Monday 30 April 2012

Các công cụ chính sách hay nhất ở NHNN trong mắt tớ

Nếu hỏi tớ rằng thấy cái gì hay nhất (theo cái nghĩa là thú vị) ở NHNN thì tớ sẽ nói đó chẳng phải là chuyện NHNN phải quay như đèn kéo quân, xoay từ cực này sang cực khác như chong chóng, nhưng chẳng phải là do mình tự quay mà là ông nào đó (tất nhiên không phải là ông Thống đốc) ngồi ở đâu đó hà hơi thổi cho quay.
Thôi, nói luôn cho nhanh, đó là 2 công cụ chính sách: lãi suất cơ bản và tỷ giá liên ngân hàng. Cái trước thì hình như đã nằm im bất động dễ đến cả năm nay và người ta đã gần quên biến mất sự tồn tại của nó, trừ đồng chí Bùi Kiến Thành và các học trò/người ăn theo đồng chí ấy. Các đồng chí này thỉnh thoảng vẫn tua lại điệp khúc, đại loại, lãi suất cơ bản là 8%/năm, theo luật gì gì đó thì lãi suất cho vay không được vượt tối đa lãi suất cơ bản là 150%, và vì thế hiện nay các ngân hàng thương mại đều phạm luật; để hạ lãi suất thì chỉ cần đưa các ngân hàng này ra tòa là xong. (Sau này thì đồng chí đưa thêm cái giải pháp thật như đùa là NHNN ra sức in tiền theo đúng chức năng của mình để cấp vốn lãi suất thấp cho nền kinh tế). Trong bối cảnh có như không này, tớ mới thấy khó hiểu là tại sao NHNN không có động thái gì với lãi suất cơ bản này cả, chẳng hạn khai tử, khai quật, gí điện cho sống lại v.v... Hay tại NHNN có nhiều công cụ và chính sách quá nên quên biến mất nó thật rồi?
Cái công cụ thứ hai là tỷ giá liên ngân hàng. Nếu cứ chiểu theo cái tên thìtỷ giá liên ngân hàng phải thay đổi chí ít là hàng ngày. Ấy vậy không biết làm ăn thế nào mà tỷ giá này cũng bất động có đến cả vài tháng trời, cứ như thể phiên giao dịch ngoại tệ cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng diễn ra cách đây vài tháng rồi ấy. Viết đến đây, tớ lờ mờ nghi nghi rằng hay đây là chiêu độc của NHNN nhằm biến tuyên bố của Thống đốc thành hiện thực. Trước đây, đồng chí Thống đốc đã tuyên bố tỷ giá không tăng quá 3%/năm nay. Với cái chiêu bó bột tỷ giá thế này thì thậm chí đồng chí Thống đốc hoàn toàn có khả năng làm tỷ giá hạ chứ không phải là tăng quá 3%/năm nữa. Tất nhiên, tỷ giá ngoài chợ đen có là bao nhiêu chăng nữa thì đó vẫn không phải là tỷ giá mà đồng chí Thống đốc muốn nói đến.

Nhưng vì lý do gì chăng nữa, cho đến hiện tại có thể nói rằng cái tỷ giá này cũng là thừa, ở trên cái nghĩa là nó chẳng có tác dụng thực tế gì, ngoại trừ vai trò làm cơ sở để cho ngân hàng thương mại tính toán tỷ giá mua bán niêm yết gọi là cho nó có ở quầy giao dịch (còn tỷ giá giao dịch thực tế thế nào thì Chúa mới biết, chứ không phải NHNN đâu nhé!). Thừa nhưng vẫn tồn tại, thế mới hay. Cứ như thể nhân viên NHNN lười quá, không thèm cập nhật số liệu mà cứ lập trình sẵn để máy tính tự động copy số liệu của ngày hôm trước cho ngày hôm sau, thành ra cái nông nỗi này.


Sunday 29 April 2012

Sao lại có sự trùng hợp đến thế nhỉ?


Hôm nay tớ lò mò theo một cái link dẫn đến blog của đồng chí TS Lê Hồng Giang. Đọc qua mấy entry, đặc biệt là cái entry này, tớ khoái quá, vì thấy đồng chí Giang có suy nghĩ rất giống tớ ở nhiều vấn đề chính sách, nhất là cái chuyện đồng chí Giang chắc cũng rất dị ứng với mấy đồng chí như Trần Hoàng Ngân, Bùi Kiến Thành.

Vừa mới mấy hôm trước tớ đã phải uất quá mà làm một cái entry riêng để nhắc nhở mấy đồng chí này rằng hãy nhớ cho kỹ tình hình bây giờ để mà đừng bao giờ “quân sư quạt mo” cho Chính phủ nữa nhé (tức quá mà nói vậy thế thôi, chứ tớ chẳng trông mong các đồng chí này tỉnh ngộ ra, sáng láng ra được). Đồng chí Giang thì có vẻ lịch sự và dễ chịu hơn tớ nhiều (chẳng biết tại sao lại được như vậy) nên chỉ dùng những từ phê phán khá nhẹ nhàng, đúng mực, nhưng nội dung thì cũng từa tựa rứa.

Tớ mà làm thủ tướng, chắc tớ không bao giờ tuyển dụng đồng chí Giang vào các chân như Bộ trưởng Tài chính hay Thống đốc NHNN, đơn giản vì Chính phủ mà toàn những người suy nghĩ giống nhau thế thì... nhàm quá, không có gì mà mang ra tranh luận trong các phiên họp Chính phủ cả!

Friday 27 April 2012

Tại sao tái cơ cấu hệ thống ngân hàng lại phải tốn phí nhỉ?


Tớ đọc mấy bài viết bởi, hoặc trả lời phỏng vấn của các chuyên gia có đặt ra vấn đề tái cơ cấu cần một phí tổn lên tới dăm tỷ đôla lận. Cứ theo cách nhìn nhận của các chuyên gia này thì dường như việc phải tốn kinh phí là điều đương nhiên; việc chuẩn bị được nguồn kinh phí này là tiền đề cho tái cơ cấu; và nhà nước sẽ là người phải gánh chịu kinh phí này. Có nghĩa là nếu nhà nước không có, không bỏ ra kinh phí thì đừng có nghĩ đến tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Lạ!
Cứ theo tuyên bố của NHNN thì nợ xấu trong toàn hệ thống hiện tại mới là 3,6%. Con số này mới chỉ lớn hơn con số của năm 2011 trên dưới 1 điểm %, tức là tăng thêm khoảng trên dưới 1 tỷ đôla (tổng dư nợ tín dụng theo công bố là 120% GDP gì đó). Việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trước đó chưa bao giờ được đặt ra một cách nghiêm túc (theo kiểu hoặc là sống, hoặc là chết), và nếu có thì chỉ được nhấn mạnh bởi lý do là có quá nhiều ngân hàng, chứ không phải bởi lý do là nợ xấu ở mức cao và đang tăng lênh nhanh. Và xét cho cùng, nợ xấu trong thời nào cũng có, và có lẽ bình thường ra thì mức nợ xấu một vài phần trăm có lẽ chẳng bao giờ là điều gây ra bận tâm cho những ai có liên quan.
Số ngân hàng có vấn đề lại là những ngân hàng nhỏ, mà nhóm này, theo cách phân loại của NHNN, chỉ chiếm chưa đến 10% (chẳng biết là 10% của cái gì, có thể là tổng dư nợ chăng?) .

Từ hai yếu tố này suy ra rằng sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam thực ra không tệ lắm, và việc tái cơ cấu, nếu có, thì chỉ diễn ra ở một số ngân hàng nhỏ, yếu, không có mấy ảnh hưởng đến các ngân hàng còn lại. Nói cách khác, tái cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng là điều không thích hợp trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.
Thêm một yếu tố nữa. Hình như tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam đều báo lãi, tuy mức độ ít nhiều có khác nhau.

Kết hợp tất cả các yếu tố trên, có thể suy ra rằng, thứ nhất, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thực ra, nếu cần, thì chỉ là tái cơ cấu một số ngân hàng nhỏ, yếu, và vì thế quy mô tái cơ cấu không thể gọi là lớn được; thứ hai, nếu có phải dùng đến kinh phí để tái cơ cấu thì dùng ngay phần lãi của các ngân hàng có vấn đề, và, nếu không đủ, thì dùng chính vốn chủ sở hữu ngân hàng có vấn đề đó.  Những nguồn kinh phí này chắc là thừa đủ đáp ứng nhu cầu phí tổn, nếu có, cho tái cơ cấu.
Tất nhiên, vấn đề quan trọng cần xét đến là chuyện Chính phủ nói riêng và các nhóm lợi ích nói chung có chịu để các ông chủ ngân hàng tự chặt chân mình như thế này hay không mà thôi, hay cứ muốn phải để dân lành phải gánh chịu thay.

Cũng tất nhiên, nếu con số tỷ lệ nợ xấu thực ra không phải là 3,6% mà là gấp thế 3, 4 lần như các hãng xếp hạng tín dụng nghi ngờ, thì mức độ cần thiết phải chặt hết chân tay, thậm chí cả đầu các ông chủ ngân hàng sẽ còn tăng lên nữa, nhưng chắc cũng chưa đến mức phải chặt thêm cả chân tay của dân lành để thêm vào cho đủ làm kinh phí tái cơ cấu.

Tuesday 24 April 2012

Xoay đồng chí TS Vũ Thành Tự Anh một cái!


Tớ thấy bài này của đồng chí Vũ Thành Tự Anh liên quan đến doanh nghiệp nhà nước, chợt nhớ lại 2 bài tớ viết vào 21/2 và 22/2/2009 phản biện lại “Báo cáo Harvard” mà đồng chí này là một thành viên chắp bút. 2 bài này tớ gửi cho VNN, tưởng cứ được đăng vì căn cứ vào thái độ rất chi là thiện chí của ban biên tập. Thế rồi thế nào đó mà cuối cùng “bài lờ” được sử dụng, báo hại tới phải cắt 2 bài này thành các bài nhỏ hơn theo từng chủ đề để đăng các báo khác. Mời các đồng chí bỏ chút công sức xem qua, vì bài rất dài.

Bài 1

Một số nhận xét về những khuyến nghị chính sách của “nhóm Harvard”

Trong tình hình nền kinh tế suy giảm tăng trưởng do khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự lúng túng về chính sách đối phó của Chính phủ, sự ra đời của những báo cáo và khuyến nghị về chính sách như của “nhóm Harvard” với trình độ học thuật cao của những người chắp bút quả là một điều đáng mừng. Không phải ngẫu nhiên mà những báo cáo kiểu này thường được đón đọc với sự trân trọng của nhiều người, có lẽ một phần lớn là do cái thương hiệu Harvard mang lại.

Tuy vậy, nếu chịu khó đọc và phân tích sâu một chút sẽ thấy chúng có không ít “sạn”. Hai (trích đoạn) báo cáo gần đây nhất của nhóm này đăng trên VNN về vấn đề kích cầu và đầu tư ở Việt Nam cũng vậy.

Trước tiên, hãy bắt đầu từ bài khuyến nghị thứ nhất được đặt dưới tiêu đề “Kích cầu ở Việt Nam – Những khuyến nghị từ nhóm Harvard”. Bài viết bắt đầu bằng một so sánh về khoảng trống lựa chọn chính sách, với việc cho rằng: “Những nền kinh tế nhỏ có tỷ lệ nhập khẩu trong tổng tiêu dùng cao không thể kích cầu đơn giản chỉ bằng cách tăng chi tiêu công và hạ lãi suất vì khi ấy, nhu cầu tăng thêm sẽ được thỏa mãn bởi hàng nhập khẩu và việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới lạm phát.”

Về chuyện nhập khẩu sẽ tăng lên, điều này chỉ đúng với điều kiện là hàng rào thuế quan và phi thuế quan không thay đổi (hoặc không tồn tại). Nếu song song với việc tăng chi tiêu công và hạ lãi suất bằng việc tăng thuế nhập khẩu hoặc áp đặt các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế quan khác như hàng rào kỹ thuật, xuất sứ hàng hóa v.v... thì hậu quả của chính sách này không nhất thiết là nhập khẩu tăng lên. Nhiều trong số những biện pháp trợ giá, cứu trợ đây đó trên thế giới gần đây chính là một dạng của chính sách này.

Về chuyện lạm phát tăng do hạ lãi suất, điều này cũng chỉ đúng khi người có vốn (ví dụ người gửi tiết kiệm) có nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục tài sản và phòng rủi ro lạm phát (chẳng hạn mua vàng và ngoại tệ cất trữ, hoặc đầu tư vào bất động sản). Nếu song song với chính sách hạ lãi suất là các biện pháp kiểm soát hành chính, ví dụ chính sách liên quan đến việc nắm giữ và lưu thông ngoại tệ để cho không phải ai muốn là có thể mua và nắm giữ ngoại tệ được thì việc tăng cung tiền (hạ lãi suất) không nhất thiết dẫn đến lạm phát. Hơn nữa, ở nhiều nước đang bị khủng hoảng như hiện nay, hạ lãi suất không dẫn đến lạm phát vì giá trị các loại tài sản đều giảm sút mạnh không kém, nếu không muốn nói là hơn nhiều (giống như ở Việt Nam mới mấy tháng trước đây), và bởi vậy tiền mặt vẫn được coi là vua. Người ta chấp nhận đầu tư vào trái phiếu Chính phủ Mỹ với lãi suất bằng không vì chẳng còn biết đầu tư vào đâu để bảo toàn được tài sản của mình nữa, chứ chưa nói đến chuyện sinh lãi.

Tiếp theo, bài viết cho rằng: “Tương tự như vậy, ở những nước có chế độ tỷ giá cố định, khi lãi suất giảm doanh nghiệp và người dân sẽ không tiêu tiền mà thay vào đó sẽ tích trữ vàng và ngoại tệ mạnh.” Như đã nói ở trên, điều này không phải luôn đúng, nếu Chính phủ áp dụng nghiêm ngặt và chặt hơn các biện pháp kiểm soát hành chính để hạn chế việc chuyển đổi và nắm giữ các loại tài sản này (thực ra Việt Nam cũng đang áp dụng một số biện pháp kiểm soát ngoại hối nhưng không hữu hiệu và không đủ liều lượng).

Quan trọng hơn, nếu đã là chế độ tỷ giá cố định và nếu lãi suất VND giảm đi nhưng giả sử vẫn còn lớn hơn lãi suất ngoại tệ (hoặc vàng) ở trong nước thì người ta cũng chẳng phải nhọc công tích trữ vàng và ngoại tệ làm gì. Nếu đem gửi tiết kiệm bằng VND người ta vẫn có lãi hơn là gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ vốn có lãi suất thấp hơn, và sau khi đáo hạn, chẳng hạn là một năm sau, nếu thích thì người ta có thể quy đổi ngược lại từ VND ra ngoại tệ với tỷ giá cố định của một năm về trước đó để thu được một khoản cả vốn lẫn lãi lớn hơn so với nếu đem gửi một năm trước bằng ngoại tệ. Và trong bối cảnh đó, nếu chọn tích trữ ngoại tệ và vàng để dưới chiếu không ra đồng lãi nào thì chẳng hóa ra là thiệt đơn thiệt kép?

Sau đó, bài khuyến nghị mang trường hợp của Trung Quốc ra so với Việt Nam và kết luận rằng không gian lựa chọn chính sách của Việt Nam rất hẹp so với nước này. Kết quả của sự so sánh này đương nhiên là đúng như họ kết luận, nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao lại đi so sánh chàng lùn Việt Nam với gã khổng lồ Trung Quốc? Tại sao không so sánh Việt Nam với những nước cũng tầm tầm như thế trong khu vực như Indonesia, Myanmar, Philippines v.v...? Nếu so sánh với những nước này, liệu kết luận có còn giữ nguyên? Thực ra, nếu chỉ để chứng minh rằng không gian lựa chọn chính sách của Việt Nam rất hẹp thì chẳng cần đến một so sánh quốc tế nào như thế này cả mà hãy xuất phát ngay từ các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam như thâm hụt ngân sách, cán cân vốn, cán cân thương mại, lạm phát, mức lên giá của nội tệ v.v... và những chỉ số này tự bản thân chúng nói lên rằng Việt Nam có những lựa chọn gì và khả thi đến đâu.

Bài khuyến nghị đề cập đến việc lên giá của VND như là một trong những nguyên nhân làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu, gây ra thâm hụt thương mại lớn. Lý thuyết cũng nói như vậy. Nhưng cần lưu ý rằng tỷ giá chỉ là một trong những yếu tố tác động lên xuất nhập khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng rất mạnh ngay cả trong những thời kỳ mà nhóm Harvard cho rằng VND đã lên giá mạnh và liên tục. Các tác giả cần phải kể thêm rằng có nhiều yếu tố khác giúp nhà xuất khẩu Việt Nam vẫn có lãi cho dù tỷ giá chống lại họ. Đó có thể là những biện pháp trợ giá xuất khẩu, hỗ trợ tín dụng và lãi suất cho sản xuất và xuất khẩu. Đó cũng có thể là những ưu đãi về thuế, khuyến khích xuất khẩu (thưởng cho thành tích xuất khẩu, xúc tiến thương mại) và những biện pháp khác. Như vậy, nói cách khác, xuất khẩu của Việt Nam cho đến nay dường như không mấy nhậy cảm với tỷ giá.

Ngược lại, nhập khẩu tăng mạnh (thậm chí mạnh hơn xuất khẩu) còn có những lý do khác như đặc thù cơ cấu kinh tế (xuất khẩu dựa nhiều vào đầu vào nhập khẩu), chính sách kinh tế (thay thế hàng nhập khẩu bằng cách khuyến khích FDI vào khu vực này, để rồi khoảng một nửa sản lượng hàng hóa FDI được tiêu thụ trên thị trường nội địa, đồng nghĩa với việc phải tăng nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động này. Các doanh nghiệp trong nước cũng được khuyến khích theo chính sách này), hoặc do tính cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp trong nước làm cho sản phẩm của họ không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, buộc người tiêu dùng phải lựa chọn hàng nhập khẩu v.v...

Xét đến những yếu tố này thì kiến nghị phá giá VND là chưa đủ cơ sở và không thuyết phục. Lưu ý thêm rằng tuy người viết cũng công nhận chuyện VND lên giá là một thực tế và việc phá giá VND là một việc trước hay sau cũng phải làm, nhưng có lẽ người ta cần phải nghĩ sâu hơn một chút tới tính thời điểm và hậu quả của việc làm này. Cũng như nhận định của nhóm Harvard, việc phá giá có thể sẽ làm tỷ giá tăng quá mức khi người ta mất niềm tin vào VND, vào khả năng kiểm soát tình hình của các cơ quan chức năng. Quả thật, ở thời điểm nhạy cảm như hiện nay, mọi động thái chính sách đều cần phải rất thận trọng vì nó có thể gây ra những cuộc khủng hoảng khác mà đôi khi hậu quả còn lớn hơn là những gì mà cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang đem đến cho Việt Nam. Bởi vậy, một tín hiệu rõ ràng từ phía cơ quan chức năng rằng VND sẽ bị phá giá (và sẽ bị phá giá nhiều để lập lại cân bằng trong cán cân thương mại căn cứ vào tỷ giá hiệu dụng như trong tính toán của nhóm Harvard) trong nay mai (mặc dù có thể theo từng bước) có lẽ sẽ gây ra một cuộc xáo trộn lớn trong nền kinh tế và xã hội, là điều tuyệt đối nên tránh trong thời điểm này. Có lẽ đây là lý do để Ngân hàng Nhà nước vẫn đang duy trì một chính sách hối đoái “mờ mờ tỏ tỏ”, và dường như rất nghịch lý là chính sách hối đoái như hiện nay lại tỏ ra “được việc”. Làm như khuyến nghị của nhóm Harvard xin hãy nên để đến một thời điểm chưa được/thể xác định.

Chuyển sang một vấn đề khác là đầu tư công. Dựa vào mức thâm hụt ngân sách cao, nhóm Harvard khuyến nghị Chính phủ lập lại ưu tiên trong đầu tư, hướng vào các dự án tạo việc làm, duy trì nhu cầu nội địa để giảm thiểu thâm hụt thương mại và khuyến khích sản xuất trong nước v.v... Dường như nhóm tác giả có sự đánh đồng giữa đầu tư công và đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, nếu hiểu theo nghĩa đầu tư công chỉ là đầu tư trực tiếp từ ngân sách thì những kiến nghị của nhóm cũng cần phải xem lại một chút. Vì thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã ở mức rất cao hiện nay (5% đến gần 7% GDP, tùy theo cách tính) và đã kéo dài nhiều năm, hơn thế lại có xu hướng tăng lên mạnh hơn nữa khi nhiều biện pháp trong gói kích cầu tổng thể trị giá 6 tỷ đôla có liên quan đến thu chi ngân sách đã và sắp được thi hành tới đây (theo tác giả tính toán mức thâm hụt sẽ tăng thêm lên khoảng tối đa là 2,5% GDP), nên điều cần làm trước tiên là xác định cho được mục tiêu ưu tiên của chính sách kinh tế trong thời gian tới là gì. Nếu song song với mục tiêu kích cầu, kích đầu tư có cả mục tiêu kiềm chế lạm phát thì trước hết phải cắt giảm đầu tư công rồi mới tính đến việc có cần sắp xếp lại đầu tư công hay không. Nói phải cắt giảm đầu tư công vì trong điều kiện thâm hụt ngân sách cao và sẽ tăng thêm lên như vậy và lại muốn hạ lãi suất để kích thích đầu tư thì đầu tư công thường chỉ có thể trang trải bằng những biện pháp có hậu quả làm tăng lạm phát (phát hành tiền, vay nợ nước ngoài để rồi VND hóa chúng). Mà lạm phát đã thật sự quay trở lại trong 2 tháng đầu năm, thậm chí với tốc độ nguy hiểm, chứ không như nhiều chuyên gia cho rằng thời điểm này không phải bận tâm đến chuyện kiềm chế lạm phát vì khó xảy ra lạm phát.

Ngược lại, nếu không cần bận tâm đến lạm phát thì đương nhiên chẳng cần phải sắp xếp, xác lập lại ưu tiên trong đầu tư như kiến nghị của nhóm.   

Nhóm tác giả cũng phê phán đầu tư của Chính phủ vào các dự án lọc dầu và cảng biển. Sự phê phán này có thể là đúng đắn nếu xuất phát từ mục tiêu mạng lại hiệu quả kinh tế và nếu thực tế sau này cho thấy hiệu quả kinh tế của các dự án là thấp. Nhưng ở đây có một thiếu sót trong lập luận của họ. Nếu Chính phủ coi mục tiêu giải quyết công ăn việc làm ngay trong thời gian tới là ưu tiên chính sách hàng đầu thì những dự án này, hay nói chung là bất cứ dự án nào có thể triển khai ngay được, sẽ phải được coi là đúng đắn vì chúng sẽ tạo ra thêm công ăn việc làm. Nếu hình dung những dự án như lọc dầu sẽ thu hút hàng nhiều ngàn lao động cả phổ thông và kỹ thuật trực tiếp tham gia vào dự án, chưa kể hàng vạn lao động sẽ liên quan gián tiếp đến dự án như cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu, giao thông vận tải, dịch vụ... thì sẽ chẳng có gì phải phê phán các dự án này cả.

Hơn nữa, cứ tạm cho là tính hiệu quả kinh tế của dự án tại thời điểm này là thấp. Nhưng đây là những dự án chỉ có thể hoàn thành sau vài năm xây dựng nên những dự toán kinh tế ban đầu đều có thể trật lấc sau thời gian đó, và người ta không thể khẳng định ngay tại thời điểm này rằng mấy năm nữa các dự án lọc dầu này vẫn sẽ không có tính hiệu quả kinh tế (cũng như ngược lại). Xét cho cùng, trong thời điểm hiện nay nếu không đầu tư xây nhà máy lọc dầu mà thay vào đó là đầu tư xây dựng, ví dụ, cơ sở hạ tầng đường xá, như phần lớn dư luận tán đồng, thì tính hiệu quả về kinh tế của đầu tư công cũng vẫn không được đảm bảo là sẽ cải thiện. Rủi ro về dự án lọc dầu khi xong sẽ sản xuất ra dầu với giá cao hơn đối thủ cạnh tranh có lẽ cũng không lớn hơn rủi ro về một con đường có thu phí khi xây xong sẽ không có đủ nhiều người sử dụng tại một mức phí nhất định để thu hồi vốn trong một thời gian nhất định.

Sau cùng, nhóm tác giả khuyến nghị thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công nhằm điều tra hoạt động liên quan đến đầu tư công. Đây cũng là điều cần phải xem lại vì chắc nhóm tác giả cũng hiểu rõ rằng vấn đề hiệu quả kém ở Việt Nam không phải là do thiếu ban bệ, thiếu tổ công tác, ban kiểm soát, thiếu nghị định, thông tư, hướng dẫn, cũng như thiếu chế tài kiểm tra và xử phạt.

Tóm lại, cảm nhận của người viết về các khuyến nghị này là sự thiếu vắng về chiều sâu của kiến thức và bề rộng của tầm nhìn, chưa kể đến tích sách vở của chúng. Những vấn đề này sẽ còn được tiếp tục được người viết mổ xẻ thêm trong bài viết tiếp theo nhân khi đọc bài khuyến nghị chính sách thứ hai của nhóm Harvard cũng đăng trên VNN với tựa đề “Báo cáo Harvard: VN cần chuẩn bị cho phục hồi tăng trưởng”.

Bài 2

Một số nhận xét về những khuyến nghị chính sách của “nhóm Harvard”- Bài 2

            Bài viết này sẽ tiếp tục nhận xét và đánh giá tính đúng đắn và hợp lý của những khuyến nghị và các luận điểm của nhóm Harvard được nêu ra trong bài khuyến nghị chính sách thứ hai của họ đăng trên VNN với tựa đề “Báo cáo Harvard: VN cần chuẩn bị cho phục hồi tăng trưởng”.

            Điều gây chú ý đầu tiên là danh mục những điều Chính phủ phải làm. Có lẽ cũng không khác gì so với nhiều báo cáo của các nhóm tư vấn nước ngoài, bài khuyến nghị của nhóm Harvard cũng liệt kê một loạt những việc mà Chính phủ phải làm: “Một cách vắn tắt, Chính phủ cần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng những cơ sở hạ tầng thiết yếu, mở rộng cơ hội tiếp cận với giáo dục phổ thông và đại học đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục các cấp, hạn chế rủi ro có tính hệ thống trong khu vực ngân hàng và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp và nền kinh tế thông qua việc xóa bỏ vị thế độc quyền và những đặc quyền của các công ty có thế lực trên thị trường nội địa.”

            Ngoài chuyện “nhàm”, việc liệt kê các đầu mục công việc như thế này buộc người ta phải than lên “biết rồi, khổ lắm!” để rồi hỏi lại “muốn được thế nhưng làm như thế nào?”. Chẳng hạn, làm thế nào để duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô? Có Chính phủ nào chẳng muốn ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng trong hoàn cảnh bùng nhùng, đầy bất ổn và khó khăn như thế này thì phải bắt đầu từ đâu, bằng cái gì, như thế nào, bao lâu, trả giá thế nào, kết quả đến đâu v.v...?

Phải xây dựng những cơ sở hạ tầng thiết yếu ư? Thì đúng như cái tên, những cơ sở hạ tầng này chắc là rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế. Nhưng vấn đề đầu tiên là tiền lấy ở đâu trong khi Chính phủ phải đang giật gấu vá vai, đang phải đối phó với nhiều cái phải chi mà nếu ngẫm kỹ ra thì cũng không thể đừng được? Tiếp theo sẽ là một loạt câu hỏi tương tự như đoạn trên.

Chắc rằng hỏi thì cứ hỏi thế thôi chứ khó hy vọng có câu trả lời xác đáng, không ngọng nghịu. Bởi nếu không phải vậy thì ta cũng chẳng còn dịp ngồi bàn luận đến những vấn đề này ở đây nữa rồi. Ngay trong bài khuyến nghị chính sách này của nhóm Harvard cũng còn nhiều bất hợp lý. Thật nóng lòng được thấy từ phía các chuyên gia tư vấn một chính sách phát triển tổng thể ít cái “phải” và nhiều cái “làm như thế này, bắt đầu từ đây...” một cách khả thi.

Tiếp theo, nhóm tác giả lý luận rằng: “Chính sách khuyến khích sự hình thành và phát triển của các công ty có năng lực cạnh tranh bất kể thành phần kinh tế đóng vai trọng tâm trong nỗ lực nâng cao tốc độ tăng trưởng”, để dẫn nhập đến 2 câu hỏi của họ dành cho Chính phủ trước mỗi lựa chọn chính sách: (1) liệu những thay đổi chính sách đang được đề xuất có góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước trở nên cạnh tranh hơn hay không? và (2) tác động của chính sách có tạo thêm việc làm mới không? 

Việc cho rằng chính sách khuyến khích hình thành và phát triển các công ty có năng lực cạnh tranh có vai trò trọng tâm trong nỗ lực nâng cao tốc độ tăng trưởng không  phải luôn đúng. Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể có lợi thế cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế (ví dụ, về giá và sản lượng) nhưng điều này không hẳn là có lợi cho tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội, nếu, ví dụ, sự cạnh tranh này có được là nhờ những biện pháp trợ giá, trợ cấp từ phía Chính phủ (như đã nêu qua trong bài viết trước). Như tính toán của người viết (xem Phan et al. 2003), dồn nguồn lực từ khu vực kinh tế nội địa cho khu vực xuất khẩu của Việt Nam (khu vực có tính cạnh tranh quốc tế) đã đóng góp không đáng kể vào việc làm tăng thêm tăng trưởng GDP, hay, nói cách khác, khu vực xuất khẩu đã không mang lại một động năng tăng trưởng cho các khu vực kinh tế khác.

            Về câu hỏi 1 của nhóm tác giả, nếu luôn phải cân nhắc đến câu trả lời cho câu hỏi này thì e rằng sẽ chẳng bao giờ Chính phủ có thể đi đến được một lựa chọn chính sách nào cả, đơn giản vì hầu như bất kể một chính sách nào khi đưa ra bao giờ cũng sẽ làm lợi cho một nhóm hoặc một số nhóm quyền lợi và làm thiệt hại một (số) nhóm quyền lợi khác. Một minh họa là chính sách khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xuyên được đề xuất bởi các chuyên gia và các nhóm tư vấn. Nhưng vì nguồn lực của Chính phủ là một con số hữu hạn nên nếu giành ưu tiên cho nhóm doanh nghiệp này (ví dụ vốn để đầu tư công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất) thì phải cắt giảm ưu tiên tương tự dành cho nhóm doanh nghiệp nhà nước. Kết quả là tính cạnh tranh của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tăng lên song song với tính cạnh tranh của nhóm doanh nghiệp nhà nước sẽ giảm đi tương đối.

            Liên quan đến câu hỏi 2, đặt mục đích tạo việc làm mới bên cạnh năng lực cạnh tranh, tức là vừa phải tăng cường năng lực cạnh tranh vừa phải tạo thêm việc làm trong lý luận xuyên suốt của nhóm tác giả về vai trò trọng tâm của năng lực cạnh tranh lên tăng trưởng kinh tế có thể là một sự “tham lam” quá mức về chính sách. Để đưa câu hỏi 2 vào bối cảnh tăng cường năng lực cạnh tranh thì nhóm tác giả cần chứng minh rằng tăng cường tính cạnh tranh của doanh nghiệp và tạo thêm công ăn việc làm là 2 mục đích có quan hệ hữu cơ với nhau và hỗ trợ cho nhau.

Theo người viết, không nhất thiết 2 mục đích này có quan hệ như vậy. Bởi vậy, nếu phải luôn cân nhắc đáp ứng được cả 2 mục đích này cùng lúc thì có lẽ chẳng mấy khi đi đến được quyết định. Chẳng hạn, nếu Chính phủ hạ thuế nhập khẩu và lãi suất cho vay để nhập khẩu máy móc và thiết bị hiện đại nhằm tăng năng suất cho một ngành nghề nào đó thì doanh nghiệp trong ngành đó sẽ có xu hướng sử dụng nhiều hơn máy móc thiết bị và, ngược lại, sẽ sử dụng ít đi lao động. Như thế, một mặt thì tính cạnh tranh sẽ được cải thiện, nhưng mặt khác thì số việc làm có thể giảm đi.

Cũng có trường hợp cực đoan là sẽ tạo ra những doanh nghiệp mà chỉ sử dụng tối thiểu thiết bị máy móc và sử dụng tối đa lao động phổ thông với tiền lương rẻ mạt để tạo ra tính cạnh tranh về giá thành đồng thời thỏa mãn được mục tiêu tạo thêm việc làm. Nhưng một lựa chọn chính sách kinh tế như vậy là một cái bẫy nghèo đói trong trung và dài hạn nên chắc không có chỗ tồn tại.

            Cũng liên quan đến câu hỏi thứ 2, nhóm tác giả đã trích dẫn một công trình nghiên cứu để rút ra 2 kết luận “đáng lo ngại”: “Thứ nhất, so với vài năm trước, tỷ lệ việc làm mới do một đơn vị tăng trưởng tạo ra đã giảm đi rất nhiều. Thứ hai, tỷ lệ số việc làm mới tăng thêm khi khu vực nhà nước tăng trưởng thêm một phần trăm đã giảm nhanh trong bốn năm trở lại đây và thấp hơn nhiều so với hai khu vực còn lại. Thực tế là trong giai đoạn 2005 – 2007, tăng trưởng của khu vực nhà nước không hề tạo ra việc làm mới.”

            Xin được bình luận cái “đáng lo ngại” thứ nhất trước, mặc dù các tác giả không triển khai gì thêm ở đây để chứng minh nó đúng là đáng lo ngại. Như đã nói ở phần trên, mục tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh không nhất thiết song hành với mục tiêu tạo việc làm. Những ngành, bộ phận kinh tế có tính cạnh tranh nhất, là đầu tầu kéo tốc độ tăng trưởng GDP lên nhanh trong thời gian qua lại là (phải là) những ngành tạo ra giá trị thặng dư lớn (cả tương đối và tuyệt đối) so với ngành khác, và bởi vậy thường là những ngành thâm dụng vốn, chứ không phải là những ngành thâm dụng lao động (vốn thường có mức lương thấp).

Số liệu thống kê cho thấy tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP có xu hướng tăng lên trong suốt thời gian qua. Điều này cũng có nghĩa là vai trò tương đối của vốn trong tăng trưởng kinh tế tăng lên, và đổi lại, vai trò tương đối của lao động giảm đi. Minh chứng cho nhận định này là hai nghiên cứu của người viết xuất bản trong năm 2008 (xem tài liệu tham khảo dưới đây). Hai nghiên cứu này (có cùng chủ đề đánh giá vai trò của các nguồn lực lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam) cũng đều cho thấy vốn là nguồn đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế (từ 85% đến 95%; lao động chiếm phần còn lại, còn tiến bộ công nghệ không đóng góp gì), và vai trò của lao động đã giảm mạnh đi trong giai đoạn sau đổi mới so với giai đoạn trước đổi mới. Với đặc thù của nền kinh tế và cơ cấu tăng trưởng như vậy, dễ hiểu là trong chừng mực tiến bộ công nghệ không đóng vai trò gì trong tăng trưởng như ở Việt Nam trong thời gian qua còn vốn thì cứ tiếp tục tăng lên tương đối so với GDP thì số việc làm mới được tạo ra theo thời gian càng giảm đi một cách tương đối tính theo một đơn vị GDP mới tạo ra.           

            Tiếp tục phát triển vấn đề. Vậy thực tế trên gây ra sự “đáng lo ngại” ở chỗ nào? Phải chăng ý của nhóm tác giả là muốn được thấy một cơ cấu tăng trưởng mà ở đó đóng góp tương đối của lao động trong tăng trưởng GDP phải tăng lên, nếu không thì cũng phải giữ nguyên. Nhưng nếu xét đến các hàm sản xuất nêu trong 2 nghiên cứu trên, điều này có nghĩa là đóng góp của vốn và/hoặc tiến bộ công nghệ phải giảm đi. Nhưng vì tiến bộ công nghệ là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để tăng năng lực cạnh tranh, nên nếu giảm nó đi thì liệu các doanh nghiệp có thể duy trì và cải thiện được năng lực cạnh tranh của mình, là cái mà nhóm Harvard nhấn mạnh, hay không? Còn nếu để cho đóng góp của vốn giảm đi (ví dụ trong năm sau và các năm sau nữa mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực nhà nước, đều cắt giảm vốn đầu tư), liệu người ta có thể chắc rằng số việc làm mới tạo ra cũng như tốc độ tăng trưởng không bị ảnh hưởng? Những mâu thuẫn này tự chúng là một minh chứng cho tính khập khiễng khi để 2 mục tiêu tăng cường tính cạnh tranh và tạo thêm việc làm mới trong chính sách khuyến nghị của nhóm Harvard.

             Tiếp theo, ta bàn tới cái “đáng lo ngại” thứ 2. Tăng trưởng của khu vực nhà nước không hoặc tạo ra ít việc làm mới có một lý do bắt nguồn từ việc khu vực này đang được tái cơ cấu và sắp xếp lại. Với chương trình cổ phần hóa, một bộ phận doanh nghiệp trước đây được thống kê vào khu vực kinh tế nhà nước nay được chuyển thành khu vực kinh tế dân doanh (như trong bảng thống kê mà nhóm Harvard sử dụng). Như vậy, bỏ sót chi tiết này đã cho thấy bức tranh mà nhóm Harvard vẽ ra là không chính xác.

            Quan trọng hơn, cho dù con số thống kê số người lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp nhà nước có giảm đi tương đối so với các khu vực kinh tế khác, điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp nhà nước không tạo ra nhiều công ăn việc làm vì ta còn phải xét đến số lượng công ăn việc làm gián tiếp được tạo thêm ra do sự tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước. Như đã lấy ví dụ trong bài viết trước, cũng giống nhà máy lọc dầu Dung Quất, một nhà máy lọc dầu thứ hai rất có thể sẽ tạo ra hàng vạn việc làm gián tiếp, mà rất có thể khu vực kinh tế dân doanh chiếm một phần lớn. Như vậy, để nói cho đúng, cho đủ, các tác giả cần phải làm một phép thống kê để tính xem tổng số việc làm mới, cả trực tiếp và gián tiếp, của mỗi khu vực kinh tế (nhà nước, dân doanh, FDI) được tạo ra hàng năm là bao nhiêu, rồi từ đó mới làm phép tính về tỷ lệ việc làm mới được tạo ra từ một đơn vị tăng trưởng GDP của mỗi khu vực này. Chỉ khi làm được như vậy với kết quả không mấy thay đổi so với tính toán hiện thời thì các tác giả mới nên “lo ngại”. Đấy là chưa kể đến chuyện lựa chọn cái nào, năng lực cạnh tranh hay tạo việc làm như nêu ở đoạn trên. Nhân đây cần nêu thêm rằng doanh nghiệp nhà nước không nhất thiết có tính cạnh tranh kém hơn các doanh nghiệp khác, dân doanh hay FDI. Tính toán của người viết (xem Phan and Ramstetter, 2004) cho thấy doanh nghiệp nhà nước có năng suất vốn thậm chí còn cao hơn cả doanh nghiệp FDI, và tất nhiên cao hơn nữa nếu so với doanh nghiệp dân doanh.

            Những sai sót trên đương nhiên sẽ làm cho kết luận và khuyến nghị của nhóm về chuyện không nên bơm vốn cho doanh nghiệp nhà nước trở nên không còn cơ sở và mất hoàn toàn sức thuyết phục, ngoại trừ khuyến nghị chung chung, nói trong hoàn cảnh nào cũng đúng: “Chính phủ phải sử dụng các nguồn lực của mình để tạo lập những điều kiện cần thiết giúp tăng cường năng lực cho mọi doanh nghiệp bất kể thành phần sở hữu, làm tiền đề cho tăng trưởng công bằng và bền vững”.

            Chuyển sang một vấn đề khác là khuyến nghị của nhóm hạn chế chuyện đầu tư ra ngoài ngành của các doanh nghiệp nhà nước. Sự bành trướng sang các lĩnh vực trái ngành không chỉ diễn ra bởi các doanh nghiệp nhà nước mà còn cả các doanh nghiệp dân doanh và FDI khi họ nhìn thấy các cơ hội kiếm tiền quá dễ dãi như trong thời gian qua. Mở ngân hàng và công ty tài chính, công ty chứng khoán, bảo hiểm không chỉ có các doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, dường như mũi dùi lại chỉ chĩa vào doanh nghiệp nhà nước. Điều này có hợp lý hay không, không cần xét đến. Thay vào đó, đặt ngược lại câu hỏi, liệu các doanh nghiệp nhà nước còn có “gan” để tiếp tục dấn thân vào những ngành này nữa không khi chúng đang là “của nợ” của không ít doanh nghiệp trong cơn khủng hoảng này? Thêm vào chuyện (có thể sẽ có) cắt giảm nguồn vốn ưu đãi rót từ ngân sách cũng như mọi ưu đãi mang tính phân biệt khác, liệu có cần phải đưa ra những quy định cấm đoán doanh nghiệp nhà nước đầu tư trái ngành (mà lại còn theo một tỷ lệ nhất định) nữa không?

            Nhóm tác giả cũng đã không chính xác khi nói rằng mô hình tập đoàn đa ngành (có cả tài chính, ngân hàng...) đều thất bại ở các nước thử nghiệm. Họ chỉ liệt kê ra các mô hình này ở Indonesia và Chile mà “quên” không kể thêm rằng chúng cũng đã từng rất thành công ở Hàn Quốc (chaebol) hoặc Nhật Bản (zaibatsu), và từng là nền tảng để họ vươn lên thành nước công nghiệp hóa.

            Lấy ví dụ Vietnam Airlines và Lilama cùng nhau thành lập công ty bảo hiểm, nhóm tác giả cho rằng việc tự bảo hiểm cho mình là một việc làm hết sức phi lý. Có thể không phi lý chút nào cả nếu trong công ty con này chỉ có một phần vốn của các công ty mẹ và phần còn lại là do những đối tác khác, và đây chính là những người sẽ bảo hiểm cho các công ty mẹ. Trong trường hợp xấu nhất thì ở đây cũng có 2 đối tác là Lilama và Vietnam Airlines cùng bỏ vốn ra, và như vậy thì có thể coi là họ bảo hiểm cho nhau, đâu có gì là phi lý?

Rồi chuyện công ty bảo hiểm con này chắc sẽ phải mua hợp đồng tái bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm khác cũng được nhóm tác giả coi là một chuyện đáng bàn (vì được họ nêu ra). Tuy vậy, nếu nhắc lại rằng chuyện tái bảo hiểm là để san xẻ gánh nặng tài chính cho các công ty bảo hiểm khi rủi ro thực sự xảy ra thì tự thân chuyện tái bảo hiểm chẳng có gì đáng bàn ở đây cả.

Đáng nói hơn, từ ví dụ về công ty bảo hiểm này, nhóm tác giả đột nhiên đưa ra nhận định: “Đây là một ví dụ về các DNNN kiếm được lợi nhuận một cách dễ dàng nhờ mối quan hệ hơn là nhờ năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế và khả năng tạo ra giá trị thông qua sáng tạo và lao động nghiêm túc”. Trong ví dụ trên, đâu có thấy nói gì đến “DNNN kiếm được lợi nhuận một cách dễ dàng”? Thêm nữa, dễ dàng và hợp pháp, hợp lý (như người viết lập luận ở đoạn trên) thì sao lại không theo, không làm?

            Tương tự như vậy, người đọc có thể thấy những đoạn viết tiếp theo của nhóm tác giả về chuyện đầu tư trái ngành, tách bạch lợi ích v.v... là những đoạn văn ghép vụng về, nhiều sạn, bất hợp lý.

            Ta hãy chuyển sang phần kết luận và 7 khuyến nghị của nhóm. Như đã phân tích ở bài trước và bài này, cần xem lại khuyến nghị thứ nhất (phá giá VND), khuyến nghị thứ ba (thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công). Đối với các khuyến nghị khác, ta cần phân tích thêm một chút.

Về khuyến nghị thứ hai (xem xét lại ưu tiên đầu tư công), nhóm tác giả đề nghị phải tập trung đầu tư công vào các dự án thâm dụng lao động, và ở các trung tâm kinh tế lớn. Xin lưu ý một điểm là các dự án thâm dụng lao động là những dự án trực tiếp sử dụng nhiều lao động nhưng không nhất thiết là những dự án sẽ tạo ra nhiều lao động gián tiếp liên quan. Bởi vậy, quan trọng hơn lời khuyến nghị đầu tư vào dự án thâm dụng lao động phải là khuyến nghị đầu tư vào dự án nào mà sẽ đem lại tổng cầu lao động (cả gián tiếp và trực tiếp) lớn hơn khi phải so sánh. Với cái nghĩa này, đôi khi đầu tư vào các dự án thâm dụng vốn lại tạo ra được nhiều công ăn việc làm hơn là những dự án thâm dụng lao động trực tiếp.

Về khuyến nghị thứ tư (ngừng giấy phép thành lập ngân hàng, tài chính, bảo hiểm...), đây là một khuyến nghị hết sức phi lý. Nếu các nhà đầu tư đáp ứng được các yêu cầu về thành lập mới các tổ chức này thì cớ sao lại từ chối cấp phép cho họ?

Còn khuyến nghị thứ bảy (phải khuyến khích cạnh tranh) vừa chung chung (nói đâu cũng đúng), vừa không chính xác khi cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam không thể có năng lực cạnh tranh thế giới nếu chúng không được tập dượt cạnh tranh trên thị trường nội địa. Như đã nói ở phần trên, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có tính cạnh tranh không hẳn là do năng lực của bản thân mà còn do những trợ giúp của Chính phủ. Vì thế, nếu để họ sống bằng thị trường trong nước thì họ sẽ chết yểu vì không được hưởng những ưu đãi đó nữa, nhưng lại có lãi (có tính cạnh tranh) khi được vùng vẫy ở thị trường quốc tế.
Cuối cùng, cũng như đã viết ở bài trước, ở đây có lẽ người viết chỉ tán đồng duy nhất với khuyến nghị thứ năm (không nên tăng thêm thâm hụt ngân sách), và một phần của khuyến nghị thứ sáu (lạm phát sẽ quay trở lại nên phải thận trọng với gói kích cầu). Đây có lẽ là điều còn đọng lại khi đọc bài khuyến nghị dài này.
 

Tài liệu tham khảo

1.      Phan Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh and Phan Thuy Nga, 2003. “Export and long-run growth in Vietnam, 1975-2001”, ASEAN Economic Bulletin, Vol. 20, No. 3.

2.      Phan Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. “Foreign multinationals and local firms in Vietnam’s economic transition”, Asian Economic Journal, Vol. 18, No. 4.

3.      Phan Minh Ngoc, 2008. “The roles of capital and technological progress in Vietnam’s economic growth”, Journal of Economic Studies, Vol. 35, No. 2.

4.      Phan Minh Ngoc, 2008. “Sources of Vietnam’s economic growth”, 2008. Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.




Monday 23 April 2012

Xin các đồng chí nhớ kỹ cho nhé!

CPI đã giảm xuốngmức rất thấp (0.05% tháng 4 này) và đâu đâu cũng nghe thấy nói về tình hình thiếu cầu, thừa cung hàng hóa nên nền kinh tế đang được cho là ở tình trạng “đình đốn”. Điều mà tớ thấy có ý nghĩa nhất từ tình hình này không phải là chuyện doanh nghiệp đang phá sản hàng loạt mà là chuyện liên quan đến ý kiến của các đồng chí tiến sĩ/chuyên gia như Bùi Kiến Thành, Trần Hoàng Ngân, Cao Sĩ Kiêm v.v... Chưa kể đến một số đồng chí dạng “còm còm” hơn, ít tên tuổi, chức danh nên ít thu hút được sự chú ý của dư luận.

Các đồng chí này trước đây và cho đến cả gần đây luôn nhấn mạnh rằng lãi suất cao làm cho doanh nghiệp phải tăng giá bán, dẫn đến lạm phát cao. Có đồng chí còn đi xa hơn, nói rằng tình trạng đình đốn này sẽ dẫn đến lạm phát cao mấy tháng tới đây vì thiếu... cung.
Tớ thì từ trước đến nay vẫn cho rằng kiểu ý kiến này là, nói gọn lại, rất vớ vẩn, vì lạm phát cao dẫn đến thắt chặt chính sách tiền tệ và rốt cuộc làm cho tổng cầu giảm, (thừa) trung hòa áp lực lạm phát do chi phí vốn tăng từ phía doanh nghiệp, và/hoặc tổng cung giảm.
Nay, tình trạng đình đốn với lạm phát ở mức thấp như trên là một bằng chứng sống động cho cái vớ vẩn của các đồng chí nêu trên. Tớ chỉ mong các đồng chí, nếu còn được hỏi ý kiến, được phỏng vấn về sau, khi nền kinh tế lặp lại chu kỳ lạm phát tăng, lãi suất tăng, thắt chặt tiền tệ, doanh nghiệp khó khăn v.v... thì hãy nói như.... tớ nói nhé, cho nó đúng cơ bản!

Tớ nản với các đồng chí lắm!

Friday 20 April 2012

Đề án tái cơ cấu kinh tế - lạ và quen (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=244327

07:44 | 21/04/2012
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của kinh tế giai đoạn 2011 - 2012 và định hướng đến 2020 trình lên UBTVQH. Có thể thấy một số điểm lạ bên cạnh những điểm quen trong báo cáo này.
Bao quát toàn bộ Đề án, cơ quan soạn thảo nhấn mạnh rằng, công cuộc tái cơ cấu kinh tế phải được thực hiện “vừa tuần tự tiệm tiến, vừa tăng tốc đột phá”. Trong đó, “tuần tự tiệm tiến” ở những ngành có công nghệ ít thay đổi song phải “tăng tốc đột phá” với các ngành công nghệ thay đổi nhanh, bởi những ngành này cần chọn, áp dụng các công nghệ hiện đại nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh, tăng sức bật đối với nền kinh tế.
Có thể coi đây là cái lạ nổi bật nhất so với những đề án và kế hoạch tương tự về hoạch định chiến lược và chính sách phát triển kinh tế cho đến nay. Tuy nhiên, thật khó mà nói rằng cái lạ này là cái mới, cái hay về nội dung, ngoài chuyện (thuật dùng) chữ nghĩa quả là có lạ, có mới thật.
Vì không biết thật rõ được mô tả chi tiết cho cái chiến lược “tuần tự tiệm tiến” áp dụng ở những ngành có công nghệ ít thay đổi nên chúng ta không thể bàn luận được gì nhiều ở đây. Nhưng suy luận logic cho thấy đây có thể là chiến lược phát triển theo chiều rộng, áp dụng ở những ngành mà đầu tư chiều sâu, ví dụ vào đổi mới máy móc, công nghệ là không cần thiết, không đòi hỏi (nhiều). Cùng một suy luận logic như vậy thì chiến lược “tăng tốc đột phá” là chiến lược phát triển theo chiều sâu, nhấn mạnh vào tầm quan trọng trong đầu tư cho công nghệ hiện đại (và thay đổi nhanh chóng) để ngõ hầu luôn ở tư thế bắt kịp và cập nhật tiến bộ công nghệ của thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam duy trì được sức cạnh tranh quốc tế trong những ngành này.


Nguồn: tuantin.vn
Lột tả được một cách dễ hiểu và cụ thể hơn bản chất của chiến lược được gói gọn trong 10 chữ trên, ta lại thấy rằng nó chẳng có gì là lạ, và càng không phải là mới, chỉ là những cái nghe quen quen. Trong các văn kiện về đường lối phát triển kinh tế từ trước đến nay, ta vẫn nghe nói đến cụm từ phát triển kinh tế theo chiều rộng và chiều sâu. Thậm chí, chúng ta cũng đã cho ra đời cái cụm từ “đi tắt đón đầu”, là một cách biểu hiện khác của cái vế sau của chiến lược 10 chữ nói trên. Và nhân đây cũng cần nhấn mạnh rằng, chiến lược “tăng tốc đột phá” hay “đi tắt đón đầu” không phải cứ muốn là áp dụng được vì đơn giản là còn nhiều yếu tố kèm theo phải được thỏa mãn. Ví dụ, công nghiệp điện tử là một điển hình cho ngành có công nghệ và thiết bị luôn thay đổi, và cũng là một trong 7 nhóm ngành được bản đề án xác định cần phải ưu tiên (ở đây ta chưa bàn đến tính hợp lý, đúng đắn của việc chọn ra 7 nhóm ngành này, mặc dù rõ ràng là có một số vấn đề liên quan). Nhưng để phát triển được ngành này trước tiên cần phải có một đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân viên lành nghề để có thể đảm đương được những công đoạn thiết kế, chế tạo đòi hỏi chuyên sâu. Nếu yêu cầu này không được đáp ứng đầy đủ thì rốt cuộc chúng ta chỉ có thể phát triển được một ngành công nghiệp điện tử dựa trên lắp ráp là chủ yếu như hiện tại. Mà vấn đề lại nằm ở chỗ để phát triển được đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên và công nhân lành nghề này không phải là đơn giản, và khó có thể thực hiện được ngay kể cả trong hàng thập kỷ nữa chứ chưa nói đến trong một vài năm.
Tương tự như vậy, tất cả các ngành được xác định ưu tiên sẽ cần một lượng nhân lực chất xám khổng lồ, càng làm trầm trọng thêm vấn đề thiếu hụt nhân lực thuộc loại này mà chắc chắn nền giáo dục và đào tạo ở Việt Nam còn lâu mới có thể theo kịp đòi hỏi. Tự thân điều này cho thấy nhìn thấy vấn đề và giải quyết được vấn đề là 2 chuyện khác nhau hoàn toàn, không mấy khi song hành với nhau.
Những định hướng và chính sách khác trong Đề án cũng khó có thể nói là lạ và mới. Ví dụ, Đề án đề cập khá rõ về định hướng về vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp, người đầu tư. Theo đó, “đối với chuyển dịch tăng tốc, đột phá thì vai trò của Nhà nước là kiến tạo và hỗ trợ phát triển bằng việc xác định ngành ưu tiên phát triển, trực tiếp hoặc tham gia đầu tư dưới các hình thức thích hợp, trực tiếp xây dựng cơ sở hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, dẫn dắt, định hướng và lôi kéo các nhà đầu tư, các bên khác có liên quan cùng tham gia thực hiện chương trình tăng tốc, đột phá phát triển các ngành, sản phẩm ưu tiên”. Định hướng trên dường như thấy phảng phất tinh thần của chiến lược phát triển với doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo, định hướng, ví dụ, đầu tư vào những lĩnh vực mũi nhọn, những lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức, không quan tâm v.v... mà thực ra đều thuộc những lĩnh vực được ưu tiên trong đề án này và từ trước đến nay đều chịu sự chi phối và độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước.
Về các giải pháp, Đề án cũng trình ra 12 nhóm giải pháp để tái cơ cấu kinh tế, trong đó đề nghị “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh để huy động tối đa và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư tư nhân trong và ngoài nước”. Khỏi cần nói rằng những giải pháp này đã quá quen thuộc, điều quan trọng, xin nhấn mạnh lại lần nữa, là liệu có biến được những nhận thức như vậy thành thực tế được không mới là điều đáng nói.
Tương tự, kiến nghị: “Cần phải đổi mới chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư, cơ chế quản lý đầu tư nhằm thu hút và định hướng đầu tư tư nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển các ngành, nghề ưu tiên phát triển”, thoạt nghe có vẻ là một bước tiến mới về lập trường chính sách. Nhưng nếu xét cho kỹ và công bằng thì tinh thần “đổi mới” này đã có từ thời “Đổi mới” hồi những năm 80!
Các định hướng và quan điểm khác trong Đề án cũng chịu chung số phận (tức là chẳng có gì mới lạ về bản chất) khi chúng chỉ lặp lại các nhận thức về sự cần thiết phải làm điều này, điều kia, ví dụ tái cơ cấu tổ chức tín dụng và mục đích của việc này. Bình thường, chẳng cần phải có một chương trình tái cơ cấu kinh tế đồ sộ, toàn diện, tốn kém và đầy xáo trộn, việc lành mạnh hóa hệ thống tài chính mỗi khi có vấn đề phát sinh là một việc làm thường xuyên, tất yếu và cách làm, công cụ thì cũng chẳng có gì mới lạ nữa, còn mục đích thì cũng đương nhiên như Đề án đề ra.
Giải pháp đảm bảo sự bình đẳng về quyền và cơ hội kinh doanh giữa các doanh nghiệp để cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh vi mô của môi trường kinh doanh cũng đã xưa như trái đất. Còn định hướng “cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy tái cơ cấu doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức… phấn đấu đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại v.v...” chỉ là sự lặp lại của các văn kiện Đại hội Đảng đã qua.
Như vậy, có thể nói không quá rằng Đề án tái cơ cấu kinh tế tổng thể lần này chỉ là một sự tập hợp một cách có hệ thống và chọn lọc (hơn) tất cả các định hướng chính sách và chiến lược phát triển kinh tế, kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm từ trước đến nay. Song, các mục tiêu và giải pháp thì vẫn chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, nặng về tính duy ý chí (muốn làm, phải thực hiện...) và nhẹ về tính khả thi (muốn nhưng có làm được không, làm như thế nào...).

Tớ thực sự không muốn là con chim báo bão


Tối nay, tớ đọc được cái tin báo CPI của Hà Nội tháng 4 này đã bị âm và chắc chắn rằng CPI của cả nước sẽ nhỏ hơn 0.1% mà giật cả mình. Chắc chắn rồi thì từ ngày mai sẽ có một loạt ý kiến gay gắt hơn nữa đòi hỏi chính phủ phải giảm lãi suất, tăng cung tiền, kích cầu hết cỡ để cứu cái này, cái kia. Ôn cố tri tân, tới nhớ lại bài dưới đây, viết vào ngày 25/3/2009 (sau ngày công bố CPI của cả nước ở mức âm), đăng trên tờ Đại biểu Nhân dân, và post lên đây để độc giả tiện so sánh sự tương đồng giữa hai thời kỳ và kết quả của những dự đoán trong bài, từ đó liên hệ đến triển vọng lạm phát trong nửa cuối năm nay và đầu năm sau. Tớ thực sự hy vọng rằng lần này tình hình sẽ không diễn ra giống như những tiên đoán hồi năm 2009, không thì khốn khổ cho Việt Nam lắm lắm.


Không thể chủ quan với nguy cơ lạm phát trở lại

            Chỉ số giá cả tiêu dùng tháng 3 đã giảm lại về mức âm sau 2 tháng tăng, đặc biệt trong tháng 2. Điều này đã dẫn đến những kiến nghị tích cực kích cầu, rót vốn hơn nữa cho nền kinh tế mà không sợ lạm phát quay trở lại.

            Những kiến nghị này thường dựa trên lập luận rằng giá cả giảm là do sức cầu trong nước yếu và một phần là do ảnh hưởng của sụt giảm giá cả trên thế giới. Trong xu thế nhu cầu nội địa tiếp tục suy yếu (và không thấy đề cập gì đến xu hướng giá cả thế giới), một số người cho rằng nếu và cần phải tích cực kích cầu mạnh và đẩy nhanh cho vay hơn nữa cũng sẽ không làm cho giá cả tăng, mà dẫn chứng sống động là chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 này đã sụt giảm.

            Trong lập luận trên có một số điểm bất ổn. Thứ nhất, chương trình cho vay kích cầu mới chỉ thực sự được khởi động trong thời gian gần đây, và quy mô còn nhỏ so với kế hoạch. Hơn nữa, dư luận cũng đã đề cập đến tình trạng đi vay để đảo nợ của doanh nghiệp, nên mặc dù dư nợ cho vay mới có tăng lên, người ta còn phải kể đến số dư nợ bị giảm do doanh nghiệp trả lại nợ cũ. Bù trừ qua lại thì tổng dư nợ thực trong nền kinh tế có thể không tăng mạnh như người ta tưởng, và do đó tác động lên lạm phát từ nguồn này có thể là chưa “lộ mặt”, chưa rõ nét. Tình hình có thể sẽ khác đi nhiều sau một vài tháng hoặc thậm chí cả hàng năm nữa khi tình trạng đảo nợ chấm dứt và các doanh nghiệp tích cực vay vốn mới để đổ vào sản xuất, đầu tư do lãi suất tiếp tục được hạ thấp xuống hoặc doanh nghiệp tiếp tục được hỗ trợ về lãi suất.

            Thứ hai, tuy rằng giá cả thế giới sụt giảm làm cho giá cả hàng nhập khẩu cũng suy giảm, làm giảm áp lực lạm phát ở Việt Nam, nhưng cần lưu ý rằng VND đang có xu hướng mất giá so với USD (mới đây nhất là mở rộng biên độ lên 5%) và do đó hàng nhập khẩu tính theo VND không nhất thiết giảm hoặc giảm mạnh như xu hướng giá cả quốc tế cho thấy. Một minh chứng rõ ràng rằng một số mặt hàng tiêu dùng như sữa tiếp tục xu hướng tăng, mặc dù đúng là giá sữa bột bằng USD đã giảm nhiều so với trước đây.

Hơn nữa, giá cả thế giới đã giảm mạnh trong thời gian qua nhưng không có gì đảm bảo rằng chúng sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới. Giá cả nhiều hàng hóa sẽ ổn định, tuy ở mức thấp, vì nhiều trong số chúng đã tiệm cận hoặc thậm chí thấp hơn cả giá thành sản xuất, hoặc giả nhà sản xuất đã thi nhau cắt giảm sản lượng để duy trì biên độ lợi nhuận (như sắt thép, dầu mỏ). Trong bối cảnh này, dự đoán giá cả thế giới tiếp tục suy giảm là một sự đánh cược mang tính cờ bạc hơn là xuất phát từ cơ sở kinh tế.

Thứ ba, tuy tăng trưởng GDP đã chậm lại rõ rệt và tương ứng với điều này là suy giảm thu nhập của dân cư và doanh nghiệp. Nhưng cũng cần lưu ý rằng cho dù GDP có tăng trưởng với tốc độ nhanh như trong năm 2007 và 2008 thì tốc độ tăng trưởng cũng chỉ là 8%-8,4%/năm. Với tốc độ tăng dân số trên 2%/năm thì dù với tốc độ tăng trưởng GDP như vậy thu nhập bình quân đầu người và, do đó, mức chi tiêu khả dụng, cũng chỉ tăng khoảng trên dưới 6%/năm là nhiều. Như vậy, khó có thể nói mức tăng thu nhập là một yếu tố quan trọng trong việc châm ngòi cho lạm phát ở Việt Nam. Điểm lại diễn biến lạm phát trong mấy năm qua, đặc biệt năm 2008 có thể thấy rõ rằng cung tiền, với tốc độ tăng đến gần 50%/năm mới là “thủ phạm” chính gây lạm phát. Với logic này, nay mức chi tiêu khả dụng, hay nói cách khác, cầu nội địa có suy giảm một vài điểm phần trăm (chứ cũng không về mức 0) thì cũng chỉ làm bớt đi một chút áp lực lạm phát ở Việt Nam.

Thứ tư, một lý do quan trọng trong việc giảm nhu cầu tiêu dùng nội địa không phải đến từ giảm thu nhập dân cư mà là tâm lý “tích cốc phòng cơ”, khi người dân tiên liệu những khó khăn trước mắt nên cắt giảm chi tiêu và đầu tư vào những tài sản sinh lãi và bảo toàn được giá trị. Điều này cũng góp phần làm giảm giá cả tiêu dùng ở Việt Nam trong thời gian qua. Nhưng xu hướng này sẽ đảo ngược nhanh chóng khi tình hình được cải thiện, hoặc triển vọng kinh tế trở nên sáng sủa hơn, đi đôi với nó là gia tăng áp lực lạm phát trong lúc năng lực cung chưa kịp phục hồi để đáp ứng. Liên quan đến điểm này, cần lưu ý rằng người Việt Nam được đánh giá là có lòng tin tiêu dùng lớn nhất ở khu vực trong năm 2008.

Nói tóm lại, giá cả trong tháng 3 đã giảm nhưng cần nhìn nhận và diễn giải hiện tượng này một cách thận trọng và sáng suốt hơn. Điều này có thể là do giá cả thế giới đã giảm trong thời gian qua, tâm lý người tiêu dùng tiếp tục bi quan, còn cung tiền thì chưa tăng mạnh. Tuy nhiên, như đã phân tích, những xu hướng trên hoàn toàn có thể đảo ngược trong thời gian ngắn tới đây, và do vậy, việc giảm giá tiêu dùng trong tháng 3 cũng chỉ nên coi là một hiện tượng có tính nhất thời, và điều đáng lo ngại hơn đang chờ đợi chúng ta ở phía trước chính là lạm phát.

Thursday 19 April 2012

Giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước



Nhân chuyện về tái cơ cấu kinh tế bao gồm tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đang được đào xới lại, tớ nhớ ra bài này, đăng trên Đại biểu Nhân dân vào tháng 2/2009 thì phải. Post lại cho mọi người đọc cho vui.
--------------------------------------------------------------
Quốc hội đang chuẩn bị các hoạt động giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước. Đây có lẽ là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong số đó có thể là sự liên quan và dấn thân quá mức của một số tổng công ty và tập đoàn kinh tế vào các ngành từng một thời được coi là gà đẻ trứng vàng như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Khi các thị trường này suy sụp thì mới làm hé mở những khoản đầu tư thua lỗ khổng lồ, rốt cuộc lại báo hại ngân sách nhà nước vốn đang thâm thủng nặng nề. Trong khi đó thì những lĩnh vực kinh doanh chính của họ xem ra lại bị bỏ lơi, ít được đầu, tư quan tâm. Hơn nữa, đã có nhiều người chỉ trích rằng đầu tư tràn lan ra ngoài ngành chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra lạm phát cao trong năm 2008. Dưới sức ép của dư luận, dễ hiểu hoạt động của các tập đoàn sẽ được người ta “chăm sóc” kỹ lưỡng hơn.

            Tuy vậy, nếu nhìn nhận vấn đề từ gốc rễ của nó thì hành động giám sát của Quốc hội nên có lẽ không nên, không cần thiết, và nếu có thì phải ở một khía cạnh khác.

            Trước tiên, cần hiểu tại sao các doanh nghiệp nhà nước lại dốc sức lao vào đầu tư trái ngành như vậy. Lý do không có gì khác ngoài sự bùng nổ các thị trường tài chính tại Việt Nam do tăng trưởng kinh tế quá nóng cộng với sự hưng phấn và lạc quan quá mức của rất nhiều người đã tạo ra bong bóng thịnh vượng ảo, lớn lên từng ngày trong suốt cả một thời gian tính bằng năm. Các cơ hội kiếm tiền quá dễ dãi có được từ việc mở ngân hàng, tài chính, chứng khoán, và bảo hiểm như trong thời gian qua như một khối nam châm khổng lồ lôi cuốn sự tham gia của không chỉ các doanh nghiệp nhà nước mà còn cả các doanh nghiệp dân doanh và FDI.

Các doanh nghiệp nhà nước dấn thân vào những ngành này còn vì trong tay họ có rất nhiều tiền, đi vay với giá ưu đãi cũng có, vay với sự bảo lãnh của Chính phủ cũng có, hoặc do ngân sách nhà nước rót dưới hình thức này hay hình thức khác. Đã có chuyện rằng tại một tập đoàn nổi đình nổi đám nọ, đã có lúc nhân viên phải chạy rốt ráo để hỏi xem nên đầu tư vào đâu khi bị sức ép giải ngân một cục vốn vay rất lớn mà chưa biết làm gì. Cách nhanh gọn và mang lại hiệu quả lớn nhất là ném tiền vào các thị trường tài chính đang bùng nổ.

Hiểu được gốc rễ của vấn đề đầu tư ra ngoài ngành rồi thì ta bàn đến việc có nên giám sát và hạn chế các tập đoàn này đầu tư trái ngành không. Việc này tương đương với việc bàn xem gốc rễ của “nạn” này có còn tồn tại nữa không.

Về lý do thứ nhất, ma lực lôi kéo từ lợi nhuận kiếm được quá dễ dàng và quá lớn từ những thị trường này có còn không? Câu trả lời hẳn nhiên là không. Thị trường đã qua rồi thời cực thịnh mà để phục hồi lại có lẽ cần cả một thời gian dài hàng nhiều năm với những điều kiện mà xem chừng chẳng bao giờ có thể lặp lại. Trong hoàn cảnh các khoản đầu tư trái ngành đang là “của nợ” của không ít doanh nghiệp trong cơn hoảng này này thật khó hình dung các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn “gan” để tiếp tục dấn thân vào những ngành đó nữa.

Bênh cạnh đó, nếu quản trị tài chính của các doanh nghiệp nhà nước nói chung được xiết chặt để họ không còn tình trạng thừa vốn không biết làm gì hoặc không còn nguồn vốn với giá rẻ mạt nữa, lúc đó cho dù cơ hội kiếm tiền dễ dãi một lần nữa có quay trở lại thị trường thì các doanh nghiệp nhà nước cũng như các tập đoàn cũng đành bó tay thúc thủ. Do đó, thắt chặt nguồn vốn rót từ ngân sách nhà nước hay các nguồn vốn ưu đãi khác cho các doanh nghiệp nhà nước cũng là một biện pháp gián tiếp ngăn chặn nạn đầu tư trái ngành một cách hữu hiệu.

Như vậy, xét đến điều kiện khách quan là thị trường đang chống lại ý muốn mở rộng đầu tư ngoài ngành của nhiều doanh nghiệp nhà nước, cũng như điều kiện chủ quan là sự thắt chặt nguồn cung vốn ưu đãi từ nhà nước thì Chính phủ và Quốc hội không cần phải trực tiếp can thiệp bằng biện pháp hành chính để ngăn chặn tệ đầu tư trái ngành như cung cách vẫn đang và sẽ tiến hành.

Ngược lại, nếu không thắt chặt nguồn vốn ưu đãi này thì cho dù các cơ quan chức năng và Quốc hội có thắt chặt việc giám sát đến đâu chăng nữa, các doanh nghiệp nhà nước vẫn có thể trích một phần trong nguồn vốn nhận được (hiện tại là 30% theo quy định mới) để đầu tư trái ngành khi có (cho rằng) có cơ hội đầu tư kiếm lãi (có thể lớn hơn lãi đầu tư từ ngành chính của họ).

Tóm lại, bản chất của vấn đề đã trở nên rõ ràng và cho thấy được Chính phủ và Quốc hội nên tập trung vào điều gì thay vì trực tiếp giám sát các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Để thắt chặt nguồn cung vốn ưu đãi cho các doanh nghiệp này, tốt nhất để doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm trong việc cung ứng vốn dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ. Chính phủ phải luôn sẵn sàng coi các doanh nghiệp nhà nước cũng bình đẳng như các doanh nghiệp khác, tức là lời ăn lỗ chịu, và sẵn sàng cho họ giải thể nếu thua lỗ quá mức. Nhà nước không nên là con bò sữa để các doanh nghiệp nhà nước bấu víu lấy nữa.

Tất nhiên, vì họ là doanh nghiệp nhà nước, đôi khi phải phục tùng những mệnh lệnh can thiệp của Chính phủ vì một lý do nào đó (chẳng hạn tham gia bình ổn thị trường hàng hóa đang nóng sốt) nên không thể kỳ vọng họ sẽ vừa phải sản xuất kinh doanh có lãi lại vừa phải làm theo yêu cầu của Chính phủ. Giải pháp tốt nhất là hãy tách bạch các chức năng này và để doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh theo các điều kiện thị trường. Chức năng can thiệp vào thị trường thì Chính phủ trực tiếp tiến hành, dựa trên những công cụ điều chỉnh kinh tế và hành chính.

Cũng có thể việc tách bạch này là việc không dễ làm và Chính phủ bằng cách này hay cách khác vẫn phải hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước trong một số hoàn cảnh. Khi đó, việc Chính phủ nên làm là chỉ rót vốn đúng mục đích, tức là chỉ cho những dự án thuộc ngành nghề cốt lõi của doanh nghiệp, và việc này trên nguyên tắc hoàn toàn có thể thực hiện được, giám sát được, với hiệu quả chấp nhận được. Song song với đó là gắn trách nhiệm sản xuất và kinh doanh dựa trên nguồn vốn ưu đãi này phải có lãi và phải nộp lại cho ngân sách cả vốn và một phần lợi nhuận theo đúng các chế độ nghĩa vụ giao nộp tài chính.

Một khi đã thực hiện được như vậy thì hãy “thả lỏng” cho các doanh nghiệp nhà nước tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu muốn, họ vẫn có thể đầu tư trái ngành, nhưng là bằng nguồn vốn tự huy động, tự có (trích từ lợi nhuận được giữ lại) và không được phép động chạm đến nguồn vốn phục vụ cho ngành nghề cốt lõi (về nguyên tắc, có những công cụ và chế tài để ngăn chặn tình trạng này xảy ra nếu cố tình vi phạm).

Tuesday 17 April 2012

“Đọc báo giùm bạn”

Hôm nay tớ muốn xoay 2 đồng chí nhân đọc các bài báo liên quan đến 2 đồng chí này.

Đồng chí thứ nhất là đồng chí TS Trần Đình Thiên (sorry anh Thiên là nếu tình cờ anh có đọc được bài này thì anh bỏ quá cho em nhé, vì thực ra em chỉ phê cái quan điểm của anh thôi, để lần sau em vẫn còn cơ hội được diện kiến anh). Trong bài Hạ lãi suất nhưng cung tiền vẫn bị “bóp nghẹt””. Điều đập vào mắt tớ đầu tiên là chuyện so sánh lãi suất ở Việt Nam với lãi suất của các nước khác và kết luận rằng doanh nghiệp Việt Nam chịu lãi suất quá cao so với các đối thủ ở những nước này. Hôm trước tớ vừa mới phê một đồng chí tác giả trên VEF về chuyện này xong, không ngờ nay đồng chí Thiên cũng nói hệt như đồng chí trên VEF, thế mới gay go!

Đồng chí Thiên nói là lãi suất Việt Nam cao hơn, ví dụ của Trung Quốc (20-22% so với 6,6%). Thế sao đồng chí không so sánh lãi suất của Trung Quốc với lãi suất rất thấp của Mỹ, Nhật, Tây Âu và kết luận là doanh nghiệp Trung Quốc bị thua thiệt so với/không cạnh tranh được với doanh nghiệp của những nước này? Nếu không kết luận được như vậy, thì vấn đề không nằm ở cái lãi suất danh nghĩa. Điều khác biệt ở Việt Nam so với các nước khác nằm ở mức lạm phát, là điều mà chẳng đồng chí nào, không hiểu vì lý do gì, buồn động đến, thế mới lạ. Và cũng như tớ đã nói trước đây, khi doanh nghiệp còn khả năng tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ thì cho dù lãi suất (danh nghĩa) có cao hơn nhiều các đối thủ trong khu vực, sự tăng giá bán là đủ và thừa để hóa giải ảnh hưởng của lãi suất cao tương đối này.

Đồng chí thứ hai lại là đồng chí Vũ Viết Ngoạn (và cả đồng chí Trương Đình Tuyển), trong bài Cứudoanh nghiệp bất động sản, phải kích cầu đầu ra”. Hình như hai đồng chí này vừa có cuộc làm việc với các doanh nghiệp bất động sản Sài Gòn để “nhận diện thực tế những khó khăn, sức chịu đựng của doanh nghiệp”, với  “kết quả đánh giá bước đầu... (là) đã bắt được “căn bệnh” mà các doanh nghiệp đang gặp phải. Vấn đề còn lại là phải đưa ra được những liều thuốc khả thi để cứu doanh nghiệp trong thời gian sắp tới”.

Chuyện lẽ ra chẳng có gì đáng nói ở những cuộc công tác kiểu này, toàn là “cưỡi ngựa xem hoa”, để rồi các nhận định và giải pháp đa phần chỉ là chung chung, muốn hiểu kiểu nào thì hiểu, và hiểu kiểu gì cũng chẳng chết ai. Có điều, trong chuyến đi lần này của đồng chí Ngoạn và đồng chí Tuyển, tớ thấy nổi lên hai vấn đề mà không nhất thiết là “chẳng chết ai”.

Vấn đề thứ nhất, đã là chuyến đi nhận diện những thực tế khó khăn thì một cuộc tiếp xúc với những đối tượng liên quan để nghe người ta phàn nàn về những khó khăn của người ta không mang lại mấy thu hoạch khách quan và giá trị hữu ích. Nếu nghe và hứa qua loa rồi để đấy thì không sao. Nhưng nếu để biết được thực chất của vấn đề thì cần phải làm hơn thế nhiều, ví dụ phải thẩm tra sổ sách kế toán, phân tích tình hình tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp liên quan, phải làm những điều tra độc lập có những số liệu minh họa đáng tin cậy v.v...

Vấn đề thứ hai, khi mới chỉ nghe một chiều, qua một cuộc gặp gỡ độ một vài giờ thì lẽ thường của những nhà làm chính sách dày dặn kinh nghiệm là tránh không kết luận bất cứ cái gì mang tính khẳng định (đơn giản vì thực tế kết quả có thể hoàn toàn khác so với những gì các doanh nghiệp kêu ca để có lợi cho họ), và đặc biệt là không nên/được đưa ra một lời hứa cụ thể về đường hướng chính sách có lợi rõ ràng cho nhóm lợi ích có liên quan. Nhưng 2 đồng chí này đã vi phạm nguyên tắc này. Đồng chí Tuyển thì kết luận ngay doanh nghiệp bất động sản gặp khó khăn là một thực tế, sản phẩm không bán được, vậy thì phải kích cầu. Nói đồng chí Tuyển vi phạm vì không phải doanh nghiệp bất động sản nào cũng khó khăn (như vậy); nếu có khó khăn thì có thể do lỗi của doanh nghiệp đó không biết kinh doanh nên chẳng có thể đổ lỗi cho ai được; sản phẩm không bán được có thể vì doanh nghiệp vẫn không muốn hạ giá (hơn nữa) hoặc đơn giản là uy tín của doanh nghiệp xuống thấp, chẳng người mua nào muốn bỏ tiền ra mua sản phẩm mà chẳng biết có được nhận không, sản phẩm có ra cái gì không v.v... mà như vậy thì tại sao nhà nước cần phải kích cầu bất động sản? Vân vân và vân vân.

Đồng chí Ngoạn cũng giống đồng chí Tuyển ở chỗ là cũng nhìn nhận thực tế là thị trường bất động sản và các lĩnh vực liên quan đang rất khó khăn. Không biết các đồng chí này rút ra được nhận xét này là trước hay sau khi gặp gỡ các doanh nghiệp bất động sản. Nếu trước thì có thể nói rằng cuộc gặp gỡ trên là vô ích. Nếu sau thì rõ ràng các đồng chí đã vi phạm nguyên tắc như tớ nói trên. Hơn thế nữa, đồng chí Ngoạn hứa “Sẽ kiến nghị Chính phủ có chính sách linh hoạt hơn, chẳng hạn như có chính sách hỗ trợ các DN BĐS có khả năng tiếp tục triển khai dự án, sản phẩm dự án có thể bán được bằng cách cho giãn nợ, cơ cấu lại nợ và cho vay mới”. Đến đây thì sự vi phạm của đồng chí Ngoạn càng trầm trọng hơn vì đồng chí định dùng bàn tay can thiệp của nhà nước để làm lợi cho nhóm lợi ích bất động sản với cái giá phải trả đặt lên vai khối ngân hàng hoặc rốt cuộc là người nộp thuế (giãn nợ, cơ cấu lại nợ và cho vay mới).

Thôi, tớ không kết luận lung tung gì nữa, để bạn đọc tự phán xét cho khách quan.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).