với công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô theo phương án phục hồi đã phê duyệt.

Việc cho vay các đối tượng như trên lẽ ra không phải là chức năng và nhiệm vụ của Bảo hiểm Tiền gửi. Nhưng nếu NHNN đã muốn như vậy thì hãy coi đó là chức năng, nhiệm vụ bổ sung của nó. Điều đáng  nói ở đây là, nguồn tiền cho vay đặc biệt của Bảo hiểm Tiền gửi là từ Quỹ dự phòng nghiệp vụ của nó, chứ không phải là nguồn tái cấp vốn từ NHNN như lẽ thông thường cần phải có nếu NHNN muốn Bảo hiểm Tiền gửi đảm đương thêm/hộ những chức năng và nhiệm vụ mà lẽ ra là của NHNN.

Cụ thể hơn, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm Tiền gửi được hình thành từ các nguồn sau: Tiền thu phí bảo hiểm tiền gửi hàng năm; Thu nhập từ hoạt động đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi; Các khoản tiền bảo hiểm không có người nhận theo quy định; Số tiền còn lại (nếu có) từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; Chênh lệch thu chi tài chính còn lại hàng năm sau khi trích lập Quỹ đầu tư phát triển và Quỹ khen thưởng, phúc lợi theo quy định; và Thu nhập từ các khoản cho vay đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.(1)

Như vậy, theo quy định, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm Tiền gửi hoàn toàn không có nguồn thu/bổ sung, cấp phát từ NHNN. Nguồn thu chính của nó là từ tiền thu phí bảo hiểm do TCTD nộp. Do đó, khi Bảo hiểm Tiền gửi cho vay đặc biệt đối với TCTD thì Quỹ dự phòng nghiệp vụ của nó sẽ hao hụt tùy theo mức độ cho vay đặc biệt này. Và như vậy cũng có nghĩa là nguồn tiền có sẵn để đề phòng và chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền sẽ hao hụt tương ứng.

Đó là chưa kể thiệt hại thông thường cho Bảo hiểm Tiền gửi (không xét đến chuyện TCTD được Bảo hiểm Tiên gửi cho vay nhưng không có khả năng sống sót, dẫn đến mất vốn), khi phải cho vay với lãi suất ưu đãi đến 0% so với nếu tiền trong Quỹ này được đầu tư vào các sản phẩm khác như trái phiếu Chính phủ, tuy lãi suất cũng thấp nhưng còn cao hơn nhiều so với lãi suất 0%.

Dẫu quy định hiện thời (trong Thông tư 20/2020/TT-BTC) yêu cầu Bảo hiểm Tiền gửi cho vay đặc biệt phải đảm bảo nguyên tắc không được làm ảnh hưởng đến khả năng chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền, nhưng vấn đề là làm sao xác định chỉ được cho vay bây nhiêu và bây nhiêu cần phải giữ lại trong quỹ để phòng trường hợp hữu sự, và làm sao biết được là khi hữu sự thì con số đó có đủ để chi trả cho người gửi tiền mà không bị vỡ quỹ?

Trong khi đó, hạn mức của việc chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi – sứ mệnh chính của Bảo hiểm tiền gửi – thì vẫn còn rất thấp; cơ quan chức năng vẫn còn đắn đo chuyện tăng hạn mức này. Và thực tế là sau nhiều năm thì hạn mức này mới chỉ được điều chỉnh tăng từng bước, gần đây nhất là 75 triệu đồng (năm 2017), lên mức... đề xuất hồi năm 2020 là 125 triệu đồng (không rõ bao giờ sẽ thành thật), mặc dù ai cũng nhận thức rõ rằng hạn mức cao hơn là một sự đảm bảo tốt hơn, một sự cam kết mạnh mẽ hơn của Chính phủ để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.    

Tất nhiên là nếu trường hợp xấu như vỡ quỹ của Bảo hiểm Tiền gửi có xảy ra thì NHNN chắc sẽ phải can thiệp và hỗ trợ chứ không thể bỏ mặc nó tự xoay xở. Nhưng nếu là vậy thì sao NHNN không quy định thêm trong dự thảo rằng NHNN sẽ tái cấp vốn cho Bảo hiểm Tiền gửi khi cần? Nhưng nếu quy định thêm như vậy thì rốt cuộc NHNN đâu cần sự tham gia của Bảo hiểm Tiền gửi? Nói cách khác, vẫn chưa thấy có lý do hợp lý để đưa Bảo hiểm Tiền gửi vào trong dự thảo thông tư này.

Tương tự như vậy khi xét đến sự tham gia của Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam trong cho vay đặc biệt với TCTD. Nguồn cho vay đặc biệt lấy từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân – cũng được hình thành tự phí trích nộp của Ngân hàng Hợp tác xã và các quỹ tín dụng nhân dân thành viên, chứ không phải từ NHNN. 

Và cũng như vậy là việc TCTD khác cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Nguồn vốn cho vay đặc biệt cũng là của riêng của TCTD cho vay đặc biệt mà không thấy nói gì đến trách nhiệm bồi thường, bổ sung, bù đắp của NHNN đối với TCTD cho vay.

Tóm lại, NHNN cần quy định rõ nếu Bảo hiểm Tiền gửi, Ngân hàng Hợp tác xã, và các TCTD khác có tham gia cho vay đặc biệt theo chỉ đạo của NHNN thì nguồn vốn cho vay phải là từ NHNN mà không được động chạm gì đến nguồn vốn của riêng các tổ chức này, để đảm bảo chúng hoạt động bình thường đúng với sứ mệnh và chức năng mà chúng được tạo ra. Ngoài ra, cũng cần quy định rõ khi nào, trong hoàn cảnh nào thì cần sự tham gia của những tổ chức này vào việc cho vay đặc biệt, mà không phải là NHNN trực tiếp đảm trách theo đúng chức năng mà luật pháp quy định cho NHNN.

(1) http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=296&CtrName=detail&CatID=18&ArticleId=8007


Friday 4 June 2021

Gia tăng áp lực cắt giảm phát thải trong ngành năng lượng (Bài đăng trên Đầu tư, 4/6/2020, bản gốc)

https://baodautu.vn/gia-tang-ap-luc-cat-giam-phat-thai-trong-nganh-nang-luong-d144021.html

Ngày 26/5, có hai sự kiện pháp lý lớn cùng xảy ra trong ngành dầu khí thế giới. Sự kiện đầu tiên là một tòa án quận ở The Hague (Hà Lan) ra phán quyết rằng gã khổng lồ dầu khí Royal Dutch Shell phải cắt giảm phát thải 45% vào năm 2030 từ mức của năm 2019. Hơn nữa, phán quyết cũng yêu cầu Shell không những phải chịu trách nhiệm cắt giảm phát thải riêng của mình phát sinh từ các hoạt động khoan giếng dầu và các hoạt động khác mà còn phát sinh từ việc sử dụng các sản phẩm nhiên liệu, khí và dầu của người tiêu dùng.  

Giới quan sát cho rằng phán quyết trên, là phán quyết đầu tiên trên thế giới thuộc loại này, sẽ là tiền lệ để các nước, nhất là châu Âu, áp đặt các chế tài mạnh mẽ hơn lên phát thải của các công ty dầu khí  thế giới. Các doanh nghiệp trong các ngành phát thải lớn như nông nghiệp, giao thông vận tải và khai khoáng cũng sẽ phải đổi mặt với yêu cầu chặt chẽ hơn về môi trường.

Vụ kiện với cáo buộc việc sản xuất nhiên liệu và khí đốt của Shell đã góp phần làm biến đổi khí hậu và vi phạm nghĩa vụ phải chăm sóc các đối tượng bị ảnh hưởng cũng như nhân quyền được tiến hành bởi chi nhánh tại Hà Lan của tổ chức về môi trường “Những người bạn của Trái đất”. Thay vì đòi bồi thường thiệt hại, tổ chức này đòi tòa phải buộc Shell giảm phát thải của mình.

Sự kiện thứ hai xảy ra cùng ngày ở Mỹ theo đó cổ đông Engine No 1, là một quỹ phòng hộ, chỉ nắm giữ có 0,02% cổ phần của Exxon Mobil, đã giành được ít nhất là hai ghế đại diện trong Ban giám đốc của Exxon trong cuộc họp cổ đông thường niên tuần này. Engine No 1 đã tiến hành một chiến dịch vận động mạnh mẽ thách thức chiến lược chuyển đổi năng lượng của Exxon, cũng như sự phản ứng của Exxon với biến đổi khí hậu.

Mô tả Exxon như một công ty khủng long (trì trệ, chậm thay đổi), Engine No 1 thúc giục Exxon dần đa dạng hóa chiến lược đầu tư để chuẩn bị cho một thế giới sử dụng ít nhiên liệu hóa thạch trong những thập kỷ tới. Exxon thì bảo vệ chiến lược mở rộng các giếng khoan của mình, lập luận rằng nhu cầu về nhiên liệu và nhựa sẽ tiếp tục mạnh mẽ trong những năm tới. Về chiến lược đối phó biến đổi khí hậu, Exxon cho biết họ có một bộ phận mới chuyên về thu giữ và lưu trữ carbon.

Engine No 1 nhận được sự ủng hộ từ một số trong những cổ đông lớn nhất của Exxon như BlackRock và một vài quỹ hưu trí lớn nhất của Mỹ. Những cổ đông này tán thành bỏ phiếu cho các đại diện của Engine No 1 và tin rằng Exxon cần phải tiếp tục tìm hiểu khả năng nhu cầu nhiên liệu hóa thạch sẽ giảm nhanh chóng trong những thập kỷ tới.

Về phần mình, các quỹ đầu tư này, gồm BlackRock cũng ký tên cam kết thực hiện mục tiêu giảm phát thải về 0 vào năm 2050 hoặc sớm hơn. Họ đã thúc giục các công ty mà mình đầu tư vào phải chuẩn bị cho những bất ổn đến từ biến đổi khí hậu. Đáp trả chỉ trích rằng không nên nhảy vào những địa hạt của các nhà chính trị, BlackRock nói thẳng rằng “rủi ro khí hậu chính là rủi ro đầu tư”.

Xu hướng mới

Các vụ việc trên cho thấy bối cảnh trong ngành công nghiệp dầu khí đang thay đổi nhanh chóng. Các doanh nghiệp trong ngành phải đối mặt với áp lực ngày càng lớn hơn từ các nhà bảo vệ môi trường, nhà đầu tư, ngân hàng cho vay, các chính trị gia và nhà làm luật đòi hỏi họ phải chuyển đổi sang những dạng năng lượng sạch hơn.

Nhiều  công ty dầu khí lớn đã bắt đầu thực thi các kế hoạch cắt giảm phát thải lớn, và một số trong đó, đặc biệt ở châu Âu, đã chuyển sang thành những nhà sản xuất chuyên biệt về năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, giảm phát thải mà không phải hy sinh lợi nhuận là một thách thức lớn. Vì thế, nhiều người hoài nghi vào các chiến lược chuyển đổi của các công ty năng lượng thế giới với quan ngại rằng các chiến lược này chỉ là để cho có, mang tính hình thức, để đối phó với sự chỉ trích của dư luận là chính, trừ khi chúng bị áp đặt các chỉ tiêu cắt giảm cụ thể, như với Shell.    

Hàm ý cho Việt Nam

Chính phủ Việt Nam vào tháng 7/2020 cam kết cắt giảm 9% phát thải vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường, và tăng mức cắt giảm lên 27% khi có hỗ trợ quốc tế. Các biện pháp cắt giảm được xác định cho các lĩnh vực gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý chất thải, và công nghiệp.

Tuy nhiên, cho đến nay, dường như chưa có một mục tiêu cắt giảm cụ thể nào dành cho những đối tượng phát thải lớn cụ thể nào (ít nhất là không thấy có ngành dầu khí), trong khi thời gian cũng không phải là còn quá dài, nhất là xét đến việc chuyển đổi chiến lược và mô hình sản xuất, kinh doanh không thể diễn ra một sớm một chiều.

Nếu tình trạng trống vắng này không được khắc phục ngay thì sẽ dẫn đến tình trạng không ngành nào, doanh nghiệp nào bị quy trách nhiệm không đóng góp vào mục tiêu cắt giảm phát thải chung của quốc gia, dẫn đến sự phá sản của các cam kết bảo vệ môi trường của Việt Nam trước thế giới. 

Trong khi đó, ở cấp độ ngành và doanh nghiệp, tình hình xem ra chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc các doanh nghiệp đang “xem xét” và “bàn thảo”, mà chưa có ngành/doanh nghiệp nào đã đưa ra một kế hoạch/chiến lược cụ thể với những phương pháp cụ thể và mục tiêu cụ thể theo mốc thời gian cụ thể về cắt giảm phát thải.

Nói cách khác, việc thiếu vắng các (chương trình) hành động cụ thể với các mục tiêu cụ thể ở từ cấp độ Chính phủ đến ngành và doanh nghiệp là một thách thức chính cho việc hoàn thành mục tiêu cam kết giảm phát thải của Việt Nam trong các năm tới với quốc tế.

Lấy ví dụ cụ thể về ngành dầu khí, với đại diện là PVN. Vào tháng 9/2020, tập đoàn này vẫn khẳng định chiến lược phát triển biến PVN thành một tập đoàn lượng với tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là lĩnh vực cốt lõi. Riêng về giảm phát thải và biện pháp liên quan như chuyển đổi năng lượng, PVN cũng chỉ đề cập một cách chung, chủ yếu theo kiểu như xác định đó là việc cần làm. (1) Nếu PVN có lúc nào đó đề cập cụ thể hơn về vấn đề bảo vệ môi trường thì đó thường chỉ là tập trung vào khía cạnh an toàn để giảm thiểu các tai nạn và ô nhiễm liên quan đến các hoạt động sản xuất của PVN như sự cố tràn dầu, xử lý dung dịch khoan và mùn khoản thải từ các công trình dầu khí trên biển, quản lý và xử lý chất thải, khí thải, nước thải trong công nghiệp lọc hóa dầu..., mà không thấy đề cập cụ thể họ có kế hoạch cắt giảm phát thải không, bao nhiêu và làm thế nào.(2)

Nếu tình trạng cứ tiếp tục như thế này thì không chỉ là việc Việt Nam không đạt được mục tiêu cam kết với thế giới mà còn là khả năng các doanh nghiệp phát thải lớn của Việt Nam sẽ bị phản đối, tẩy chay, chia rẽ và kiện cáo như sự việc xảy ra với Exxon và Shell nói trên.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).