Sunday 29 August 2021

Bài toán lao động nhập cư hậu phong tỏa (Bài đăng trên KTSG, 29/8/2021)

https://thesaigontimes.vn/?p=319082&preview=true&preview_id=319082

Đại dịch kèm phong tỏa, giãn cách đã buộc hàng chục ngàn người lao động nhập cư từ các địa phương khác đến các trung tâm công nghiệp ở miền Bắc và Nam phải trở về quê quán cách xa đó dăm trăm, thậm chí đến cả ngàn kilomet trong hoảng loạn bởi không thể nương náu lại khi doanh nghiệp đóng cửa, không còn tiền ăn và tiền trọ.

Khi đại dịch dịu đi, các doanh nghiệp sẽ mở cửa trở lại (nếu còn sống sót!) nên sẽ tuyển dụng trở lại. Lúc đó có  thể kỳ vọng một làn sóng ngược người lao động từ khắp nơi lại đổ về các trung tâm công nghiệp cả nước. Tuy nhiên, kỳ vọng này chỉ thành sự thật nếu người lao động biết chắc rằng lần quay trở lại này sẽ là lâu dài, và sẽ không (sớm) có một cuộc tháo chạy tổng lực tìm đường sống lần thứ hai, ba như vừa rồi.

Vì không có gì đảm bảo rằng dịch bệnh sẽ không quay trở lại và phong tỏa sẽ không tái diễn nên thời gian đầu, có thể kéo dài hàng tháng, các doanh nghiệp ở các trung tâm công nghiệp sẽ nhiều khả năng phải chứng kiến nạn thiếu hụt lao động thậm chí đến mức trầm trọng.

Để cân bằng cung cầu lao động trong hoàn cảnh (tạm thời) thiếu hụt như vậy thì các doanh nghiệp buộc phải tăng mức đãi ngộ để hấp dẫn người lao động tại chỗ, vùng lân cận, và đặc biệt là từ các địa phương khác quay trở lại làm việc, bất chấp các rủi ro an sinh vẫn rình rập. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải tổn phí thêm tiền đào tạo, tái đào tạo lại nhân công, bởi hoàn toàn có thể một lượng nhân công đã bỏ về qua, rời khỏi doanh nghiệp là “một đi không trở lại”.

Hậu quả của gánh nặng trên đối với doanh nghiệp là hiển nhiên và sẽ ảnh hưởng đến chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp. Nhưng họ cũng chẳng biết làm gì hơn, một khi mô hình sản xuất, kinh doanh của họ vẫn phải dựa vào nguồn lao động nhập cư dồi dào (và lương thấp) so với tuyển dụng tại chỗ.

Cần lưu ý thêm rằng không chỉ đại dịch mà các biến cố khác cũng có thể đẩy các doanh nghiệp phụ thuộc vào lao động nhập cư rơi vào tình cảnh tương tự. Lạm phát cao làm cho đồng lương của người lao động nhập cư teo tóp trong khi nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống và gia đình, con cái không thể cắt giảm hơn được nữa. Rơi vào cảnh này thì nhiều người lao động nhập cư sẽ lại chọn con đường quay về quê để tồn tại chứ không thể sống mòn mãi tại nơi đô thị.

Tình cảnh/rủi ro trên đặt ra một số vấn đề ngắn và trung hạn. Về phía doanh nghiệp, trong ngắn hạn, một mặt cần hỗ trợ người lao động tối đa để họ quay trở lại làm việc, tạm thời yên tâm với một tương lai còn nhiều bất định. Tiền lương có thể không tăng (mạnh), nhưng doanh nghiệp cần cam kết đảm bảo cung ứng một số điều kiện tồn tại cơ bản cho người lao động trong mọi hoàn cảnh, nhất là khi có biến cố xảy ra, như hỗ trợ một phần tiền thuê nhà và trợ cấp (tạm thời) nghỉ việc khi doanh nghiệp phải tạm thời đóng cửa vì một lý do nào đó.

Tất nhiên là sẽ có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được, hoặc vì nguồn lực mỏng, khi đóng cửa dù là tạm thời thì cũng không có nguồn thu nhập/dự trữ nào khác; hoặc vì mô hình kinh doanh của họ là dựa trên lao động giá càng rẻ càng tốt.

Với loại doanh nghiệp nguồn lực mỏng, Chính phủ có thể đóng vai trò “bà đỡ” trong những lúc khó khăn thông qua việc (cam kết) cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp, hoặc tài trợ, để trả lương, hỗ trợ cho người lao động. Điều này thì Chính phủ cũng đang làm, cho dù kết quả thì như... chưa làm!

Với loại doanh nghiệp sống nhờ vào “bóc lột” nhân công, có thể họ cũng tận dụng sự trợ giúp tương tự của Chính phủ. Nhưng do bản chất của mô hình kinh doanh của họ nên sẽ đến một thời điểm nào đó mà chi phí nhân công, kể cả sau khi đã trừ đi hỗ trợ của Chính phủ, nếu có, trở nên đắt đỏ, không còn hấp dẫn để duy trì mô hình kinh doanh của họ. Lúc đó, hãy coi đại dịch và hậu đại dịch là một cuộc sàng lọc tự nhiên để gạt bỏ những yếu tố không còn hợp thời, không đáng được lưu giữ bằng mọi cách.

Chính phủ cũng có thể trợ giúp doanh nghiệp hậu đại dịch thông qua việc phối hợp với doanh nghiệp và chính quyền các địa phương tổ chức các đợt đưa người lao động tại các địa phương trở lại các trung tâm kinh tế, công nghiệp trong trật tự, an toàn, với chi phí hợp lý.

Trong trung hạn, Chính phủ cần kéo dãn các trung tâm công nghiệp, kinh tế ra cả nước. Mục đích không chỉ để xóa bỏ chênh lệch phát triển và thu nhập giữa các địa phương và người dân, mà còn giảm các tác hại kinh tế, văn hóa, gia đình và xã hội đi đôi với vấn đề lao động nhập cư. Một lợi ích hiển nhiên khác là doanh nghiệp sẽ ít chịu rủi ro biến động nhân lực hơn.

Để thực hiện kéo dãn các trung tâm kinh tế và công nghiệp, đi đôi với phát triển cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt và đường thủy, Chính phủ cần tăng cường năng lực giáo dục và đào tạo cho các địa phương để đáp ứng nhu cầu nhân lực đủ mọi cấp độ của các doanh nghiệp đang và sẽ chuyển đến hoạt động tại địa phương.

Bên cạnh đó, điều quan trọng mà Chính phủ cần làm là phối hợp, giám sát các địa phương để đảm bảo cuộc đua phát triển giữa các địa phương là một cuộc đua lành mạnh, bằng những giải pháp và công cụ lành mạnh – như đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng minh bạch và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương – chứ không phải là cuộc đua xuống hố thông qua giảm/miễn thuế, tăng ưu đãi.

Với những trung tâm kinh tế, công nghiệp lớn của đất nước như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương..., do sự hấp dẫn riêng có của chúng nên luôn có một bộ phận lớn lao động nhập cư tìm cách gắn bó lâu dài. Một trong những việc Chính phủ có thể làm để giúp cho bộ phận lao động này cũng như doanh nghiệp tuyển dụng họ là cung cấp nơi ở/ký túc xá với giá thuê rẻ, ổn định. Nguồn cung các chỗ ăn ở kiểu này hợp lý nhất là nguồn mà các địa phương này đang, đã và sẽ có kế hoạch dành cho phát triển nhà ở xã hội. Hình thức nhà này hiện tại theo hình thức mua đứt bán đoạn, không giúp gì mấy cho số đông lao động nhập cư bởi chúng chỉ dành cho một số ít là người được mua, ít hơn nhiều số người có nhu cầu thuê trong thời gian làm việc tại địa phương, trong khi vẫn có nhiều sai sót về đối tượng được mua, vẫn phải tiêu phí nguồn lực công như hỗ trợ lãi suất, ưu đãi thuế, phí đất đai...

Monday 23 August 2021

Chuẩn bị cho hậu Covid (Bài đăng trên KTSG, 20/8/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/chuan-bi-cho-hau-covid/

Dù đang hoành hành nhưng đại dịch Covid-19 rồi cũng sẽ qua đi như mọi cuộc đại dịch khác, và xã hội vẫn phải tiếp tục vận động tiến lên phía trước. Do đó, ngay từ bây giờ cần phải chuẩn bị cho quá trình  phục hồi hậu Covid.

Có thể hình dung nền kinh tế và xã hội sau đại dịch cũng sẽ như một quốc gia mới trải qua một cuộc chiến tàn khốc, với ngổn ngang thiệt hại vật chất và con người, với nhiều ngành nghề/doanh nghiệp từ thoi thóp đến đóng cửa. Ngược lại, cũng sẽ có một số ngành nghề, doanh nghiệp khấm khá, ăn nên làm ra. Nếu ví von thì cũng đã có người, có nơi dùng hình ảnh chữ K để mô tả tình trạng nền kinh tế trong và sau đại dịch.

Với một nền kinh tế trong tình trạng như vậy, điều cần làm, cần ưu tiên là dọn dẹp đổ nát, “ma chay” cho doanh nghiệp, ngành nghề đã chết, cấp cứu, “tiếp nước” cho ngành nghề, doanh nghiệp thoi thóp sống. “Ma chay” là để giảm nhẹ tác động quá lớn lên người lao động của doanh nghiệp nay đã trở nên thất nghiệp, vô gia cư. Doanh nghiệp, ngành nghề chết đi đã vậy nên doanh nghiệp, ngành nghề đang thoi thóp sống thì càng cần phải khẩn trương hỗ trợ để chúng gượng lại được, không (tiếp tục) sa thải, cắt lương người lao động, đẩy xã hội vào một vòng xoáy luẩn quẩn lao xuống hố.

Do đó, việc cần chuẩn bị ngay từ bây giờ là phải thu xếp, dự trữ nguồn lực. Nhưng nguồn lực nào đây khi mà các nguồn nội tại, như ngân sách và các quỹ dự trữ, đã và đang được sử dụng với quy mô ngày càng cao với thời điểm cạn kiệt đã không còn xa? Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước thì như nước nhỏ giọt và cũng không thể nhỏ ra mãi được.

Đi vay trong và ngoài nước do đó là tất yếu. Quốc hội gần đây đã thông qua kế hoạch vay hơn 3 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021-2025. Nhưng nguồn tài trợ này có một số điểm cần bàn, mà cụ thể đầu tiên là tỷ lệ nợ công trên GDP. Tỷ lệ này sẽ tăng mạnh trở lại trong năm nay, dự tính lên tới 58,6% (với GDP chưa “điều chỉnh” về quy mô), so với mức 55,3% năm 2020, như được nêu ra trong Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước (1). Lưu ý thêm rằng con số dự tính này được xây dựng vào đầu năm nay, khi dịch bệnh chưa bùng phát mạnh trên quy mô cả nước như hiện nay. Do đó, diễn biến dịch bệnh xấu đi nhanh chóng từ nửa năm sau của năm nay có khả năng đẩy mức nợ công trên GDP lên cao hơn nữa bởi tác động kép gồm GDP tăng chậm hơn và nợ công tăng nhanh hơn để tài trợ cho các nhu cầu chống dịch tăng vọt.

Cần lưu ý một điểm rất quan trọng nữa là về nhận thức phổ biến hiện nay rằng tình hình nợ công của Việt Nam đã cải thiện mạnh nếu tính theo tỷ lệ trên GDP. Điều này được thể hiện qua việc hạ trần nợ công từ mức 65% GDP trong Kế hoạch tài chính quốc gia giai đoạn 2016-2020 xuống còn 60% GDP theo Kế hoạch tài chính 2021-2025, cũng như các con số ước tính mới, đẹp hơn về nợ công/GDP hàng năm. Tuy nhiên, cần biết rằng GDP năm 2021 sau khi “điều chỉnh” về quy mô sẽ cao hơn tới 25% so với GDP chưa điều chỉnh (tính toán này dựa vào các con số nêu trong (1)). Như vậy, trần nợ công thực tế lại được nới tăng lên so với trước khi “điều chỉnh” GDP (bởi 60% của 1,25 x GDP là lớn hơn 65% của GDP).

Do đó, dù tỷ lệ nợ công/GDP trong năm 2021 trở đi nếu có giảm hoặc đứng ở dưới ngưỡng cho phép thì sự giảm đó chỉ đơn thuần mang tính mặt kỹ thuật, chứ thực chất thì nợ công vẫn đã và sẽ tăng mạnh, đặc biệt là so với tăng thu ngân sách – là nguồn chi trả nợ công chính, và là con số không thể “điều chỉnh” tăng mạnh lên như với GDP. Nói cách khác, dư địa tăng vay nợ không làm giảm đi rủi ro lên kinh tế vĩ mô từ tăng nợ công đi đôi với gia tăng bội chi ngân sách.

Để tránh áp lực gia tăng nợ công lên kinh tế, xã hội, cần, một mặt, tránh lạm dụng vay mượn với lý do tài trợ chống dịch và phục phục hồi kinh tế. Mặt khác, cần tăng cường nguồn thu nội tại có tính bền vững hơn, cụ thể là thuế.

Tăng thu thuế nghe thì rất có vẻ nghịch lý trong giai đoạn này khi Bộ Tài chính đang đề xuất cắt giảm hàng loạt sắc thuế. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đây, người viết cho rằng việc cắt giảm thuế trên diện rộng là điều bất hợp lý, ít nhất bởi có nhiều doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân vẫn phát đạt trong và sau đại dịch (nhánh khác trong chữ K nói trên). Do đó, với những đối tượng này, nếu không muốn tăng mức thuế chúng phải nộp, như cách Mỹ đang muốn thực hiện (tăng thuế thu nhập doanh nghiệp) để lấy vốn tài trợ cho các gói kích thích, phục hồi kinh tế ở nước này, thì cũng đừng nên cắt giảm thuế cho chúng.

Dẫu vậy, về trung hạn, sau khi đại dịch qua đi, do việc tăng vay nợ không thể là một giải pháp bền vững nên giải pháp tăng thuế, ít nhất là thuế thu nhập (doanh nghiệp và cá nhân) và có thể là thuế giá trị gia tăng như một số nước đã/sẽ làm (chẳng hạn Singapore) cần được xem xét và chuẩn bị.

Trước mắt, cần tăng cường nguồn thu thuế từ các đối tượng dạng tình nghi chưa nộp thuế (đầy đủ) như các đối tượng kinh doanh, quảng cáo online, các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp công nghệ xuyên biên giới... Nhưng để thu được thuế của các đối tượng này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, kể cả ở cấp độ đàm phán quốc gia, bởi nó liên quan đến các thỏa thuận đánh thuế toàn cầu đối với các công ty đa quốc gia nói chung và doanh nghiệp công nghệ lớn của Mỹ nói riêng.  

Lo nguồn lực cũng là để đảm bảo cho các sự chuẩn bị khác có tính khả thi hơn. Để phục hồi và phát triển hậu đại dịch thì trước đó cần chuẩn bị cho người lao động và doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với một hoành cảnh và môi trường kinh tế, xã hội mới mà có thể sẽ rất khác với thời tiền dịch. Hoàn cảnh và môi trường mới này đòi hỏi, ví dụ, doanh nghiệp và các ngành nghề phải tích cực chuyển đổi số, người lao động thì phải có kiến thức, kỹ năng mới để đáp ứng được nền sản xuất, kinh doanh mới dựa vào số hóa, làm việc từ xa nhiều hơn.

Sự chuẩn bị về phía Chính phủ trên khía cạnh này là thiết kế, hỗ trợ thực thi các giải pháp giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuyển đổi số theo các hình thức như doanh nghiệp và Chính phủ cùng làm (doanh nghiệp bỏ ra một phần kinh phí, Chính phủ hỗ trợ một phần).

Người lao động được Chính phủ hỗ trợ chi phí sinh hoạt và đào tạo khi tham gia các khóa đào tạo nâng cao kỹ năng, đổi mới chuyên môn do Chính phủ thiết kế và/hoặc đài thọ (một phần).

Về bản thân bộ máy chính trị và chính quyền các cấp cũng cần có sự chuẩn bị theo hướng tinh gọn tối đa và nâng cấp khẩn trương chất lượng hoạt động của mình. Đại dịch đã bộc lộ một thực tế rõ ràng rằng bộ máy quản lý hiện tại vừa thừa vừa yếu, vốn dựa nhiều vào các quyết tâm chính trị, đã không đủ năng lực cần có để quản lý hữu hiệu kinh tế, xã hội. Nếu không có thay đổi về chất, đây sẽ là lực cản cho quá trình hồi phục và phát triển hậu đại dịch và các giai đoạn tiếp theo.

Tóm lại, đại dịch là một hích để bộc lộ hết những cái xấu và mặt khuất của kinh tế, xã hội, đồng thời cũng là động năng cho các thay đổi mang tính cách mạng. Nhận thức được các xu hướng thay đổi tất yếu để có những chuẩn bị kịp thời sẽ giúp nhanh chóng khắc phục được các hậu quả của dịch bệnh và đưa đất nước sang một trang phát triển mới.

(1) https://vov.vn/kinh-te/rui-ro-no-cong-hien-huu-sau-dai-dich-844407.vov

Monday 16 August 2021

Tác động của đợt phân bổ 456 tỉ SDR của IMF lên Việt Nam (Bài đăng trên KTSG, 15/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/319304/tac-dong-cua-dot-phan-bo-456-ti-sdr-cua-imf-len-viet-nam.html

Ngày 2/8, Thống đốc IMF đã phê chuẩn sự phân bổ chung Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) trị giá 456 tỷ SDR, tương đương 650 tỷ USD, nhằm bổ sung thanh khoản cho nền kinh tế thế giới (1). Sự phân bổ chung này sẽ có hiệu lực ngày 23/8. Đồng SDR mới tạo ra sẽ được ghi có cho tất cả các nước thành viên IMF tỷ lệ với quota hiện có của họ trong IMF.

Trước khi bàn đến tác động của đợt phân bổ chung này lên Việt Nam, cần biết mấy điều. Thứ nhất là về khái niệm SDR. Đây là một tài sản dự trữ quốc tế có lãi suất được IMF tạo ra năm 1969 để bổ sung dự trữ ngoại hối chính thức của các nước thành viên. SDR được dùng như một đơn vị hạch toán của IMF và một số tổ chức quốc tế khác, và không phải là một loại tiền tệ hay quyền đòi nợ với IMF, nhưng nó có thể đổi lấy những đồng tiền tự do sử dụng của các nước thành viên IMF trên thị trường tự nguyện mua bán, hoặc IMF có thể chỉ định các nước thành viên mua SDR của các nước thành viên khác.          

Thứ hai là về sự phân bổ chung SDR. Thỏa thuận của các thành viên IMF quy định khi thỏa mãn một số điều kiện thì IMF có thể phân bổ SDR cho các nước thành viên. Tuy nhiên, sự phân bổ chung SDR (cho tất cả các nước thành viên) phải nhất quán với mục tiêu đáp ứng nhu cầu toàn cầu trong dài hạn là bổ sung tài sản dự trữ ngoại hối hiện tại và được sự ủng hộ rộng rãi của các nước thành viên IMF (một sự phân bổ chung cần được Ban Thống đốc phê chuẩn với 85% tổng số phiếu bầu của các nước thành viên). Sau khi sự phân bổ chung được thông qua, các nước thành viên sẽ nhận được phần phân bổ tỷ lệ với quota của họ trong IMF.

Để dễ hình dung, hãy coi sự phân bổ chung SDR của IMF như một hành động nới lỏng định lượng bởi các ngân hàng trung ương, qua đó các nước thành viên IMF có thêm nguồn cung ngoại tệ mạnh nếu họ muốn tiếp cận và sử dụng, giúp họ giảm phụ thuộc vào việc phát hành nợ trong và/hoặc ngoài nước (và có lãi suất cao hơn) để tăng dự trữ ngoại hối. Một nước thành viên IMF được phân bổ bao nhiêu SDR thì tùy thuộc vào quota của nước đó trong IMF. Quota này được tính theo công thức luôn bị tranh cãi gồm các biến số như GDP, độ mở thương mại và “sự biến động”! Ở khu vực ASEAN, Indonesia có tỷ lệ quota cao nhất, 0,96% và Việt Nam có tỷ lệ thấp nhất, 0,24%.

Thứ ba, cho đến nay IMF đã phân bổ 204,2 tỷ SDR, gồm 182,6 tỷ phân bổ năm 2009 khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra. Giá trị của SDR được thiết lập dựa vào một rổ 5 đồng tiền là USD, euro,  nhân dân tệ Trung Quốc, yen Nhật, và bảng Anh. Tuy nhiên, đợt phân bổ lần này thực ra đã được đề xuất từ năm 2020 nhưng sau đó bị Mỹ dưới thời cựu Tổng thống Trump phủ quyết (Mỹ nắm 16,5% tỷ lệ phiếu bầu với quyền phủ quyết). Đến tháng 3 năm nay, chính quyền Tổng thống Biden đã ủng hộ đề xuất đợt phân bổ chung này.              

Thứ tư, Mỹ lúc đầu lo ngại một  cách sai lầm rằng sự phân bổ SDR cuối cùng sẽ phải tài trợ bởi tiền thuế của người dân Mỹ. Trên thực tế, các đợt phân bổ SDR không gây ra bất cứ tổn thất nào cho Mỹ. Sau đó, họ lại lo rằng sự phân bổ này làm tăng bất bình đẳng toàn cầu bởi các nước đang phát triển chỉ nhận được 42,2% tổng số SDR phát hành mới. Tuy nhiên, đối với các nước phát triển thì số tiền nhận được từ IMF như vậy cũng là rất quý vì nó bổ sung dự trữ ngoại hối, giảm áp lực lên nội tệ vào thời điểm họ phải căng mình tăng chi tiêu mà vẫn phải giữ các cân đối vĩ mô không quá xấu đến mức làm nền kinh tế  sụp đổ.

Thứ năm, trong đợt phân bổ năm 2009, nhiều nước giàu đã không sử dụng đến phần được phân bổ, mà để lại tại IMF. Do vậy, lần phân bổ này có thể sẽ có một xu hướng tương tự. Theo đó, các nước giàu thường đã bơm đủ tiền hay tiếp cận được với nguồn ngoại tệ mạnh như USD, nên có thể sẽ không cần phải dùng đến nguồn hỗ trợ thanh khoản này của IMF mà tiếp tục để lại tại đó. Xu hướng này không tạo ra tác dụng phụ có hại và cũng không tạo ra áp lực lạm phát toàn cầu. IMF cũng đang nghiên cứu các hình thức hỗ trợ từ các nước giàu cho vay phần SDR được phân bổ không sử dụng đến cho các nước nghèo như thông qua Quỹ ủy thác Tăng trưởng và giảm nghèo có lãi suất cho vay ưu đãi hiện tại bằng 0.    

Trở lại với tác động của đợt phân bổ chung 456 tỷ SDR lần này lên Việt Nam. Từ tỷ lệ quota 0,24%, Việt Nam sẽ nhận được 1,09 tỷ SDR, tương đương 1,56 tỷ USD. Con số này không phải là nhỏ, nhưng cũng không phải là lớn, vì nó chỉ chiếm khoảng quanh quẩn 1,5% dự trữ ngoại hối của Việt Nam có quy mô ước tính trên 100 tỷ USD hiện nay, hoặc tương đương khoảng một nửa tháng nhập khẩu của Việt Nam. Nói cách khác, nếu Việt Nam sử dụng nguồn cung ngoại tệ này để bổ sung dự trữ ngoại hối thì nó cũng chỉ tăng được thêm khoảng 1,5%.

Tuy nhiên, bản chất của sự phân bổ này, như đã nói, là một khoản tiền bơm ra từ ngân hàng trung ương (là IMF trong trường hợp này) mang tính cấp phát nên số tiền 1,56 tỷ USD mà Việt Nam nhận được trong số 650 tỷ USD mà toàn cầu nhận được từ IMF là một sự bổ sung thanh khoản có thể mang ra sử dụng ngay lập tức khi cần, nhưng không mang tính vay mượn. Như vậy, có thể coi đây là một nguồn quỹ dự phòng, thêm một lớp đệm an toàn cho một tương lai bất định.

Nhưng cần lưu ý là nếu Việt Nam sử dụng đến số SDR được phân bổ này, chẳng hạn để đổi lấy ngoại tệ (do đó, làm tăng tỷ trọng ngoại tệ và giảm tỷ trọng SDR nắm giữ trong quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam), thì sẽ phải trả lãi theo lãi suất 0,05% (có hiệu lực đến ngày 8/8) tính trên khoản chênh lệch giữa số SDR Việt Nam nắm giữ còn lại và phần SDR Việt Nam được phân bổ. Nếu không sử dụng đến nó thì khoản SDR được phân bổ này không tạo ra phí tổn nào cho Việt Nam ngoài khoản phí rất nhỏ phải trả hàng năm để duy trì hoạt động của Cục SDR của IMF, tính theo số phân bổ đã nhận được.

Nhờ số tiền nhận được này, về mặt kỹ thuật, Việt Nam có thể tăng thâm hụt thương mại thêm 1,56 tỷ USD hoặc tăng chi tiêu làm tăng thâm hụt ngân sách thêm khoảng 35 nghìn tỷ đồng nữa (với chi phí nhỏ dưới dạng lãi suất thấp hơn nhiều so với các khoản vay thương mại hoặc ưu đãi khác) mà không sợ làm tăng thêm áp lực lên tỷ giá tiền đồng. Việt Nam cũng có thể sử dụng số tiền này để trả nợ gốc/lãi hay đảm bảo nghĩa vụ của mình với các nước thành viên khác hoặc với IMF.

----

(1) https://www.imf.org/en/News/Articles/2021/07/30/pr21235-imf-governors-approve-a-historic-us-650-billion-sdr-allocation-of-special-drawing-rights

Sunday 15 August 2021

Chi ngân sách trong đại dịch: Tránh miễn, giảm thuế, phí đại trà (Bài đăng trên KTSG, 15/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/319328/chi-ngan-sach-trong-dai-dich-tranh-mien-giam-thue-phi-dai-tra.html

Bộ Tài chính đang dự thảo nghị quyết về một số giải pháp thu ngân sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19. Theo đó, sẽ giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2021. Hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh sẽ được giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong quý 3 và 4 năm 2021. Doanh nghiệp và tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ sẽ được giảm 30% thuế giá trị gia tăng.

Ngoài ra, cũng sẽ miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và 2021 đối với doanh nghiệp và tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, 2019 và 2020. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đề xuất giảm tiền thuê đất cho năm 2021.  

Tính gộp tất cả các giải pháp đã thực hiện từ đầu năm 2021 và các giải pháp đề xuất trên thì số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất sẽ hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân năm 2021 là khoảng 138 ngàn tỉ đồng, trong đó gói gia hạn, miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất đã ban hành khoảng 118 ngàn tỉ đồng (20 ngàn tỷ đồng còn lại là từ các giải pháp đang đề xuất) (1).

Số tiền 138 ngàn tỷ đồng đã và sẽ miễn giảm này tương đương với 9,3% tổng thu ngân sách năm 2020 (1.481,6 ngàn tỷ đồng) nên không thể không thừa nhận rằng đây là một con số lớn, đồng nghĩa với thâm hụt ngân sách sẽ tăng lên mạnh ít nhất trong năm nay.

Tất nhiên, trong bối cảnh đại dịch và nhu cầu chi bức thiết để vừa phòng chống đại dịch, vừa duy trì và phục hồi các hoạt động kinh tế thì sự tăng chi, tăng thâm hụt ngân sách là điều không thể tránh khỏi đối với không chỉ Việt Nam mà còn hầu hết mọi nước trên thế giới. Tuy vậy, cách chi thế nào cho hiệu quả và hợp lý là điều cần bàn.

Về nguyên tắc, miễn giảm thuế là một cách chi trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ và cá nhân. Tuy nhiên, cách làm này có nhược điểm lớn là đánh đồng mọi doanh nghiệp, hộ và cá nhân như nhau, bất kể họ có lãi hay không, nhiều hay ít. Điều này tạo ra một sự bất bình đẳng, cũng tương tự như việc đánh thuế thu nhập cá nhân theo một mức duy nhất, bất kể người có thu nhập chỉ 10 triệu đồng và người có thu nhập hàng tỉ, chục tỉ đồng/tháng.

Một phần vì lý do này mà trên thế giới chỉ có một ít nước là đã ban hành các giải pháp miễn giảm thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế kinh doanh, và thu nhập cá nhân (2).

Như vậy, nếu muốn hỗ trợ bằng các giải pháp thuế thì Chính phủ chỉ nên dừng lại ở các giải pháp chung được nhiều nước sử dụng như hoãn, kéo dài thời gian nộp thuế và miễn, giảm tiền phạt chậm nộp thuế. Mục đích của việc này chỉ là để tăng thêm thanh khoản cho nền kinh tế; các đối tượng được hưởng có thêm tiền trong tay để giải quyết các vấn đề cấp thiết khác trong sản xuất kinh doanh. 

Riêng giải pháp giảm thuế giá trị gia tăng trong một số lĩnh vực dịch vụ thì đây là điều hợp lý mà một số nước trên thế giới đã thực hiện, và phù hợp với nguyên tắc nêu ở trong bài này là không miễn giảm thuế một cách đại trà, cho bất cứ đối tượng nào.

Nói như trên không có nghĩa là đề xuất Chính phủ không tăng chi cho phòng chống đại dịch và phục hồi kinh tế. Thay cho việc miễn giảm thuế đại trà, trên diện rộng, Chính phủ cần tăng chi cho những đối tượng cần hỗ trợ, ví dụ như các đối tượng dễ bị tổn thương, các doanh nghiệp khó khăn đang phải đối mặt với áp lực sa thải nhân viên, các nhu cầu duy trì và củng cố hạ tầng cơ sở thiết yếu cho kinh tế xã hội, cũng như nhu cầu cấp vốn lãi suất thấp cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh để phục hồi kinh tế, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động.

Trên khía cạnh này thì ngoài khoản 118 ngàn tỷ đồng đã thực hiện, không thể đảo ngược lại được nữa, khoản 20 ngàn tỷ đồng đề xuất từ miễn giảm thuế nói trên cần được chuyển hóa thành, hoặc bổ sung thêm vào các gói hỗ trợ như gói 26 ngàn tỷ đồng cho người khó khăn vì dịch hoặc cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp (0%) để trả lương giữ chân người lao động...

Cũng cần nói thêm một chút về các biện pháp hỗ trợ đại trà như giảm giá điện, nước, cước viễn thông... Những biện pháp này về bản chất là cắt giảm chi phí hoạt động, sinh hoạt cho doanh nghiệp và người dân nhưng chúng lại đang vi phạm nguyên tắc hỗ trợ đúng đối tượng cần hỗ trợ, bởi doanh nghiệp và người dân có điều kiện, có thu nhập tốt cũng được hưởng lợi từ việc giảm giá và phí này.

Vì vậy, như ở nhiều nước khác, việc giảm tiền điện, nước... chỉ được áp dụng cho những hộ, người dân khó khăn, thu nhập thấp (căn cứ vào mức thu nhập khai báo tính thuế của họ). Còn người giàu có hơn thì vẫn phải trả giá cước như thường.

Trên hết, để đỡ làm phức tạp hóa vấn đề và dễ thực thi, hãy gộp các biện pháp hỗ trợ lẻ tẻ, dễ gây thất thoát không đúng đối tượng này thành một giải pháp hỗ trợ thống nhất như gói hỗ trợ cho người/doanh nghiệp khó khăn, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, căn cứ vào mức doanh thu, thu nhập của họ trong và sau đại dịch.

------       

(1) https://tuoitre.vn/se-giam-30-thue-thu-nhap-doanh-nghiep-nam-2021-20210802161904938.htm

(2) https://blogs.worldbank.org/developmenttalk/tax-relief-time-crisis-what-countries-are-doing-sustain-business-and-household

Monday 2 August 2021

Đơn hàng rời khỏi Việt Nam do dịch có quay lại? (Bài đăng trên KTSG, 1/8/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/318874/don-hang-roi-khoi-viet-nam-do-dich-co-quay-lai.html 

Các đợt phong tỏa, giãn cách nghiêm ngặt để phòng chống Covid-19 đã được tuyên bố nối tiếp nhau trên nhiều địa phương cả nước. Hậu quả nhãn tiền và thực tế đã có dấu hiệu bắt đầu xảy ra là sự ngừng trệ sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng và các đơn hàng của nước ngoài rời khỏi Việt Nam sang các nước khác, như trong ngành dệt may là một ví dụ.

Tuy nhiên, các đơn hàng rời đi đâu, trong bao lâu, liệu có quay trở lại Việt Nam hay không, khi mà việc phong tỏa, sự đứt gãy chuỗi cung (không chỉ vì Covid-19) cũng đang diễn ra ở nhiều nước, nhiều nơi trên thế giới?

Chuỗi cung ứng thế giới cũng đang oằn mình

Mới rồi trên Reuters có bài viết về sự gặp khó của chuỗi cung ứng thế giới trước hàng loạt các sự kiện tiêu cực(1). Đó là làn sóng mới của biến chủng Delta của Covid-19 trên toàn thế giới, các thảm họa tự nhiên ở Trung Quốc và Đức, và tấn công mạng vào các bến cảng biển chính ở Nam Phi. Những sự kiện này hợp sức đẩy chuỗi cung ứng thế giới vào thế vỡ trận, đe dọa luồng lưu thông dễ tổn thương của nguyên vật liệu, linh kiện, và hàng hóa tiêu dùng khắp thế giới.

Biến chủng Delta của Covid-19 đã không chỉ dẫn đến các đợt phong tỏa các thành phố, các nước, mà còn tạo ra những thách thức không thể ngờ trước đây lên chuỗi cung ứng. Đó là sự “thay ca” hàng trăm ngàn thủy thủ suy mòn sau những đợt hải hành ròng rã trên biển mà nay trở nên bất khả bởi phong tỏa, giãn cách như cho thấy trong năm 2020.

Vì vận tải biển vận chuyển lượng hàng hóa chiếm đến 90% thương mại thế giới nên cuộc khủng hoảng thủy thủ ảnh hưởng đến nguồn cung của hầu như mọi thứ, từ dầu mỏ, quặng sắt đến lương thực và hàng điện tử. Sự tắc nghẽn, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu thể hiện rõ nét qua các con số về công suất vận chuyển còn trống của tàu rất nhỏ, container rỗng hiếm, và tình hình hoạt động (tắc nghẽn) tại một số cảng không mấy cải thiện, mà mới đây nhất là sự dồn ứ container tại cảng Chicago, gây ra sự quá tải cho cả ngành đường sắt vận tải container từ cảng như được đưa tin trên tờ Wall Street Journal (2). Tình hình ách tắc này được dự đoán còn kéo dài đến quý 4, thậm chí là không thể dự đoán được.

Trong khi đó, lũ lụt tại Trung Quốc và Đức, những cường quốc kinh tế, đã giáng thêm đòn lên chuỗi cung ứng thế giới vẫn chưa hồi sức sau các đợt Covid-19 trước đây, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế trị giá hàng ngàn tỷ đô la phụ thuộc vào các nước này.

Ở Trung Quốc, lũ lụt làm gián đoạn nguồn cung than nhiệt từ các mỏ ở Nội Mông và Thiểm Tây ảnh hưởng khả năng phát điện từ các nhà máy nhiệt điện đúng vào đỉnh điểm của nhu cầu điện trong năm vào mùa hè. Còn ở Đức, lũ lụt ảnh hưởng mạnh đến vận tải đường bộ.

Tại Nam Phi, cảng container Durban, một trong những cảng bận rộn nhất ở châu Phi được xác nhận đã bị tấn công mạng hôm 22/7, trong khi mạng IT của công ty logistics Transnet SOC của Nam Phi cũng đã bị tê liệt (3). Những sự kiện này đã làm gián đoạn, dồn ứ container và linh kiện ô tô tại cảng và kho bãi.

Những sự kiện bất lợi trên đã gây ảnh hưởng nặng nề đến ngành công nghiệp chế tạo của thế giới, đặc biệt là ô tô. Hãng Toyota mới đây đã phải ngừng sản xuất tại các nhà máy ở Thái Lan và Nhật vì thiếu linh kiện.

Giá nguyên vật liệu thô tăng cùng với giá cước vận tải đã làm tăng chi phí sản xuất các linh kiện, phụ tùng, máy móc cung cấp cho các hãng chế tạo trên thế giới, đe dọa nỗ lực tiếp tục sản xuất tại nhiều nơi.

Sự rời đi và... quay lại tất yếu

Trong khi Hiệp hội Cảng Trung Quốc công bố tình hình đang còn căng thẳng tại các cảng của mình, họ cũng tiết lộ một số đơn hàng trong ngành chế tạo của các nước Đông Nam Á, Ấn Độ và các khu vực khác do sự bùng phát Covid-19, đã chuyển đến Trung Quốc (1).

Như vậy, việc các đơn hàng rời khỏi Việt Nam sang tay các nước đối thủ khác như Trung Quốc là điều tất yếu, khi mà tình hình Covid-19 dường như đã được kiểm soát tốt ở nước này trong khi lại đang bùng phát và lan truyền với tốc độ chóng mặt ở những nơi khác, nước khác.

Tuy nhiên, không nên nhìn nhận hiện tượng này với một sự đau khổ, nuối tiếc, hay dằn vặt. Hãy nhớ lại thời điểm cao trào thương chiến Mỹ-Trung trước đại dịch. Hàng loạt tin tức và bài viết cho thấy đã có (ý định) dịch chuyển đáng kể luồng đầu tư và thương mại từ Trung Quốc sang Việt Nam, tận dụng hoặc như một sự đối phó với các biện pháp thương mại mang tính trừng phạt của Mỹ lên Trung Quốc.

Thương chiến Mỹ-Trung và nay là Covid-19 dạy chúng ta một bài học rõ ràng rằng, ít nhất trong không gian kinh tế và ở mọi thời điểm, cơn bĩ cực của nước này là cơ hội cho nước khác.  

Điều quan trọng là sự thay đổi dòng chảy đơn đặt hàng này rất có thể chỉ là tạm thời, cho đến khi có một biến cố khác xảy ra, làm mất cân bằng những yếu tố định hình sự thay đổi này. Hãng tưởng tượng sau khi đại dịch Covid-19 qua đi (năm 2022?), quan hệ Mỹ-Trung tiếp tục xấu đi trở lại, còn quan hệ của Mỹ với Việt Nam và các nước láng giềng tiếp tục nồng thắm thêm. Lúc đó, dù Trung Quốc vẫn là một trong những cứ điểm đầu tư và chế tạo hấp dẫn nhất trên thế giới nhưng điều này cũng không thể ngăn một phần đơn hàng sẽ lại rơi vào tay nhà chế tạo Việt (hay Ấn, Đông Nam Á...).

Trên hết, Trung Quốc trong trung và dài hạn cũng đang tự mình đánh mất dần những lợi thế cạnh tranh, như nhân công giá rẻ và hình ảnh hấp dẫn của một người khổng lồ vươn vai trỗi dậy trong hòa bình, sẽ tạo vô số cơ hội cho các nước láng giềng đi sau như Việt Nam, nếu chúng ta biết cách nắm bắt.

Với những đối thủ khác cùng tầm, cuộc đua giành đơn hàng sẽ không diễn ra theo kiểu bài trừ lẫn nhau. Nền kinh tế thế giới tiếp tục phát triển, sự phân hóa và chuyên biệt ngày càng sâu thêm trong chuỗi cung ứng sẽ tạo ra cơ hội có tổng lớn hơn 0 cho Việt Nam và các nước đối thủ của mình.

Tất nhiên, điều kiện tiên quyết để Việt Nam giành được phần bánh lớn hơn này vẫn phải là khả năng nắm bắt cơ hội (ngày càng được cải thiện).

-----

(1) https://www.reuters.com/business/global-supply-chains-buckle-virus-variant-disasters-strike-2021-07-23/      

(2) https://www.wsj.com/articles/supply-chain-backlogs-turn-chicago-into-new-chokepoint-11627064719?mod=hp_listb_pos3

(3) https://safety4sea.com/cyber-attack-hits-south-african-ports/?__cf_chl_jschl_tk__=pmd_dd6465ba89211c4df14033eae6800832e951db8b-1627107464-0-gqNtZGzNAfijcnBszQii

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).