Saturday 15 July 2023

Bài học về quản trị rủi ro từ các vụ khủng hoảng ngân hàng trên thế giới gần đây (Bài đăng trên KTSG, 15/7/2023)

https://thesaigontimes.vn/bai-hoc-ve-quan-tri-rui-ro-tu-cac-vu-khung-hoang-ngan-hang-tren-the-gioi-gan-day/

Quản trị rủi ro trong ngành ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng của các ngân hàng nhằm quản lý và giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn. Các cuộc khủng hoảng gần đây, như sự sụp đổ của ngân hàng SVB và Signiture Bank ở Mỹ, biên độ lãi sụt giảm mạnh tại các ngân hàng Trung Quốc bởi nợ xấu trong ngành bất động sản của nước này, hay sự đóng cửa của ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới, Credit Suisse... một lần nữa đã bộc lộ rõ những yếu kém trong công tác quản trị rủi ro trong ngân hàng nói chung và đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng và vận hành được một hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu hơn.

Xác định rủi ro

Đây là yếu tố đầu tiên và trọng yếu trong công tác quản trị rủi ro mà thường ngân hàng nào cũng (cần) nhận thức được và nỗ lực thực hiện tốt. Tuy nhiên, thực tế không luôn như vậy, và ví dụ về sự sụp đổ của SVB cho thấy đôi khi, ngay cả các ngân hàng tưởng chừng rất mạnh khỏe nhưng vẫn hoàn toàn có thể chết trên đống tài sản có chất lượng cao của mình. Điều này cho thấy nhiều ngân hàng vẫn thiếu khả năng nhận biết rủi ro đang hiện hữu kịp thời. Họ đã đánh giá thấp rủi ro liên quan đến danh mục cho vay, đầu tư của ngân hàng hoặc không nhận ra tác động tiềm năng của sự suy thoái thị trường.

Để khắc phục điểm yếu này, các ngân hàng cần chú trọng vào công tác phân tích rủi ro tín dụng liên quan đến danh mục cho vay và đầu tư, đánh giá tác động của suy thoái thị trường, và xác định được các ngành hoặc khu vực kinh tế cụ thể nào đã được cho vay, đầu tư quá nhiều, có khả năng dẫn đến rủi ro đổ vỡ.

Đánh giá rủi ro

Một yếu kém khác trong quản trị rủi ro là việc các ngân hàng không thể đánh giá và định lượng rủi ro một cách chính xác. Điều này có thể do bất cập trong các mô hình đo lường rủi ro, các kịch bản kiểm tra căng thẳng nhưng không đủ... căng thẳng, hoặc do dựa quá nhiều vào dữ liệu lịch sử vốn có thể không phản ánh được các điều kiện thị trường cực đoan. Những điểm yếu này đã bộc lộ rõ ràng qua tình trạng kinh doanh suy giảm ở các ngân hàng liên quan đến bất động sản tại Trung Quốc, khi các ngân hàng có thể đã đánh giá thấp tác động của sự suy giảm đáng kể giá trị bất động sản và nợ xấu tăng vọt.

Để khắc phục yếu kém này, các ngân hàng cần liên tục cập nhật và cải tiến các mô hình đo lường rủi ro để định lượng và đánh giá chính xác rủi ro, từ đó tiến hành kiểm tra căng thẳng và phân tích các kịch bản một cách nghiêm ngặt để đánh giá khả năng chịu đựng của danh mục của ngân hàng trong các hoàn cảnh bất lợi. Điều này bao gồm xem xét các kịch bản với các điều kiện thị trường cực đoan, có các cú sốc về thanh khoản, thay đổi lãi suất và tỷ giá biến động, giá trị tài sản sụt giảm mạnh (không chỉ, ví dụ, giảm 10-20% mà lên đến 50% hoặc hơn), tăng vọt các khoản nợ không có khả năng thu hồi, và số lượng các khách hàng mất khả năng chi trả tăng lên. Các ngân hàng cần đảm bảo các bài kiểm tra căng thẳng của mình bao phủ thỏa đáng các rủi ro tiềm ẩn và chuẩn bị các chiến lược giảm thiểu tác động phù hợp.

Tuân thủ quy định

Về lý thuyết, ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt các hướng dẫn và quy định gồm, ví dụ, các tiêu chuẩn vốn an toàn tối thiểu, thanh khoản, và quản lý rủi ro để đối phó thành công hơn các cuộc khủng hoảng tiềm năng, và duy trì sự ổn định tài chính. Tuy nhiên, rất may (và đã trở thành không may) cho những ngân hàng “cỡ nhỏ” như SVB và Silvergate, từng vận động hành lang thành công để nằm ngoài phạm vi chế tài của luật lệ được chính quyền Mỹ thiết kế và tung ra sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008 nhằm giảm thiểu rủi ro dẫn đến các cuộc khủng hoảng tương tự, với lý do rằng chúng là những ngân hàng nhỏ, rủi ro thấp và chủ yếu cho vay “các công ty tạo ra công ăn việc làm trong nền kinh tế sáng tạo”, gồm các công ty kinh doanh tiền ảo và quỹ đầu tư mạo hiểm.

Kết quả của việc “nằm ngoài vòng pháp luật” trên là, chẳng hạn với SVB, giới lãnh đạo đã bỏ qua những nguyên tắc kinh doanh ngân hàng cơ bản mà các ngân hàng thông thường khác phải tuân thủ, thực hiện – như thậm chí không có giám đốc rủi ro hầu như suốt cả năm 2022, và không thực hiện phòng ngừa rủi ro trong các vụ đánh cược lãi suất của mình – là những yếu tố rốt cuộc dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng.   

Như vậy, các ngân hàng phải thấm nhuần nhận thức rằng (xây dựng và thực thi) quản trị rủi ro trước hết là có ích và giúp cho chính mình, chứ không phải chỉ là gánh nặng hành chính, kinh tế được áp đặt vô lối, phiền phức bởi cơ quan chức năng lên các ngân hàng để rồi từ đó tìm cách lảng tránh hoặc thực thi một cách đối phó cho có.

Cho vay, đầu tư tập trung quá mức

Một số ngân hàng đã cho vay và/hoặc đầu tư quá tập trung vào các ngành hoặc khu vực địa lý cụ thể, làm tăng sự tổn thương đối với các cuộc khủng hoảng cục bộ. Với các ngân hàng cho vay tập trung vào ngành bất động sản tại Trung Quốc, các ngân hàng này đã chịu tổn thất đáng kể khi lĩnh vực bất động sản Trung Quốc suy sụp.

Bởi vậy, các ngân hàng nên phân tán, đa dạng hóa danh mục cho vay của họ sang các ngành công nghiệp và khu vực địa lý khác nhau để giảm thiểu tác động của sự suy thoái trong các ngành cụ thể và giảm thiểu rủi ro liên quan đến từ sự cho vay quá tập trung. Tất nhiên, để đa dạng hóa danh mục cho vay một cách hữu hiệu, tối ưu, các ngân hàng phải thực hiện tốt việc xác định và đánh giá đúng mức rủi ro, như nói ở trên, nhằm xác định mức phân bổ tối ưu cho các ngành lĩnh vực, ngành, khu vực địa lý khác nhau để sao cho vừa đảm bảo không tước đi cơ hội tối đa hóa lợi nhuận từ những khoản cho vay có lợi suất cao nhưng cũng không làm tăng quá mức rủi ro tổng thể cho danh mục đầu tư, cho vay của mình.

Quản trị doanh nghiệp và văn hóa tỉnh táo với rủi ro

Các ngân hàng đôi khi thiếu đi một khuôn khổ và tập quán quản trị rủi ro hữu hiệu và mạnh mẽ, thể hiện qua các khiếm khuyết trong giám sát rủi ro cũng như trong các ủy ban/nhân sự cho bộ phận quản lý rủi ro, và sự thiếu vắng một nền văn hóa tỉnh táo với rủi ro. Ví dụ, việc đóng cửa của SVB nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thành lập các ủy ban và nhân sự quản lý rủi ro riêng biệt, độc lập, và đảm bảo rằng Hội đồng quản trị ngân hàng có đủ chuyên môn về xác định và giám sát rủi ro.

Lập kế hoạch dự phòng và quản lý khủng hoảng

Có ngân hàng không có hoặc không xây dựng được các kế hoạch dự phòng toàn diện và khuôn khổ quản lý khủng hoảng, bao gồm các quy trình định sẵn để quản lý nhu cầu thanh khoản, giao tiếp với các bên liên quan và phối hợp với cơ quan quản lý... Việc thiếu các kế hoạch định sẵn thường sẽ dẫn đến việc chậm triển khai các biện pháp thích hợp và làm tăng tác động của cuộc khủng hoảng, như đã được chứng kiến qua tình trạng rất lúng túng, thụ động, hầu như phó thác số phận của mình – các ngân hàng bị đóng cửa vừa qua cho bên thứ ba, gồm định chế tài chính khác hoặc cơ quan chức năng.

Giám sát và báo cáo rủi ro

Vẫn có các ngân hàng có các bất cập về năng lực giám sát rủi ro và cơ chế báo cáo. Điều này có thể dẫn đến việc chậm trễ hoặc không chính xác trong việc nhận biết và báo cáo rủi ro, làm trì hoãn quyết định kịp thời và quản trị rủi ro chủ động, mà điển hình như SVB đã không kịp thời nhận diện được rủi ro thanh khoản gia tăng để rồi có những hành động xử lý tình huống rất bất cập, châm ngòi cho sự sụp đổ. Do đó, cần có các công cụ phân tích rủi ro tiên tiến và cơ chế báo cáo theo thời gian thực để góp phần khắc phục những bất cập này.

Friday 14 July 2023

Chính sách tiền tệ của Việt Nam dưới tác động chính sách của các ngân hàng trung ương trên thế giới (Bài đăng trên KTSG, 13/7/2023, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/chinh-sach-tien-te-viet-nam-duoi-tac-dong-cua-chinh-sach-tien-te-cac-nuoc-lon/?fbclid=IwAR04A5htk7_HsJVgSUQxsasOopaP85E0D_ppkHwGoTxW9SpDiwPFztUYX_8_aem_AWuBHT7o8-P7qudjQKXe06LKiOg2dxEBIh1gvpi8W5lEjn2KdcwY2Aj6l-yG0A8-g8Q

Không giống như ở nhiều nước khác trên thế giới, nơi lạm phát nhìn chung đã đạt đỉnh và giảm nhiệt dần (tuy vẫn đứng ở mức cao) từ một vài tháng trước, lạm phát của Việt Nam, như được biểu hiện qua tốc độ tăng/giảm của chỉ số giá cả CPI bình quân 5 tháng đầu năm nay so với năm trước, vẫn tiếp tục xu hướng tăng mạnh kể từ năm 2021 (3,55% năm 2023, 2,25% năm 2022, và 1,29% năm 2021). 

So với mức lạm phát mục tiêu mà Quốc hội đề ra cho năm nay là 4,5% (đã tăng từ mức 4% đặt ra cho năm 2022), và so với mức lạm phát thực tế đạt được trong năm 2022, 3,15%, việc kiềm chế lạm phát dưới mức mục tiêu cho năm nay rõ ràng là không ít thách thức. Cũng cần lưu ý rằng mức mục tiêu 4,5% của Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với mức tiêu chuẩn 2% mà nhiều nước đã và đang theo đuổi.  

Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ đầu năm nay đã có xu hướng chững lại rõ rệt sau khi đạt được mức tăng ấn tượng trong các quý của năm trước nhờ chấm dứt giãn cách, phong tỏa trong dịch Covid. Kèm thêm những dấu hiệu kém tích cực có thể quan sát, đong đếm được như tình trạng doanh nghiệp đóng cửa, chấm dứt hoạt động tăng lên đáng kể, đơn hàng giảm sút, các cửa hàng ở các phố lớn đóng cửa, việc sa thải diễn ra nhiều lên..., đã có nhiều tiếng nói yêu cầu tiếp tục giảm lãi suất (nới lỏng chính sách tiền tệ), đi ngược lại với chiều hướng khó tránh khỏi là phải tăng lãi suất để tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn đang có xu hướng gia tăng.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với tư cách là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, với sứ mệnh ổn định giá cả và tài chính, quyết định mặt bằng lãi suất trong nước, đồng thời cũng có tư cách là một bộ thuộc Chính phủ, chịu sự chi phối, tác động chính sách trực tiếp từ (Thủ tướng) Chính phủ và gián tiếp từ các cơ quan, đoàn thể khác, vẫn như thường lệ, đang chịu áp lực lớn từ các phía xung đột để đưa ra được một chính sách tiền tệ với lãi suất khả dĩ đạt điểm cân bằng thỏa mãn cho tất cả các bên. Nhiệm vụ của họ càng trở nên nan giải hơn nữa khi việc hoạch định chính sách tiền tệ của mình còn phải “nhìn” sang cả chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.

Ảnh hưởng từ các ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương các nước lớn trên thế giới có thể tác động đến chính sách tiền tệ của NHNN qua một số kênh, bao gồm lãi suất, tỷ giá, dòng vốn lưu chuyển xuyên biên giới, ổn định tài chính, và điều phối chính sách.

Khi một ngân hàng trung ương lớn như Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tại Mỹ điều chỉnh lãi suất chính sách, nó có thể ảnh hưởng đến chi phí vay, quyết định đầu tư và kỳ vọng về lạm phát trong nền kinh tế trong nước, từ đó ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước.

Tương tự, các biện pháp của ngân hàng trung ương, chẳng hạn như thay đổi lãi suất ở Mỹ hoặc can thiệp vào thị trường ngoại hối như ở Nhật, có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái tiền đồng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động đến chính sách tiền tệ trong nước bởi vì nó ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của xuất khẩu, giá nhập khẩu và lạm phát, là những yếu tố phải tính đến trong hoạch định chính sách tiền tệ của NHNN.

Ngoài ra, chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn cũng có thể ảnh hưởng đến dòng vốn giữa các quốc gia. Khi Fed thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, như giảm/ngừng nới lỏng định lượng hoặc mua tài sản tư nhân (trái phiếu doanh nghiệp), nó có thể làm tăng lãi suất và giảm cung tiền trong nền kinh tế. Điều này khiến cho các nhà đầu tư chuyển sang tìm kiếm lợi suất cao ở Mỹ và có thể đảo ngược dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam. Khi đó, NHNN có thể sẽ phải xem xét điều chỉnh chính sách của mình để quản lý tác động đảo chiều của dòng vốn ngoại lên nền kinh tế trong nước.

Một kênh tác động khác nữa là thông qua sự ổn định tài chính trong nước. Các động thái chính sách thực hiện bởi các ngân hàng trung ương lớn có thể ảnh hưởng đến điều kiện tài chính và tâm lý thị trường toàn cầu. Ví dụ, sự thay đổi chính sách tiền tệ, việc cung cấp thanh khoản hoặc sự thực thi các quy định pháp lý bởi một ngân hàng trung ương lớn có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính toàn cầu, bao gồm mức cung tín dụng, giá tài sản, và niềm tin thị trường nói chung. Những diễn biến này có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước. Vì vậy, NHNN cần đánh giá tác động của chúng lên hệ thống tài chính trong nước và điều chỉnh chính sách một cách phù hợp để duy trì ổn định các thị trường tài chính trong nước.

Thực tại và xu hướng chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn

Ngân hàng trung ương của phần lớn các nước phát triển đã tăng thêm lãi suất chính sách của mình để giảm áp lực lạm phát và giảm thiểu nguy cơ lạm phát vượt mức mục tiêu, dẫn đến kỳ vọng giá cả và tiền lương sẽ được điều chỉnh cao hơn tương ứng. Mức lãi suất chính sách được thị trường kỳ vọng đã giảm đáng kể vào tháng Ba khi xảy ra các vụ đóng cửa một số ngân hàng ở Mỹ và Thụy Sĩ. Tuy nhiên, những lo ngại về căng thẳng ngân hàng phổ biến đã giảm đi một phần sau phản ứng của các cơ quan quản lý tài chính ở các quốc gia này. Do đó, lãi suất chính sách được thị trường kỳ vọng đã tăng lên trở lại ở nhiều nền kinh tế phát triển, mặc dù vẫn thấp hơn so với mức đã đạt được trong năm nay.

Sự định giá trên các thị trường cho thấy lãi suất chính sách đã đạt hoặc ở gần ngưỡng cao nhất ở hầu hết các nền kinh tế phát triển, và dự kiến lãi suất sẽ giảm trong một số nền kinh tế trong nửa cuối năm nay. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng trung ương đã có những động thái cho thấy lãi suất chính sách có thể cần được duy trì ở mức cao trong một thời gian nữa để đảm bảo lạm phát trở lại mức mục tiêu.

Một số động thái chính gần đây nhất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới được liệt kê như dưới đây.

·       - Fed đã tăng mục tiêu cho lãi suất chính sách của mình lên 5-5,25% sau hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Năm. Theo Fed, họ sẽ đánh giá các dữ liệu mới và xem xét tác động trễ của việc siết chặt cho đến nay để xác định mức độ siết chặt phù hợp.

·       - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 50 điểm cơ bản lên 3% sau tại cuộc họp vào tháng Ba, theo dự báo được đưa ra trong tháng Hai. ECB cho biết tương lai của lãi suất chính sách sẽ phụ thuộc vào dữ liệu thực tế thu thập trong bối cảnh bất trắc đang gia tăng.

·       - Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản lên 4,25% tại cuộc họp vào tháng Ba. BoE cho biết sẽ siết chặt chính sách tiền tệ thêm nếu có bằng chứng về áp lực lạm phát dai dẳng hơn.

·       - Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) đã giữ mức lãi suất chính sách ổn định ở 4,5% trong cả hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Tư. BoC cho biết sẵn sàng tăng mức lãi suất chính sách nếu cần thiết.

·       - Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã giữ nguyên mức lãi suất chính sách ở mức -0,1% trong cả hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Tư và cho biết sẽ tiếp tục nới lỏng tiền tệ (qua mua tài sản) cho đến khi lạm phát duy trì ổn định trên mức mục tiêu 2%.

·       - Một số ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế phát triển khác như ở Thụy Điển, Thụy Sĩ, Nga, Hàn Quốc, và New Zealand  cũng đều đã tăng mức lãi suất chính sách của mình lên mức 1,5-5,25% trong các cuộc họp diễn ra từ tháng Hai đến tháng Tư.

·      -  Hầu hết các ngân hàng trung ương đã tiếp tục giảm số lượng tài sản được mua theo chương trình nới lỏng định lượng. BoC cho phép các trái phiếu đáo hạn mà không tái đầu tư, trong khi Fed tiếp tục tái đầu tư một phần thu nhập từ trái phiếu đáo hạn. Vào tháng Ba, ECB đã bắt đầu giảm số lượng trái phiếu bằng cách tái đầu tư một phần nhỏ. BoE tiếp tục bán các khoản trái phiếu của mình. Ngân hàng Trung ương Thụy Điển gần đây đã bắt đầu bán các khoản trái phiếu chính phủ có thời hạn dài, bên cạnh việc cho phép các tài sản khác đáo hạn mà không tái đầu tư. BoJ hiện là ngân hàng trung ương lớn duy nhất vẫn đang tăng lượng trái phiếu mua sắm của mình.

Như vậy có thể thấy, ngoại trừ BoJ, các ngân hàng trung ương lớn khác hầu như chỉ chú trọng đến kiềm chế lạm phát và sẵn sàng tăng lãi suất chính sách hơn nữa nếu lạm phát vẫn vượt xa mục tiêu, vẫn đứng ở mức cao dai dẳng dù có dịu đi so với mức đỉnh mấy tháng trước đây.

NHNN có thể làm được gì?

Kể cả trong kịch bản thuận lợi, theo đó lạm phát thế giới giảm đi và các ngân hàng trung ương lớn không phải tăng lãi suất thêm nữa thì việc để lạm phát trở lại mức mục tiêu 2% ở các nước này sẽ là một chặng đường không hề ngắn. Do đó, lãi suất thế giới nhìn chung sẽ vẫn đứng ở mức cao trong nửa năm cuối 2023 và sang đến ít nhất nửa năm đầu 2024.     

Ở trong nước, NHNN đã “nhanh chân” hơn các đối tác nước ngoài của mình, lội ngược dòng trào lưu tăng lãi suất chung trên thế giới bằng hai đợt hạ lãi suất cấp tập trong mấy tháng qua. Hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân là lý do chủ yếu cho các hành động chính sách này trong bối cảnh tỷ giá tiền đồng với đô la Mỹ đã gia tăng trong mấy tháng gần đây.

Tuy nhiên, tỷ giá tiền đồng tăng cũng là theo xu hướng tăng chung của các đồng tiền châu Á và phần lớn các đồng tiền mạnh khác trên thế giới khi đô la Mỹ suy yếu bởi lạm phát và tăng trưởng đều hạ nhiệt tại Mỹ, chứ không hẳn là bởi từ các điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam.

Trong bối cảnh bất định về triển vọng lạm phát và lập trường cứng rắn về kiềm chế lạm phát (thông qua nâng/duy trì lãi suất chính sách cao) như là một ưu tiên chính sách hàng đầu của các ngân hàng trung ương không chỉ ở Mỹ mà còn ở các nước phát triển, việc ổn định tỷ giá tiền đồng bằng các yếu tố nội lực của nền kinh tế Việt Nam như dự trữ ngoại hối, thặng dư thương mại, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp..., vốn đã ít nhiều bị thương tổn trong giai đoạn trong và hậu Covid, sẽ là một thách thức lớn.

Do đó, xét đến các yếu tố khá bất lợi trong hoàn cảnh hiện tại, như áp lực lạm phát đứng ở mức cao trong khi chính sách tiền tệ đã được nới lỏng sớm và đáng kể (với lãi suất chính sách giảm trở lại bằng với mức trước Covid), và triển vọng lạm phát, lãi suất cao ở phần còn lại của thế giới, NHNN cần kiên định ít nhất là không hạ thêm lãi suất chính sách trong nửa cuối năm nay như yêu cầu của nhiều bên, thậm chí phải linh hoạt tăng lãi suất trở lại nếu cần thiết như cách/lập trường của nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.  

Thursday 13 July 2023

Bối cảnh kinh tế và triển vọng ngành ngân hàng (Bài đăng trên KTSG, 13/7/2023, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/boi-canh-kinh-te-va-trien-vong-nganh-ngan-hang-viet-nam/

Bài viết này bắt đầu bằng việc điểm lại tình hình kinh tế thế giới trong nửa đầu năm 2023 và đưa ra một số dự báo về triển vọng kinh tế thế giới trong phần còn lại của năm 2023 và năm 2024. Sau đó, bài viết thảo luận những nội dung tương tự cho nền kinh tế Việt Nam. Phần tiếp theo của bài sẽ phân tích một số tác động của kinh tế thế giới và trong nước lên ngành ngân hàng Việt Nam và triển vọng của nó trong thời gian tới.

Bối cảnh và triển vọng kinh tế thế giới năm 2023 và sau đó

Đầu năm 2023 xuất hiện một số dấu hiệu cho thấy kinh tế thế giới có thể “hạ cánh mềm” – với lạm phát giảm và tăng trưởng ổn định. Những dấu hiệu này đã nhạt đi khi lạm phát vẫn cao một cách dai dẳng và đã có những biến động tài chính gần đây. Mặc dù lạm phát đã giảm khi các ngân hàng trung ương tăng lãi suất và giá thực phẩm và năng lượng giảm, nhưng áp lực giá cả vẫn lớn, với tình trạng thị trường lao động thắt chặt ở một số nền kinh tế.

Những tác động phụ từ sự tăng nhanh lãi suất chính sách đang trở nên rõ rệt, làm lộ rõ những khiếm khuyết của ngành ngân hàng, và lo ngại về sự lây lan đã gia tăng rộng ra toàn bộ ngành tài chính. Cơ quan chức năng các nước đã thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để ổn định hệ thống ngân hàng, trong bối cảnh sự thay đổi tâm lý nhà đầu tư có thể làm biến động mạnh môi trường tài chính.

Các yếu tố chính định hình nên nền kinh tế thế giới năm 2022 được dự báo sẽ tiếp tục tồn tại trong năm nay, nhưng với cường độ khác. Mức nợ vẫn cao đã hạn chế khả năng của các nhà hoạch định chính sách tài khóa đối phó với những thách thức mới. Giá hàng hóa tăng mạnh sau khi Nga tấn công Ukraine đã ổn định trở lại, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp diễn và căng thẳng địa chính trị dâng cao. Các biến thể nhiễm COVID-19 gây ra đợt bùng phát rộng rãi vào năm ngoái, nhưng các nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nhất, đặc biệt là Trung Quốc, đang phục hồi, giảm thiểu sự gián đoạn chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, dù giá thực phẩm và năng lượng thấp hơn và sự cải thiện trong hoạt động chuỗi cung ứng, rủi ro cho nền kinh tế thế giới đi xuống vẫn là chủ đạo với sự bất trắc gia tăng từ các biến động tài chính vừa qua.

Với giả định rằng áp lực tài chính gần đây được kiềm chế, IMF dự báo tăng trưởng thế giới sẽ giảm từ 3,4% vào năm 2022 xuống còn 2,8% vào năm 2023, trước khi tăng dần lên và ổn định quanh mức 3,0% trong năm năm tới. Đây là mức dự báo tăng trưởng trung hạn thấp nhất trong nhiều thập kỷ. Các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể, từ 2,7% vào năm 2022 xuống còn 1,3% vào năm 2023. Nếu tình trạng căng thẳng tài chính tiếp tục, tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm xuống khoảng 2,5% vào năm 2023 – tăng trưởng yếu nhất kể từ suy thoái toàn cầu năm 2001, trừ năm 2020 khi Covid-19 mới bùng nổ và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009.

IMF cho biết triển vọng tăng trưởng chậm này phản ánh sự thắt chặt chính sách tiền tệ để giảm lạm phát, cũng như hậu quả của các điều kiện tài chính xấu đi gần đây, và cuộc chiến tiếp diễn ở Ukraine và sự phân tách hoạt động kinh tế theo biên giới địa chính trị. Lạm phát toàn cầu dự kiến sẽ giảm từ 8,7% vào năm 2022 xuống còn 7,0% vào năm 2023 nhờ giá hàng hóa giảm, nhưng lạm phát lõi được dự báo giảm chậm hơn. Lạm phát chắc chắn khó có thể giảm về mức mục tiêu trước năm 2025 ở hầu hết các nước. Khi lạm phát trở về mức mục tiêu, lãi suất có thể sẽ được giảm về mức trước đại dịch.

IMF nhận định rằng rủi ro cho triển vọng của kinh tế thế giới nghiêng về hướng tiêu cực hơn, với khả năng hạ cánh cứng tăng lên mạnh. Tình trạng căng thẳng trong ngành tài chính có thể sẽ gia tăng và sự lây lan có thể diễn ra, làm yếu đi nền kinh tế thực bởi sự suy yếu đáng kể trong các điều kiện tài chính và buộc các ngân hàng trung ương phải xem xét lại đường hướng chính sách của mình. Tình trạng khó khăn về nợ công có thể lan rộng và trở nên có tính hệ thống hơn, trong bối cảnh chi phí vay cao và tăng trưởng thấp hơn. Cuộc chiến ở Ukraine có thể khốc liệt hơn và dẫn đến các đợt tăng giá thực phẩm và năng lượng, đẩy lạm phát lên. Lạm phát lõi có thể trở nên dai dẳng hơn dự kiến, đòi hỏi việc siết chặt tiền tệ hơn để kiềm chế. Sự phân tách hoạt động kinh tế theo khối địa chính trị có khả năng gây ra tổn thất sản lượng lớn, gồm thông qua tác động của nó lên đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Bối cảnh và triển vọng kinh tế Việt Nam

Tăng trưởng GDP của Việt Nam cũng theo xu hướng giảm tốc trên toàn cầu, giảm còn 3.3% trong quý I năm 2023, phản ánh tác động từ sự suy yếu của sản xuất công nghiệp và xuất khẩu khi nhu cầu thế giới suy giảm. Đây là một bước hụt lớn nếu so với tốc độ tăng trưởng GDP 8.0% cho cả năm 2022 – giai đoạn phục hồi mạnh mẽ từ sự gián đoạn kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra trong nửa cuối năm 2021.

Sau khi tăng 10.6% trong năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm 11,9% trong quý I năm 2023 (giảm 11,6% trong 5 tháng đầu năm) do tốc độ tăng trưởng chậm lại ở Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), hai thị trường xuất khẩu chính chiếm 42% (Mỹ chiếm hơn 29%) tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.

Sản xuất công nghiệp của Việt Nam tăng 7,8% trong năm 2022, với sản lượng ngành chế biến, chế tạo tăng 8,0% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, ngành chế biến, chế tạo đã giảm tốc vào đầu năm 2023, với sản xuất công nghiệp giảm 2% so với cùng kỳ trong năm tháng đầu năm 2023.

Chỉ số mua hàng sản xuất S&P Global (PMI) của Việt Nam đã giảm xuống 45,3 vào tháng 5 năm 2023, giảm so với 51,2 vào tháng 2 và dưới mức trung lập 50,0 lần thứ tư trong năm tháng gần nhất. Sự suy giảm dưới mức trung lập liên tiếp kể từ tháng 2 cho thấy điều kiện kinh doanh đã suy yếu đáng kể.

Cuộc khảo sát PMI tháng 5 cũng cho thấy áp lực lạm phát vẫn còn lớn, tuy đã giảm trong quý I năm 2023 nhờ giá nguyên liệu tăng với tốc độ chậm hơn và các doanh nghiệp muốn định giá cạnh tranh hơn để kích thích nhu cầu.

Lạm phát thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân 5 tháng đầu năm 2023 đã tăng 3,55% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản tăng 4,83%, cao hơn mức CPI bình quân chung.

Với các điều kiện kinh tế trong và ngoài nước kém lạc quan hơn, IMF trong báo cáo mới nhất xuất bản hồi tháng 5 đã hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 xuống còn 5,8%, trước khi tăng tốc lên 6,9% năm 2024.

Cũng theo IMF, lạm phát dự kiến cho năm nay sẽ tăng lên 5% so với 3,2% năm 2022, và giảm nhẹ xuống 4,3% năm 2024. Bối cảnh của dự báo này có thể là sự tăng lên về giá điện và tiền lương trong khu vực nhà nước.

Tác động lên ngành ngân hàng Việt Nam

Sự kết hợp của các yếu tố nội và ngoại vi đã góp phần làm gia tăng bất trắc và bất ổn trong ngành tài chính, ngân hàng của Việt Nam. Lạm phát và lãi suất tăng trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ của Việt Nam, với việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng lãi suất chính sách lên 200 điểm cơ bản trong hai bước tăng 100 điểm cơ bản vào tháng 9 và tháng 10 năm 2022.

Lãi suất tăng mạnh đã làm tăng chi phí vốn của ngân hàng, dẫn đến tăng chi phí vay cho cá nhân và doanh nghiệp. Sự cố rút vốn tại SCB vào tháng 10 năm 2022 đã làm lung lay lòng tin trong ngành ngân hàng và thị trường vốn. Những yếu tố này đã làm tăng mức định giá rủi ro, và nhà đầu tư đòi hỏi lợi suất cao hơn cho các khoản đầu tư của mình, thể hiện qua sự sụt giảm giá cổ phiếu (-32,8% năm 2022), tăng lợi suất trái phiếu trái phiếu chính phủ (tăng 324 điểm cơ bản năm 2022), và tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng.

Ngành bất động sản cũng bị ảnh hưởng nặng nề từ việc tăng lãi suất và đang phải đối mặt với sự gia tăng về áp lực thanh khoản – một phần là do hậu quả của việc các cơ quan chức năng mạnh tay xử lý các giao dịch trái quy định trên thị trường trái phiếu liên quan đến các doanh nghiệp bất động sản.

Những rủi ro trong ngành bất động sản đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và tình hình hoạt động của ngân hàng tại Việt Nam (với ước tính dư nợ cho vay bất động sản phi nhà ở chiếm hơn 12% trong tổng tài sản cho vay). Các ngân hàng nhỏ đặc biệt bị ảnh hưởng nhiều hơn từ việc thắt chặt thanh khoản.

Để hỗ trợ thanh khoản trên cái nền tăng trưởng kinh tế đang giảm tốc nhanh, NHNN đã nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất chính sách 100 điểm cơ bản vào ngày 15/3 và tiếp tục giảm 50 điểm cơ bản vào ngày 3/4. Nới lỏng tiền tệ và nỗ lực phối hợp trong toàn bộ hệ thống chính quyền để khai thông tín dụng đã góp phần ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ trong cả hai lĩnh vực bất động sản và ngân hàng.

Nhìn chung, rủi ro về tiếp cận vốn ngân hàng đã giảm đi. Tình hình thanh khoản và lãi suất trong hệ thống ngân hàng đã được nới lỏng trong những tuần gần đây, mặc dù tăng trưởng cho vay vẫn tương đối chậm và ở mức thấp nhất trong thập kỷ trong tháng 4 năm 2023. Sự chênh lệch hẹp giữa lãi suất thị trường đồng Việt Nam và đô la Mỹ tiếp tục hạn chế khả năng của NHNN trong việc giảm chi phí huy động vốn của ngân hàng thêm nữa, dẫn đến làm sụt giảm lợi nhuận lãi suất ròng (NIM) – đặc biệt là đối với các ngân hàng nhỏ hơn.

Áp lực từ công luận lên việc giảm lãi suất cho vay cũng có thể làm giảm biên lợi nhuận từ cho vay, nhưng mức độ suy giảm này xem ra không đáng kể, căn cứ vào tốc độ giảm lãi suất cho vay, theo công bố của các ngân hàng, khá chậm chạp và miễn cưỡng. Nhờ đó, các ngân hàng vẫn có khả năng duy trì được lợi nhuận trước dự phòng ở mức khả quan.

Tuy vậy, thanh khoản có thể chỉ trở lại bình thường dần dần trong vài quý tới khi những biến động tiền tệ, tài chính toàn cầu giảm đi, đồng hành với sự hạ nhiệt dần của lạm phát và lãi suất thế giới. Các ngân hàng nhỏ hơn với khả năng huy động vốn yếu hơn sẽ tiếp tục đối mặt với áp lực về huy động vốn và giảm mạnh biên lợi nhuận từ cho vay, trong khi những ngân hàng theo đuổi tăng trưởng tín dụng cao trong quá khứ sẽ phải đối mặt với rủi ro tăng cao về nợ xấu.

Những khó khăn trên có thể tiếp tục tồn tại trong nửa cuối năm nay và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng sẽ khác nhau tùy vào khả năng huy động vốn và khẩu vị rủi ro của mình. Dẫu vậy, các yếu tố cơ bản và triển vọng kinh doanh trong dài hạn hơn cho ngành vẫn được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là tích cực. 

Wednesday 12 July 2023

Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thị trường mua bán nợ (Bài đăng trên TBKTSG, 12/7/2023)

https://thesaigontimes.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-xay-dung-thi-truong-mua-ban-no/

Để xây dựng và phát triển thị trường mua bán nợ xấu cần một quyết sách toàn diện trên các mặt pháp lý, quy định và tổ chức. Đây là những điểm còn chứa đựng nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng xử lý nợ xấu ở Việt Nam vẫn rất chậm chạp và không hiệu quả - nợ xấu chủ yếu chỉ chuyển loanh quanh giữa ngân hàng và Công ty Quản lý tài sản (VAMC).

Nhìn vào kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới, có thể thấy vấn đề cấp thiết nhất với Việt Nam hiện nay trong việc xử lý nợ xấu là cải cách và hoàn thiện khung pháp lý và các quy định có liên quan.

Xây dựng một khung pháp lý mạnh mẽ là thiết yếu cho sự phát triển của thị trường mua bán nợ xấu. Các quốc gia đã ban hành hoặc sửa đổi luật để tối giản hóa quy trình tịch thu tài sản (thế chấp), tăng tốc thu hồi nợ, cải thiện quyền của người cho vay, đảm bảo đối xử công bằng với người vay; đưa ra các quy định về gán nợ, mua nợ, bán nợ, thành lập và hoạt động của các công ty quản lý nợ (AMC), chứng khoán hóa các khoản nợ xấu... Quy tắc và quy định rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường dự đoán được cho các giao dịch nợ xấu và tăng niềm tin của nhà đầu tư.

Các quốc gia có khuôn khổ pháp luật và quy định xử lý, mua bán nợ xấu hữu hiệu, có thể là một tham khảo tốt cho Việt Nam có thể kể đến là Mỹ (với việc ban hành Luật Thực thi Pháp lý Đòi nợ Công bằng (FDCPA) và Luật Báo cáo Tín dụng Công bằng (FCRA) và các quy định dưới luật tương ứng), Anh (các quy định mua bán nợ xấu ban hành bởi Cơ quan Quản lý Tài chính (FCA) và Luật Tín dụng Người tiêu dùng), Úc (khung pháp lý toàn diện cho việc giao dịch nợ chủ yếu được quản lý bởi Ủy ban Chứng khoán và Đầu tư Úc (ASIC)), Trung Quốc (thành lập các công ty quản lý tài sản chuyên môn và phát triển thị trường thứ cấp cho nợ xấu), Nhật Bản (ban hành Luật Tài sản Tài chính, gồm chứng khoán hóa nợ xấu), và Ấn Độ (Luật Phá sản và mất khả năng chi trả (IBC) giải quyết vấn đề nợ xấu và đẩy nhanh quá trình giải quyết).

Xét đến trường hợp của Việt Nam. Dù đã có những sửa đổi, cải thiện trong những năm qua nhưng các quy định và luật lệ vẫn chưa giải quyết được hữu hiệu tình trạng mơ hồ trong thủ tục thu giữ tài sản, quy trình pháp lý kéo dài và hạn chế trong quyền của người cho vay cản trở tham gia của các nhà đầu tư vào thị trường.

Quá trình pháp lý dài và sự không chắc chắn xung quanh các thủ tục tịch thu tài sản là một cản trở lớn đến sự phát triển thị trường nợ xấu. Ví dụ, việc tịch thu, xử lý tài sản thế chấp ở Việt Nam có thể mất trung bình 420 ngày – là mức tương đối cao so với các nước có thủ tục tịch thu tài sản hiệu quả hơn, theo báo cáo “Doing Business” của Ngân hàng Thế giới. Quá trình xử lý kéo dài và nhiều bất trắc này dẫn đến làm giảm sự tham gia của nhà đầu tư trên thị trường.

Đáng lưu ý là khung pháp lý hiện tại cũng hạn chế sự tham gia của một số nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, trong việc giao dịch và giải quyết nợ. NHNN đang trình Quốc hội Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), bổ sung thêm một chương về xử lý nợ xấu. Tuy vậy, Dự thảo Luật vẫn tập trung vào các giải pháp để ngân hàng, Công ty Quản lý tài sản (VAMC) tự xử lý nợ xấu, mà chưa có giải pháp thúc đẩy thị trường mua bán nợ.

Số liệu của các cơ quan chức năng cho thấy trong 10 năm tính đến 2022, các tổ chức tín dụng đã xử lý được gần 1,57 triệu tỷ đồng nợ xấu, chủ yếu là bằng hình thức tổ chức tín dụng tự xử lý. Xử lý nợ xấu bằng hình thức bán nợ (bán cho VAMC và các tổ chức, cá nhân khác) chiếm 26,6%, nhưng chủ yếu vẫn là bán cho VAMC. Việc bán nợ xấu theo giá trị thị trường là không đáng kể do thị trường mua bán nợ xấu gần như không tồn tại.

Một minh họa khác cho nỗ lực bất thành trong việc đẩy mạnh xử lý, mua bán nợ xấu là việc thành lập Sàn Giao dịch nợ VAMC tháng 10/2021. Theo báo cáo, đến nay, lượng nợ xấu giao dịch trên Sàn vẫn khá èo uột. Đến thời điểm hiện tại, Sàn mới thực hiện thành công các hợp đồng tư vấn với khách hàng với tổng giá trị khoản nợ, tài sản bảo đảm đạt gần 450 tỷ đồng (lưu ý, chỉ là hợp đồng tư vấn chứ không phải các giao dịch mua bán thành công). Đây là điều đã được cảnh báo trước bởi một số chuyên gia, khi nhìn thấy viễn cảnh “chợ hoang” của nó trong cơ chế hiện tại.

Như vậy, có thể nói thị trường mua bán nợ xấu không thể ra đời sau một đêm bằng việc thành lập cái “chợ” mua bán nợ xấu như kiểu sàn trên, nếu như khuôn khổ pháp luật vẫn, ít nhất là, hạn chế, cản trở sự tham gia của những nhà đầu tư và các chủ thể chuyên môn (là tổ chức, cá nhân, trong nước và ngoài nước) có kiến thức và vốn cần thiết để giải quyết nợ hiệu quả. Mở rộng tiêu chí đủ điều kiện cho nhà đầu tư và các chủ thể khác có liên quan và loại bỏ các hạn chế không cần thiết sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh và nâng cao hiệu quả thị trường.

Song song đó, thủ tục tái cơ cấu nợ và phá sản ở Việt Nam vẫn chưa hiệu quả. Các quy trình tái cơ cấu nợ và phá sản hiện tại tại Việt Nam vẫn thường rất chậm và rườm rà. Khung pháp lý cần được cải thiện để tinh gọn và nhanh chóng các thủ tục này, giảm gánh nặng hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho các giải pháp đồng thuận. Điều này có thể bao gồm việc giới thiệu cơ chế giải quyết ngoài tòa, tăng cường các đàm phán trước phá sản và đưa ra hướng dẫn rõ ràng về tái cơ cấu và sắp xếp lại nợ.

Cơ chế xử lý tài sản thế chấp cũng là một vấn đề lớn. Hiện tại, quy định, thủ tục, và quy trình thu giữ tài sản vẫn rất tốn thời gian và khó thực hiện, dẫn đến việc chậm trễ hoặc không thể trong việc thu hồi tài sản thế chấp. Cải cách khuôn khổ pháp luật về xử lý nợ xấu cần tập trung vào việc cung cấp cho các chủ nợ các quyền, công cụ và cơ chế hiệu quả hơn để thu giữ và bán tài sản thế chấp, đảm bảo quy trình minh bạch và hiệu quả nhằm khuyến khích việc thu hồi tài sản.

Một bất cập khác trong khuôn khổ pháp lý và quy định hiện hành liên quan đến nợ xấu là nó thiếu các cơ chế để báo cáo chính xác và kịp thời về nợ xấu, cũng như việc chia sẻ thông tin hiệu quả giữa các tổ chức tín dụng, VAMC và nhà đầu tư. Vì tính minh bạch và chia sẻ thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong giải quyết nợ hiệu quả nên Việt Nam cần củng cố hệ thống thông tin tín dụng, thúc đẩy nền tảng chia sẻ thông tin và thiết lập yêu cầu báo cáo rõ ràng có thể cải thiện quyết định và tạo điều kiện cho các giao dịch nợ.

Ngoài ra, còn phải kể đến các hạn chế về năng lực của các tổ chức như cơ quan quản lý, tòa án và các tổ chức liên quan tham gia vào giải quyết nợ xấu. Nâng cao khả năng tổ chức thông qua đào tạo chuyên sâu, cung cấp tài nguyên và chuyên môn là điều cần thiết để xử lý hiệu quả các vụ giải quyết nợ phức tạp. Điều này bao gồm việc hỗ trợ các cơ quan quản lý và tòa án để nâng cao hiểu biết về các vấn đề giải quyết nợ xấu và cải thiện sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan.

Bên cạnh vấn đề liên quan đến khuôn khổ pháp lý và quy định, việc xử lý, mua bán nợ xấu còn bị hạn chế ở Việt Nam bởi chưa có cơ chế chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Đây là chuyện chuyển đổi nợ xấu thành các chứng khoán có thể giao dịch. Quá trình này cho phép ngân hàng chuyển gánh nặng rủi ro liên quan đến nợ xấu cho nhà đầu tư, giải phóng vốn cho việc cho vay mới. Phát triển một khung pháp lý và quy định về chứng khoán hóa nợ xấu sẽ đẩy nhanh quá trình ngân hàng thoát được nợ xấu và thu hút nhà đầu tư.

Kinh nghiệm quốc tế về chứng khoán hóa nợ xấu điển hình có thể tham khảo qua trường hợp của Mỹ (chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản (MBS), gồm cả khoản vay khó đòi thành chứng khoán rồi bán cho các nhà đầu tư), Ý (Chương trình GACS giúp các ngân hàng chuyển nhượng các khoản nợ xấu cho các công cụ phục vụ mục đích đặc biệt (SPV) và phát hành chứng khoán được bảo đảm bằng các khoản vay này), Tây Ban Nha (Công ty Quản lý Tài sản Tây Ban Nha (SAREB) mua lại và quản lý tài sản có vấn đề từ các ngân hàng, chứng khoán hóa các tài sản mua này, bao gồm các khoản nợ xấu, và phát hành các chứng khoán thế chấp), và Ireland (với Cơ quan Quản lý Tài sản Quốc gia (NAMA), hoạt động tương tự như trường hợp Tây Ban Nha).

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).