Thursday 26 March 2020

Chính sách kinh tế với đại dịch Covid: Đừng giẫm lên 'vết xe đổ' 2009! (Bài đăng trên TBKTSG Online, 26/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/td/301528/chinh-sach-kinh-te-voi-dai-dich-covid-dung-giam-len-vet-xe-do-2009.html

Để đối phó với đại dịch Covid-19, Chính phủ đã kịp thời tung ra gói giải pháp tài chính và tín dụng, như được thể hiện trong Chỉ thị 11 của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/3 được giao cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện.

Theo đó, giải pháp hỗ trợ chủ yếu gồm gói tín dụng hỗ trợ 250 nghìn tỷ đồng cho các khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng của dịch bệnh, và nhóm giải pháp trị giá 30 nghìn tỷ đồng thông qua gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.

Đừng để quá muộn

Khi dịch bệnh bùng nổ thành đại dịch, đình hoãn bất ngờ nhiều hoạt động kinh tế thì nhiều doanh nghiệp đột nhiên rơi vào khủng hoảng tiền mặt để duy trì tồn tại, không phải đóng cửa, sa thải nhân viên. Đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, sự tồn tại này là ngắn ngủi bởi họ không có nhiều các nguồn lực dự trữ. Bởi vậy, Chính phủ nếu có muốn giải cứu doanh nghiệp thì phải hành động nhanh và quyết đoán. Nếu không, sự cứu trợ sẽ trở nên quá muộn, thậm chí còn gây thêm hậu quả cho nền kinh tế.

Kinh nghiệm từ giải pháp “kích cầu” năm 2009 cho thấy đã có sự chậm chễ từ chủ trương đến thực hiện. Từ lúc Chính phủ ra chỉ thị là vào tháng 2/2009, khoản vay hỗ trợ lãi suất được giải ngân sớm nhất là vào tháng 4/2009. Trong khoảng thời gian ít nhất 2 tháng này, chắc không ít doanh nghiệp đã kịp “băng hà” và nhiều người lao động đã kịp trở thành người thất nghiệp.

Trong cơn dịch Covid hiện nay, từ thời điểm của Chỉ thị 11 ngày 4/3, đến ngày 13/3 NHNN ban hành Thông tư 01 quy định việc ngân hàng thương mại cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng dịch Covid. Phản ứng này của NHNN có thể gọi là đã khá khẩn trương, và điều quan trọng là nhiều ngân hàng thương mại trước đó đã chủ động tiến hành hỗ trợ cho khách hàng vay vốn dưới những hình thức này hay hình thức khác.

Đáng nói là Bộ Tài chính cho đến ngày hôm nay vẫn chưa thấy ban hành một thông tư tương tự, quy định, hướng dẫn giãn nộp thuế cho doanh nghiệp. Thử hình dung có nhiều doanh nghiệp đang “giật gấu vá vai” xoay xở tiền mặt để cầm cự nhưng lại phải dùng số tiền này để nộp thuế, phí đúng hạn nếu không muốn bị xếp vào diện chậm nộp thuế để rồi bị phạt. Cũng có thể những con số liên quan không đáng kể, nhưng một hành động có ý nghĩa như vậy trong chủ trương của Chính phủ chỉ vì sự chậm chễ này trở thành không còn ý nghĩa nữa.

Đừng để “bò đi lạc nhà”

Hỗ trợ đúng đối tượng là yêu cầu hiển nhiên cần thiết, và tưởng dễ đáp ứng vì mọi tiêu chí thụ hưởng đã được quy định rõ trong văn bản!

Nhưng thực tế từ gói kích cầu trước đây cho thấy nó đã bị lạm dụng tràn lan, thất thoát ở nhiều khâu, nhiều nấc. NHNN công bố có đến 3.923 món vay vi phạm, tương đương 8.334 tỷ đồng (tức khoảng hơn 500 triệu USD thời đó), trong đó vi phạm nhiều nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần, và kế đó là các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước. (1)

Gói hỗ trợ tín dụng 250 nghìn tỷ đồng lần này theo Thông tư 01 thì thực tế chỉ là dùng nguồn lực của bản thân các ngân hàng thương mại để hỗ trợ khách hàng hiện hữu cho các khoản nợ hiện hữu (chứ không có các khoản cho vay mới). Nên gói hỗ trợ tín dụng này sẽ ít nhiều tránh được rủi ro bị ngân hàng thương mại lạm dụng như với gói kích cầu trước đây.

Nhưng rủi ro này sẽ lặp lại và nhân lên nếu dịch tiếp tục lan rộng, trầm trọng, ngân hàng thương mại “hỗ trợ” doanh nghiệp không xuể nên yêu cầu NHNN cùng chia sẻ gánh nặng, bằng cách, ví dụ, đòi được vay vốn từ NHNN với lãi suất thấp để có nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp. Nếu chuyện này xảy ra và (chắc chắn) NHNN phải đáp ứng thì đây chính là điểm khởi đầu cho quá trình lạm dụng cơ chế, chính sách để trục lợi của các cá nhân và tập thể liên đới với đủ cách thức, thủ đoạn.

Có người thì hiến kế là Chính phủ trực tiếp hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng dịch bệnh thì sẽ tránh được thất thoát, như kiểu ở Mỹ đang và sắp thực hiện. Nhưng cứ liên hệ với chuyện tham nhũng, trục lợi trong giải phóng mặt bằng hay trong thống kê và hỗ trợ thiệt hại do dịch bệnh gia súc ở Việt Nam là đủ để biết rằng chừng nào tiền trợ cấp không phải từ túi cá nhân thì chừng đó còn thất thoát (ở Việt Nam).

Đừng quá tham vọng

Dẫu dịch bệnh nổ ra và lan rộng, cả thế giới chao đảo và được dự đoán sẽ rơi vào suy thoái (tức là có ít nhất hai quý tăng trưởng âm), nhưng Việt Nam vẫn đặt mục tiêu đạt được tăng trưởng kinh tế như kế hoạch đặt ra trước đây (6,7-6,8%).

Lại nhìn lại cuộc kích cầu năm 2009. Với tham vọng quyết đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong lòng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, các loại chính sách liên quan đến... tiền đều được nới lỏng hết cỡ làm tiền tràn ngập các thị trường, các ngóc ngách nền kinh tế (tổng quy mô gói kích cầu đạt 9 tỷ USD, tương đương khoảng 10% GDP của Việt Nam thời điểm đó). Kết cục là tăng trưởng tuy cũng đạt mức 5,3% năm 2009 nhưng lạm phát thì tăng vọt 2 chữ số thời gian sau đó.

Bởi vậy, trong hoàn cảnh “tứ bề thọ địch” như hiện nay thì ưu tiên chính sách phải là “sống được cái đã” rồi mới tính đến chuyện tăng trưởng, phát triển. Nên cần thiết phải gác lại mục tiêu tăng trưởng qua một bên, ít nhất là cho đến khi dịch bệnh thoái trào (ngay đến chuyện khi nào dịch bệnh thoái trào cũng không dự đoán, quyết tâm được thì cũng không nên nói nhiều về chuyện tăng trưởng nữa để rồi tiền vẫn mất, tật thì vẫn mang).

Đừng mong cứu hết

Trên TBKTSG mới có bài viết đại ý phê phán rằng trong buổi gặp giữa Thủ tướng và các tập đoàn kinh tế tư nhân đễ tháo gỡ khó khăn, ít thấy một tập đoàn nào báo cáo các giải pháp tự cứu mình, mà chỉ toàn thấy kêu Chính phủ giúp đỡ. 

Ngoài lẽ đương nhiên doanh nghiệp khi gặp Chính phủ thì sẽ chẳng tội gì tự tước đi cơ hội được hưởng lợi từ Chính phủ bằng cách “trung thực” báo cáo cách tự cứu mình, điều đọng lại ở đây là bản chất của doanh nghiệp cũng sẽ tham lam như bản ngã con người. Không khó cũng kêu khó, kêu sắp chết để được cứu giúp.

Kể cả có thật sự rằng các doanh nghiệp khó khăn đến nỗi sắp chết đi nữa và Chính phủ có thực tâm muốn cứu giúp hết những ai khó khăn đi nữa thì về nguyên tắc, Chính phủ cũng không thể cứu hết được mọi người, đơn giản bởi nguồn lực Chính phủ có hạn.

Vậy thì, trong bối cảnh hầu hết mọi doanh nghiệp đều kêu khó, Chính phủ buộc phải xem xét, khám bệnh cụ thể doanh nghiệp nào khó khăn, sắp chết nhưng vẫn còn khả năng sống sót, doanh nghiệp nào khó khăn, được cứu chữa nhưng không có khả năng tồn tại (lành mạnh) sau này. Kể cả trong số doanh nghiệp có khả năng cứu chữa và tồn tại, vẫn phải chọn ra những doanh nghiệp khỏe nhất để cứu. Tức là Chính phủ phải chọn để ai sống, ai phải chết, tương ứng với nguồn lực của Chính phủ.

Nói cách khác, Chính phủ cần phải xác định ngay từ đầu (và bằng cách nào) những doanh nghiệp nào cần được cứu trợ, doanh nghiệp nào cần phải “buông bỏ” dù việc buông bỏ này sẽ để lại hậu quả cho xã hội như người thất nghiệp tăng lên...

(1) https://voh.com.vn/thi-truong/3-923-mon-vay-vi-pham-quy-dinh-ho-tro-lai-suat-102877.html

Tuesday 24 March 2020

Đa dạng nguồn cung, bài học từ sự đứt đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu (Bài đăng trên TBKTSG, 25/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/301221/da-dang-nguon-cung-bai-hoc-tu-su-dut-doan-cua-chuoi-cung-ung-toan-cau-.html

Đại dịch toàn cầu Covid-19 đã giáng một đòn chí mạng vào nền kinh tế toàn cầu, làm gián đoạn nhiều hoạt động và mối liên kết kinh tế, trong đó có các chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự gián đoạn này làm cho nhà sản xuất thì không có các nguyên vật liệu đầu vào thiết yếu cho sản xuất, chế tạo, còn nhà bán lẻ thì phải chứng kiến những dãy kệ trống không trong các cửa hàng của mình. Để tránh tình trạng này, nhà sản xuất, bán lẻ cần rút ra được các bài học từ các thảm họa trong quá khứ để đa dạng hóa các chuỗi cung cấp, tăng sức đề kháng của mình trong đại dịch hiện nay và trong tương lai.

Tác động của dịch Covid-19 lên chuỗi cung ứng

Cho đến nay, tác động của đại dịch lên chuỗi cung ứng chủ yếu xuất phát từ Trung Quốc, được thể hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất, đại dịch làm gián đoạn việc cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho các nhà sản xuất, chế tạo và bán lẻ toàn cầu. Điều này càng trở nên nghiêm trọng hơn vì Trung Quốc là một nguồn cung khổng lồ linh kiện, hàng hóa bán thành phẩm và thành phẩm cho thế giới. Các nhà máy đóng cửa càng kéo dài ở Trung Quốc thì nguồn cung linh kiện và bán thành phẩm cho các nhà sản xuất và bán lẻ trên phạm vi toàn cầu càng cạn kiệt nhanh chóng. Vì thế chừng nào đại dịch còn diễn tiến thì sẽ càng có nhiều nhà sản xuất và bán lẻ phải đóng cửa, ngừng hoạt động vì không thể kiếm đâu ra (ngay và đủ) hàng hóa, nguyên vật liệu thay thế.

Thứ hai, Trung Quốc cũng là một thị trường khổng lồ cho hàng hóa và dịch vụ. Khó có thể tìm ra một ngóc ngách nào trên thế giới mà nền kinh tế bản địa phụ thuộc vào Trung Quốc với tư cách là khách hàng của mình lại không cảm thấy ảnh hưởng từ đại dịch, khi mà số lượng du khách Trung Quốc rơi thẳng đứng, còn các nhà sản xuất Trung Quốc thì cắt giảm hoặc ngừng sản xuất. 

Trong quá khứ cũng đã có những thời đoạn gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Ví dụ, năm 1999, động đất xảy ra ở Đài Loan – một nhà cung ứng chủ chốt về chip nhớ của thế giới. Động đất đã cắt đứt đột ngột nguồn cung chip nhớ cho các nhà sản xuất máy tính trên thế giới, đẩy giá bộ nhớ RAM tăng vọt. Gần đây hơn, động đất và sóng thần năm 2001 ở Nhật đã ảnh hưởng nặng nề đến nhiều hãng ô tô thế giới vốn phụ thuộc vào linh liện cung cấp từ các nhà máy bị ảnh hưởng bởi động đất ở Nhật.

Bài học

Cho đến những năm đầu 2000, các chuỗi cung ứng đã dàn trải trên khắp thế giới theo bước chân của các nhà sản xuất, thu mua đến những vùng đất nào có lao động giá rẻ hơn. Khi thảm họa nổ ra, các nhà sản xuất đã rút ra bài học rằng sự gián đoạn sản xuất ở một ngóc ngách nào đó của thế giới có thể làm “đói” toàn bộ phần còn lại của chuỗi cung ứng vì không còn các nguyên vật liệu và bán thành phẩm đầu vào thiết yếu. Một thuật ngữ trở nên thông dụng trong việc quản lý chuỗi cung ứng là tính đề kháng.

Chuỗi cung ứng có tính đề kháng cao phải là chuỗi có khả năng làm bộc lộ các dấu hiệu cảnh báo sớm của một sự gián đoạn và phải phản ứng bằng cách chuyển sản xuất, thu mua sang dùng các nguồn lực thay thế. Vì thế, nó phải có hoặc là một cơ sở cung ứng được đa dạng hóa, hoặc là một kế hoạch đột xuất tận dụng các nhà cung ứng dự phòng.

Tất nhiên, để một doanh nghiệp có khả năng phát hiện thấy những dấu hiệu gián đoạn trong tầm hiện hữu, nó phải nắm vững và hiểu biết như trong lòng bàn tay về chuỗi cung ứng. Không chỉ cần biết ai là nhà cung cấp của mình, mà còn phải biết ai là nhà cung cấp của nhà cung cấp của mình, và cứ tiếp tục như thế. Không có sơ đồ rẽ nhánh chi tiết chuỗi cung ứng như vậy thì sẽ khó mà biết được các liên kết dễ bị tổn thương.

Điều không may là dịch cúm Covid nay đã thành đại dịch toàn cầu, do đó ngay cả những kế hoạch phòng bị tốt nhất cũng là không đủ. Trước đó, chắc chắn không một ai có thể tưởng tượng được và lập kế hoach đối phó với tình huống cả một thành phố, trung tâm công nghiệp lớn, quy mô đến 10 triệu dân như Vũ Hán lại bị phong tỏa, trở thành thành phố ma, và rồi sự phong tỏa này lan ra nhiều tỉnh thành Trung Quốc.  

Cần biết rằng bảy trong số chín cảng container hàng đầu thế giới là nằm ở Trung Quốc. Hai cảng còn lại nằm ở Singapore và Hàn Quốc. Cả ba nước này đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch. Gộp lại thì có đến 1/3 kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nếu chỉ nhìn vào sự tụt giảm của con số container thông quan qua những cảng này.

Tuy nhiên, kể cả trong đại dịch, vẫn có nhiều nhà bán lẻ là người thắng cuộc, hay nói đúng hơn là đã biến đại dịch thành cơ hội kinh doanh lớn. Chẳng hạn, các nhà bán lẻ lớn của Mỹ như Costco, Walmart, và Target đã trụ vững, không bị “thất thủ” khi người dân đổ xô mua vơ vét tích trữ nhu yếu phẩm để đề phòng bị phong tỏa. Điều giúp chúng thành công hơn đối thủ là chúng có chiến lược mua sắm tập trung, kiểm soát tốt hơn hàng tồn kho, và cơ sở cung ứng đa dạng hóa. Chính điều này sẽ lại giúp chúng chiếm thêm thị phần trong tương lai khi người tiêu dùng đánh giá cao khả năng cung ứng đầy đủ hàng hóa của chúng.

Thực ra đại dịch chỉ đẩy nhanh thêm một xu hướng đã diễn ra trước đó. Thương chiến Mỹ-Trung dai dẳng với kết cục khó lường đã làm cho nhiều nhà sản xuất toàn cầu phải nghĩ lại về chiến lược phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp ở Trung Quốc. Nếu họ chưa hành động lúc đó thì đại dịch sẽ là cú hích cuối cùng buộc họ phải hành động ngay để đa dạng hóa nguồn cung.

Trên hết, các thảm họa đã qua và hiện nay cho thấy chiến lược đa dạng hóa nguồn cung sẽ phải được ưu tiên hơn chiến lược di chuyển cơ sở sản xuất/chuỗi cung ứng đến những nơi có giá thành rẻ hơn – xu hướng phân bố sản xuất, cung ứng diễn ra trong vài thập kỷ qua. Bởi nếu chỉ căn cứ vào chi phí nhân công rẻ thì nhà sản xuất, bán lẻ dễ có xu hướng rút toàn bộ sản xuất, nguồn cung ở Trung Quốc sang Việt Nam hoặc Bangladesh là những nơi có nhân công rẻ, giá thành rẻ..., tức là thay vì phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp Trung Quốc thì nay lại phụ thuộc quá nhiều vào nhà cung cấp ở Việt Nam hoặc Bangladesh.

Cần chú ý thêm rằng đa dạng hóa nguồn cung, ví dụ có thêm nguồn cung từ Việt Nam thay vì chỉ có từ Trung Quốc như trước đây đôi khi vẫn chưa đủ... an toàn! Lý do là vì đến lượt mình, các nguồn cung từ Việt Nam lại có thể phụ thuộc vào nguồn cung nguyên vật liệu từ Trung Quốc. Do đó, khi Trung Quốc “hắt hơi” thì Việt Nam cũng “sổ mũi” để rồi toàn bộ các nguồn cung hiện hữu đều bị gián đoạn.

Vì vậy, chiến lược đa dạng hóa nguồn cung tối ưu phải là có nhiều nguồn cung không có nhiều quan hệ với nhau (thường  là ở những khu vực kinh tế cách biệt nhau).

Monday 23 March 2020

Có nên lo ngại thái quá và phải can thiệp ổn định tỷ giá USD? (Bài đăng trên CafeF, 24/3/2020)

https://cafef.vn/co-nen-lo-ngai-thai-qua-va-phai-can-thiep-on-dinh-ty-gia-usd-20200324071550109.chn

Tối ngày 23/3, có chút thời gian, tôi tò mò kiểm tra tỷ giá USD/SGD trên mạng xe.com và thực sự là sững sờ khi thấy tỷ giá đã tăng dựng đứng kể từ mức đáy của tháng 3 vào ngày 9/3 (ở mức 1,37) chạm mức 1,46 đô la Singapore (SGD) đổi lấy 1 USD. Mức này là mức cao kỷ lục trong 10 năm qua (tiếc là đồ thị chỉ hiển thị tối đa 10 năm nên không biết là kỷ lục này thiết lập trong vòng bao nhiêu năm cho đến nay, 15 năm hay 20 năm...?). Vào ngày đầu tiên của năm 2020, tỷ giá mới chỉ ở mức 1,34.

Như vậy, chỉ trong khoảng nửa tháng, đồng SGD đã mất giá tới 6-7% so với USD. Và nếu so với đầu năm nay thì đồng tiền này còn mất giá mạnh hơn, tới 9%. Còn nhớ mới cách đây gần tháng, một người quen từ Việt Nam sang đã cảm thấy may mắn khi đổi được 1 USD lấy 1,39 SGD. Nay nhìn lại mức của ngày hôm nay chắc sẽ cảm thấy “buốt ruột” khi tỷ giá tăng vọt như vậy.

Với những người sinh sống ở Singapore như tôi, thực sự tỷ giá tăng này tuy có hơi sốc và bất ngờ nhưng không phải là điều bận tâm lắm. Bởi điều quan trọng nhất là giá cả sinh hoạt ở đây vẫn tương đối ổn định. Lưu ý rằng Singapore là nước phụ thuộc nhập khẩu hầu như tất cả mọi thứ nhưng tỷ giá tăng vẫn chưa thể hiện dấu hiệu đáng kể gì lên giá cả nước này, theo cái mà nhiều người vẫn gọi, vẫn e ngại là “nhập khẩu lạm phát”. Và cũng lưu ý thêm là Singapore chẳng hề có cái gọi là “điểm bán bình ổn giá” như ở Việt Nam. Bởi vậy, dư luận ở Singapore dường như khá yên ắng trước việc SGD mất giá.

Tất nhiên là giá cả chưa tăng ở Singapore thì do nhiều lý do, ví dụ như giá cả hàng hóa, vật tư thế giới, chẳng hạn như xăng dầu, đã và vẫn đang giảm mạnh it nhiều là do hậu quả của đại dịch Covid-19. Nhưng mục đích của bài viết này không phải là bàn đến những lý do này, mà chỉ muốn liên hệ đến chuyện tỷ giá ở Việt Nam.

Cũng giống như nhiều đồng tiền khác trên thế giới, tiền đồng cũng chịu áp lực mất giá so với USD. Nhưng khác với những đồng tiền như SGD, tiền đồng chỉ mất giá khoảng 2% so với đầu năm. Vậy mà dư luận xem ra đã rất nóng và ngày càng nóng hơn với “hiện tượng” này. Đến mức mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) như thường lệ lại phải lên tiếng trấn an, đại loại rằng cung cầu ngoại tệ vẫn ổn, NHNN đã mua được lượng lớn ngoại tệ trước đây và sẵn sàng can thiệp thị trường khi cần để bình ổn thị trường.

Nếu xem xét tỉnh táo và lạnh lùng hơn một chút thì chuyện tiền đồng mất giá sẽ chẳng đáng thành chuyện như vậy. Lạm phát của Việt Nam không rõ trong tháng này và tháng sau sẽ ra sao, nhưng chắc chắn một điều là nhóm xăng dầu, vốn có sức nặng đáng kể trong rổ hàng hóa, cũng như nhiều hàng hóa nhập khẩu khác đang xuống giá trên thế giới sẽ giúp kéo giảm lạm phát ở Việt Nam.

Nhưng dù lạm phát Việt Nam có chịu áp lực tăng bởi, ví dụ, giá thịt lợn vẫn tăng thì đây chủ yếu là bởi lý do trong nước (thịt lợn trong nước khan hiếm), chứ tỷ giá tăng cũng chẳng gây ảnh hưởng gì trên phương diện này. Có nghĩa là dù tỷ giá vẫn ổn định (không tăng) thì giá thịt lợn, và do đó, lạm phát vẫn cứ có khả năng tăng như thường.

Ngược lại, nếu cho nhập khẩu thịt lợn quy mô lớn thì đà tăng lạm phát bởi giá thịt lợn trong nước sẽ bị chặn đứng ngay lập tức, bởi thịt lợn cung cấp từ nhiều thị trường nước ngoài có giá rẻ hơn Việt Nam, đặc biệt là khi đồng bản tệ của các nước này cũng mất giá mạnh so với USD (và do đó so với tiền đồng).

Lẽ dĩ nhiên là khi khủng hoảng hay khó khăn kinh tế nổ ra, người ta thường có xu hướng lo sợ, co cụm, đề phòng, tìm mọi cách để bảo vệ tài sản của mình, nhất là ở một thị trường mới nổi như Việt Nam vốn đã trải qua quá nhiều thăng trầm. Tài sản an toàn trong những tình huống này là thường là USD nên sẽ có một bộ phận dân chúng và tổ chức mua gom USD, trước là để phòng vệ, sau là đầu cơ kiếm lời.

Trước mục đích mua gom USD như vậy, rõ ràng NHNN chẳng cần, chẳng có lý do gì để xuất quỹ dự trữ ngoại hối vốn không dư thừa gì để bán USD với mục đích bình ổn thị trường! Thậm chí, tình trạng thường xảy ra hơn sẽ là càng bán can thiệp thì người ta lại càng đổ xô vào để mua vét cho đến lúc không thể bình ổn được nữa.

Trên hết, cần hiểu rằng tỷ giá đóng vai trò như một đệm giảm sốc cho nền kinh tế. Việc các nước thi nhau hạ lãi suất bản tệ trên danh nghĩa là cứu trợ thanh khoản, cứu trợ doanh nghiệp nhưng sâu xa trong đó cũng là mục đích làm yếu đồng tiền của mình để tăng cường sức cạnh tranh. Trong những lúc khủng hoảng như hiện nay, chẳng thấy có mấy nước “quan ngại” về chuyện bản tệ của mình bị mất giá so với USD, và tìm cách can thiệp, ổn định như ở ta.

Ngay cả Fed chắc chắn trong thời gian tới sẽ phải tìm cách kiềm chế đà tăng hoặc làm giảm giá USD vì rõ ràng sự lên giá không mong muốn này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến xuất khẩu của Mỹ (dù không còn nhiều dư địa để làm yếu USD bởi lãi suất đã hạ về sát 0% rồi).

Đang viết đến đây thì lại đọc được tin Fed mới tung ra gói nới lỏng định lượng không giới hạn để quyết cứu nguy nền kinh tế Mỹ đang rơi vào suy thoái. Tình hình lại càng trở nên bất định. Việc giá vàng ngay lập tức tăng lên sau khi động thái này được tuyên bố cho thấy thị trường có xu hướng ly khai USD hơn so với thời điểm trước đó. Điều này có nghĩa là áp lực lên tỷ giá sẽ suy yếu đi ở toàn cầu cũng như Việt Nam.

Nhưng vẫn còn nhiều khả năng rằng một bộ phận khác của thị trường lại nhìn nhận quyết tâm của Fed qua việc nới lỏng định lượng này là một chỉ dấu chắc chắn hơn cho sự thoát hiểm và phục hồi của kinh tế Mỹ trong những quý sau. Theo đó sẽ là khả năng USD tiếp tục trụ vững trên những đỉnh cao mới đã (và sẽ) xác lập, đồng nghĩa là áp lực lên tỷ giá đây đó sẽ không suy giảm.

Dù khả năng nào xảy ra đi nữa thì chỉ có một điều tỏ ra rõ ràng rằng cuộc chơi tỷ giá thực sự không nằm trong tay chúng ta (và cũng không thực sự nằm trong tay Mỹ hay bất cứ nước nào khác), và phụ thuộc nhiều yếu tố bất định, khách quan, kể cả diễn biến dịch bệnh. Việc chúng ta cố gắng ổn định tỷ giá (giữ không cho lên) với nguồn lực mong manh là điều không hợp lý, ít nhất là so với việc để nó tự động điều chỉnh theo những cân đối trên thị trường.

Tóm lại, tỷ giá USD tăng một vài phần trăm trong tháng này và tháng tới (nếu có) nên được coi, được chấp nhận là việc bình thường, thậm chí là điều cần thiết trong những hoàn cảnh bất thường đang diễn ra. NHNN vì thế cũng không cần thiết phải bán USD can thiệp, bình ổn thị trường. Thay vào đó, NHNN nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung cần khẩn trương triển khai hỗ trợ tín dụng với lãi suất thấp cho doanh nghiệp sau động thái cắt giảm lãi suất mới đây. Thực hiện hiệu quả được việc này sẽ giúp vực dậy khu vực doanh nghiệp và toàn nền kinh tế, từ đó sẽ dần ổn định được tỷ giá.

Công cụ chính sách tiền tệ vẫn cần thiết trong đại dịch (Bài đăng trên TBKTSG, 23/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/301211/cong-cu-chinh-sach-tien-te-van-can-thiet-trong-dai-dich.html

Dịch Covid-19 đã trở thành đại dịch, gây tác động lớn tới nền kinh tế toàn cầu. Trước đại dịch này, chính phủ nhiều nước đã thi hành hàng loạt công cụ chính sách tiền tệ, mặc dù đã có nhiều phân tích chỉ ra rằng chính sách tiền tệ (nới lỏng) không có tác dụng với nền kinh tế giữa cơn dịch bệnh hiện nay.

Các hạn chế của chính sách tiền tệ

Hạn chế đầu tiên của chính sách tiền tệ - cắt giảm lãi suất - là lãi suất ở nhiều nước, khu vực đã ở mức thấp và rất thấp, nên dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ không còn nhiều, trừ khi các nước này chấp nhận biện pháp cực đoan là thi hành lãi suất âm như ở một số nước đã thực hiện trước khi xảy ra đại dịch.

Hạn chế thứ hai của công cụ chính sách tiền tệ là “chữa không đúng bệnh”. Điều làm nhiều chính phủ và giới chuyên gia trên thế giới quan ngại là nới lỏng chính sách tiền tệ không cứu vãn được sự gián đoạn, sụp đổ các chuỗi cung ứng trên thế giới.

Do bệnh dịch lan rộng với tốc độ chóng mặt, sản xuất đột ngột bị đình đốn, nên chính sách tiền tệ dù có nới lỏng cũng không làm sản xuất phục hồi ngay được. Việc Mỹ hạ lãi suất mạnh mới đây cũng không làm nhà máy đang đóng cửa vì cách ly mở cửa trở lại. Tương tự, hạ lãi suất cũng không lôi kéo được người mua sắm trở lại các trung tâm mua sắm hay du khách quay trở lại với các hãng hàng không bởi họ quan tâm, lo ngại về lây nhiễm bệnh nhiều hơn là chi phí.

Hạn chế thứ ba của nới lỏng chính sách tiền tệ là hiệu ứng tích cực của nó sẽ thất thoát ra nước ngoài. Chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm tăng nhập khẩu, tức làm lợi cho nước ngoài. Một phần vì điều này nên nhiều nước vẫn ngần ngại nới lỏng chính sách tiền tệ.

“Không bổ chỗ nọ thì cũng bổ chỗ kia”

Tuy nhiên, không phải là ngẫu nhiên mà nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới vẫn và sẽ tiến hành nới lỏng tiền tệ, cắt giảm lãi suất. Trong bất cứ tình huống nào mà nền kinh tế đối mặt với nguy cơ khủng hoảng, đình trệ, và tiền mặt là vua, điều đáng lo trước hết là sự khô khát thanh khoản do các chủ thể kinh tế đều co cụm cố thủ, rút tiền mặt từ hệ thống ngân hàng về và/hoặc chuyển đổi tài sản ra tiền mặt để nắm giữ.

Trong những tình huống như vậy, chính sách tiền tệ nới lỏng là điều cần thiết để cung cấp thanh khoản, duy trì sự vận hành liên tục thông suốt của hệ thống tài chính, ngân hàng, tránh bị rơi vào tình trạng ngân hàng thiếu hụt thanh khoản, mất khả năng thanh toán, phải “giật gấu vá vai”, đẩy lãi suất trong hệ thống lên mức cao gây đổ vỡ hàng loạt.

Lãi suất hạ thấp còn có tác dụng quan trọng đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp này thường duy trì tiền mặt ở mức tối thiểu, ít hoặc không có các nguồn dự trữ cho các tình huống khó khăn, cấp bách. Khi cú sốc kinh tế nổ ra, dòng tiền âm và không có nguồn lực dự trữ làm cho sự tồn tại của doanh nghiệp nhỏ sẽ chỉ còn được tính theo ngày, tuần. Khi đó, chính sách tiền tệ nới lỏng, và nhất là đi kèm với các gói tín dụng ưu đãi hướng đến đối tượng doanh nghiệp nhỏ của ngân hàng trung ương sẽ là cái phao cứu sinh cho các doanh nghiệp này nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.

Một khi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương được nới lỏng thì hệ thống ngân hàng thương mại cũng được kỳ vọng sẽ tự động điều chỉnh tương ứng, nhất là khí có sự “nhắc nhở” của ngân hàng trung ương. Điển hình là ngay sau khi Ngân hàng Trung ương Anh tuyên bố cắt giảm lãi suất từ 0,75% xuống còn 0,25% hồi tuần trước, hàng loạt ngân hàng thương mại của nước này và mới đây nhất là HSBC tuyên bố cho phép hộ gia đình và doanh nghiệp Anh được chậm trả lãi cho các khoản vay bất động sản hay kinh doanh nếu có yêu cầu. (1)

Song song việc cắt giảm lãi suất, ngân hàng trung ương còn có thể hỗ trợ nền kinh tế thông qua các công cụ và quyền hạn trong tay khác. Bằng việc hạ tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc một cách chọn lọc, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích ngân hàng thương mại cho vay các đối tượng cần hỗ trợ (và với lãi suất ưu đãi). Hoặc ngân hàng trung ương hạ lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc vượt mức để khuyến khích ngân hàng thương mại sử dụng khoản tiền dư thừa này cho vay doanh nghiệp hơn là đem gửi tại ngân hàng trung ương. Đồng thời, ngân hàng trung ương có thể cho vay tái cấp vốn ngân hàng thương mại với lãi suất ưu đãi để/với điều kiện là chúng tiếp tục cho vay khu vực doanh nghiệp ưu tiên, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.

Một giải pháp phi lãi suất khác mà ngân hàng trung ương có thể sử dụng khi cần là cắt giảm tỷ lệ vốn dự phòng rủi ro dành cho các cú sốc kinh tế để giải phóng một nguồn vốn cần thiết cho ngân hàng thương mại cho vay ra nền kinh tế. Tỷ lệ này ở Anh là 1% trước đây đã được giảm xuống 0% trong tuần trước.

Cuối cùng, ngân hàng  trung ương và bộ tài chính còn có thể dùng quyền của mình để yêu cầu các tổ chức tài chính, ngân hàng không được tăng mức chia cổ tức và các đãi ngộ, chi trả khác cho cổ đông và nhân viên ngân hàng như tăng chi thưởng... nhằm hỗ trợ tối đa khách hàng vay vốn – đối tượng cần hỗ trợ, chứ không phải là cổ đông ngân hàng.

Áp dụng ở Việt Nam  

Trái ngược với thế giới, ở góc độ hạ lãi suất, Việt Nam còn nhiều dư địa, bởi lãi suất cơ bản/điều hành vẫn còn cao đáng kể so với thế giới. Đợt điều chỉnh hạ lãi suất chiều muộn ngày 16/3/2020 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới chỉ thu hẹp một phần chênh lệch lãi suất này giữa Việt Nam và thế giới (ví dụ, lãi suất tái cấp vốn được hạ từ 6%/năm xuống 5%/năm).

Và điều cũng có vẻ như trái ngược với thế giới là thanh khoản trong hệ thống của Việt Nam vẫn tỏ ra dồi dào, mà bằng chứng là lãi suất liên ngân hàng không tăng, thậm chí có xu hướng hạ, và NHNN phải tăng cường phát hành tín phiếu để thu hồi tiền. Trong bối cảnh này thì không khó hiểu khi có nhiều người cho rằng Việt Nam không cần hạ lãi suất.

Dẫu vậy, tuy thanh khoản đang dư thừa, điều cốt yếu là khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ, vẫn và sẽ còn khó khăn hơn nhiều khi đại dịch đang diễn ra và kéo dài. Bởi vậy, vai trò và trách nhiệm của NHNN ở đây là phải đảm bảo khả năng tiếp cận vốn, đặc biệt của doanh nghiệp nhỏ bằng cách kiềm chế, làm giảm bớt mức rủi ro tín dụng của hệ thống để các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn tiếp tục cho vay doanh nghiệp (và với lãi suất ưu đãi, thấp hơn) để các doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch bệnh thêm cơ hội cầm cự, tiếp tục tồn tại và phục hồi.

Cuối tuần trước, NHNN cũng ban hành Thông tư 01/2020 để quy định việc TCTD hỗ trợ khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bệnh dịch, gồm giảm lãi, phí. Nhưng những biện pháp hỗ trợ này thực chất là sử dụng nguồn lực của TCTD mà không phải là từ NHNN, và do đó cũng không thể nói là một hành động nới lỏng của NHNN khi so với hành động của các gân hàng trung ương khác trên thế giới đã thực hiện. Mức chịu đựng, san sẻ của các TCTD cũng chỉ có hạn và đến một lúc nào đó thì NHNN phải thực sự “mở hầu bao” để cứu trợ lại chính các TCTD cho vay doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch. Bởi vậy, việc hạ lãi suất vào ngày 16/3 mới đây là một phản ứng chính sách phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay.

Cần lưu ý thêm, điều có lẽ làm nhiều người trước đây còn băn khoăn với việc nới lỏng tiền tệ là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại, và khả năng phục hồi của doanh nghiệp trên cơ sở (hy vọng) là bệnh dịch rồi cũng sẽ nhanh qua đi.

Tuy nhiên, khi nền kinh tế đối mặt với các cú sốc, vẫn có khả năng cao là giá cả giảm đi, như đã từng xảy ra ngay ở Việt Nam, mới trong tháng 2 vừa rồi. Do đó, nếu tháng 3 này và những tháng tới, lạm phát có xu hướng giảm hoặc đứng ở mức thấp, trong khi triển vọng dập dịch ở Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung chưa rõ ràng (kéo theo khó khăn ngày càng chồng chất của khu vực doanh nghiệp), NHNN sẽ càng có thêm dư địa và động lực để tiến hành hạ (thêm) lãi suất.

Song song với việc giảm (thêm) lãi suất và/hoặc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc, NHNN vẫn còn các công cụ chính sách phi lãi suất như đã được áp dụng bởi ngân hàng trung ương như nói ở trên. Do đó, ở giai đoạn hiện nay, nếu quan ngại hạ lãi suất mạnh và cấp tập sẽ gây hiệu ứng tâm lý không tốt, NHNN có thể cân nhắc đồng thời áp dụng ngay các công cụ phi lãi suất này để tích cực hỗ trợ nền kinh tế một cách thực chất và đỡ rủi ro hơn.

(1) https://www.theguardian.com/business/2020/mar/11/coronavirus-bank-of-england-makes-emergency-interest-rate-cut

Saturday 21 March 2020

Việt Nam có thể cân nhắc vận động hoán đổi tiền tệ với Mỹ (Bài đăng trên CafeF, 22/3/2020)

https://cafef.vn/chuyen-gia-hien-ke-viet-nam-co-the-can-nhac-van-dong-hoan-doi-tien-te-voi-my-20200321203327859.chn

Giữa đại dịch Covid-19 và cơn sốt nắm giữ USD ở Việt Nam và trên khắp thế giới, đẩy tỷ giá USD liên tục lên những mức cao mới, Fed đã có một hành động rất đáng chú ý. Đó là việc Fed mới thỏa thuận hoán đổi tiền tệ thêm với ít nhất là 9 ngân hàng trung ương khác trên thế giới ít nhất trong 6 tháng, ngoài thỏa thuận sẵn có kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 với 5 ngân hàng trung ương của 5 nước/khu vực gồm Canada, Anh, châu Âu, Nhật và Thụy Sĩ.

9 ngân hàng trung ương mới đạt được thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với Mỹ là của các nước Úc, Brazil, Đan Mạch, Hàn Quốc, Mexico, New Zealand, Na Uy, Singapore và Thụy Điển. Theo đó, Fed sẽ cung cấp USD cho ngân hàng trung ương khác trong hạn mức thỏa thuận để đổi lấy bản tệ của nước đó theo tỷ giá hiện hành, và sẽ đổi ngược lại trong một thời điểm ấn định trong tương lai tại cùng mức tỷ giá.

Ý nghĩa của hoán đổi tiền tệ

Có lẽ việc hoán đổi tiền tệ này vẫn còn là điều mới mẻ với nhiều người. Đối với Mỹ, việc Fed hoán đổi USD để lấy đồng bản tệ của các nước khác là điều khó hiểu, vì người Mỹ đâu có cần ngoại tệ của các nước khác, nhất là trong lúc thế giới bị gián đoạn, chìm trong nguy cơ khủng hoảng?

Ngược lại, trong số 14 nước mà Mỹ thực hiện hoán đổi tiền tệ nêu trên có nhiều nước có quỹ dự trữ ngoại hối lớn, được cho là đủ sức sẵn sàng can thiệp thị trường ngoại tệ nếu cần. Vậy tại sao các nước này vẫn cần phải hoán đổi tiền tệ với Mỹ để lấy USD?

Thực ra, việc hoán đổi tiền tệ này là có lợi cho cả 2 bên. Với Mỹ, việc hoán đổi tiền tệ (cung cấp USD cho đối tác) là nhằm để, trên hết, bảo vệ quyền lợi của, giảm rủi ro cho nước Mỹ, nếu căn cứ vào cách lý giải của Fed (1).

Việc Mỹ cung cấp USD cho nước khác sẽ giúp làm giảm áp lực lên các thị trường tài chính và nền kinh tế nước ngoài, từ đó làm giảm khó khăn cho những ngân hàng toàn cầu có hoạt động ở các nước bản địa lẫn ở Mỹ. Nhờ vậy, hoạt động cấp vốn của những ngân hàng này cho các doanh nghiệp và hộ gia đình ở Mỹ sẽ ít bị rủi ro gián đoạn hơn, và tức là việc hoán đổi tiền tệ cũng giúp ổn định cho chính nước Mỹ.

Việc Mỹ cung cấp thanh khoản USD cần thiết cho các nước đối tác còn giúp giảm thiểu rủi ro làm nổ ra và lan truyền khủng hoảng tài chính toàn cầu vốn sẽ làm thiệt hại cho cả các thị trường và nền kinh tế Mỹ. Ngoài ra, căng thẳng cung cầu USD sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tiềm năng tăng trưởng của các nước đối tác của Mỹ, cũng tức là ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Mỹ sang các thị trường này.

Ngược lại, với các nước khác, tuy dự trữ ngoại tệ có dồi dào đến mấy nhưng một khi suy thoái, khủng hoảng kinh tế hoặc một biến cố lớn nào đó nổ ra thì thực tế cho thấy không có mấy ngân hàng trung ương nào có thể tự tin trụ vững trước áp lực cung ứng đầy đủ USD với tư cách là tài sản an toàn cho thị trường mà không gây ra những xáo trộn, đổ vỡ lớn trong hệ thống tài chính. Đây là lý do vì sao mà ngay cả những nước phát triển có quỹ dự trữ ngoại hối lớn như Nhật và châu Âu vẫn phải duy trì hạn mức hoán đổi tiền tệ với Mỹ.

Liên hệ với Việt Nam

Việt Nam có cần một thỏa thuận tương tự với Mỹ? Câu trả lời là tất nhiên, trừ khi Mỹ từ chối hoặc không mặn mà (như được bàn thêm ở phần sau).

Ngay cả được cho là đã đạt mức cao kỷ lục trong năm qua, nhưng xét đến quy mô (tính trên kim ngạch nhập khẩu) thì quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam thậm chí còn khiêm tốn hơn nhiều so với 14 nước đã có thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với Mỹ. Nếu không có thỏa thuận với Mỹ thì buộc Việt Nam phải trông chờ vào các khoản vay, hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như WB hay IMF trong những lúc khó khăn, khủng hoảng. Như vậy, nếu có được thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với Mỹ thì cũng có nghĩa là Việt Nam có thêm một chỗ dựa chắc chắn khi cần (và, quan trọng hơn, không có rủi ro tỷ giá, không phải trả lãi, phí, và không phải chờ đợi xét duyệt như với các khoản cho vay thương mại hoặc song phương).

Vấn đề lớn nhất là liệu Mỹ có thấy cần thiết phải có/duy trì một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với Việt Nam hay không?

Điều vẫn chưa được rõ là về tiêu chí Mỹ lựa chọn và “chơi” với các nước khác như thế nào trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, căn cứ vào cách giải thích của Fed liên quan đến việc cấp thỏa thuận hoán đổi thêm cho 9 nước như nói ở trên, cũng như chính cái tên của 14 nước/khu vực đang có thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với Mỹ, thì có thể hiểu rằng Mỹ sẽ chỉ chọn cấp hạn mức hoán đổi USD với nước nào là đồng minh thân cận của Mỹ, là thị trường xuất khẩu lớn của Mỹ, là nơi có nhiều ngân hàng tại đó cũng có hoạt động cung cấp tín dụng tại Mỹ (và các ngân hàng này sẽ bị ảnh hưởng mạnh nếu nền tài chính, kinh tế bản địa rung lắc), là nơi xung yếu để những rủi ro đổ vỡ cho nền kinh tế và thị trường tài chính bản địa dễ bị nhân rộng, lan truyền khắp thế giới.

Xét trên những yếu tố trên, Việt Nam xem ra không phải là một ưu tiên của Mỹ.

Dẫu vậy, Việt Nam vẫn còn một số yếu tố để có thể “vận động” Mỹ xem xét và sớm quyết định (nếu họ chưa làm vậy). Đó là nỗ lực thúc đẩy và nâng tầm quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam, và đặc biệt là nhu cầu chính đáng của Việt Nam ổn định tỷ giá (thực chất cũng là có lợi cho Mỹ khi tỷ giá USD/VND đã lọt vào “tầm ngắm” của Mỹ) để kéo giảm thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam, tăng sức cạnh tranh của xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Mỹ vào Việt Nam.

Tóm lại, việc thuyết phục được Mỹ cung cấp một hạn mức USD cho Việt Nam là một điều tích cực cho Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn. Tuy cánh cửa hẹp nhưng Việt Nam cần nỗ lực thuyết phục Mỹ, nhấn mạnh đến những lợi ích cho cả phía Mỹ nếu cả 2 bên đạt được một thỏa thuận loại này. 
---------
(1) https://www.federalreserve.gov/newsevents/pressreleases/swap-lines-faqs.htm

Thursday 12 March 2020

Hai kịch bản tác động của gói tín dụng 250.000 tỉ đồng (Bài đăng trên TBKTSG, 12/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/300971/hai-kich-ban-tac-dong-cua-goi-tin-dung-250000-ti-dong-.html

Chính phủ mới ban hành Chỉ thị 11 về giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh ứng phó dịch Covid-19. Chỉ thị này đề cập đến gói hỗ trợ tín dụng 250.000 tỉ đồng hỗ trợ các doanh nghiệp, người dân chịu ảnh hưởng của dịch bệnh.

Chính phủ mới ban hành Chỉ thị 11 về giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội trong bối cảnh ứng phó dịch Covid-19. Chỉ thị này đề cập đến gói hỗ trợ tín dụng 250.000 tỉ đồng hỗ trợ các doanh nghiệp, người dân chịu ảnh hưởng của dịch bệnh.

Nhìn chung, theo nhận định của giới chuyên gia và quan chức thì gói tín dụng này sẽ không gây ảnh hưởng (đáng kể) lên lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhận định này được dựa trên những căn cứ như nguồn vốn cho gói tín dụng này không phải là từ ngân sách nhà nước, mà là của bản thân các ngân hàng thương mại (NHTM); NHTM tự chịu trách nhiệm cho vay, thu hồi nợ theo các điều khoản thương mại, và Nhà nước không bù lỗ.

Điểm đáng chú ý là tuy có sự nhất trí về sự “an toàn” của gói tín dụng này nhưng đang có sự bất nhất trong cách hiểu/diễn giải về hình thức giải ngân gói này. Cụ thể, có người thì cho rằng gói tín dụng này không phải là tiền mới được bơm vào nền kinh tế dưới các hình thức là khoản vay mới hay khoản tín dụng mới, mà chỉ là tổng hợp dư nợ hiện tại, dưới hình thức như tái cơ cấu nợ, giảm lãi, phí... (1)  Ngược lại, người khác thì cho rằng gói này sẽ được sử dụng để cho vay mới hỗ trợ doanh nghiệp và hộ gia đình chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh (nhằm hỗ trợ thanh khoản, nhu cầu vốn lưu động...). (2) Tuy nhiên, cả hai luồng quan điểm này cũng thống nhất cho rằng số tiền giải ngân mới này (chắc chắn) sẽ được tính vào hạn mức tín dụng của NHTM.

Do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chưa có các chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể liên quan đến gói tín dụng nên tại thời điểm này vẫn chưa thể khẳng định gói tín dụng có gồm các khoản cho vay mới hay không. Tùy thuộc vào chỉ đạo của NHNN sẽ có một vài hàm ý khác nhau về tác động của gói tín dụng  lên kinh tế vĩ mô.

Nếu NHNN chỉ cho phép NHTM dùng gói tín dụng này để tái cơ cấu, giảm lãi, phí cho các khoản tín dụng hiện hữu, trong khi hạn mức tăng trưởng tín dụng của NHTM nói riêng, của ngành ngân hàng nói chung không thay đổi. Kịch bản này sẽ có hàm ý là một số khoản vay mới dành cho các doanh nghiệp và hộ gia đình không thuộc dạng ưu tiên được vay vốn (gồm đối tượng chịu ảnh hưởng dịch bệnh) sẽ bị cắt giảm, bởi một lượng vốn cho vay đến hạn trả lại cho NHTM từ các khoản tín dụng hiện hữu cho các đối tượng chịu ảnh hưởng dịch bệnh sẽ bị “treo” trên sổ sách của ngân hàng, không về được NHTM để cho vay lại các đối tượng khác. Thiệt hại từ việc giảm lãi, phí cũng góp phần làm giảm nguồn vốn sẵn sàng cho vay các đối tượng khác.

Giả sử tiếp là tổng cầu tín dụng của nền kinh tế không thay đổi so với trước khi xảy ra dịch bệnh (và điều này được thể hiện ở sự giữ nguyên chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của NHNN cho toàn ngành ngân hàng). Khi đó, NHTM buộc phải nâng lãi suất huy động để có thêm nguồn vốn cho vay các đối tượng, cũng tức là NHTM sẽ phải tăng lãi suất cho vay các đối tượng này để bù đắp sự sụt giảm về lợi nhuận tín dụng cũng như nguồn vốn cho vay. Nói cách khác, khi NHTM phải tái cơ cấu nợ, giảm lãi, phí, còn NHNN không tăng cung tiền thì lãi suất sẽ chịu áp lực gia tăng, làm giảm động lực tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.

Đối phó với kịch bản thứ nhất này, NHNN cần theo dõi sát sao nhu cầu tín dụng của nền kinh tế trên thực tế để có phản ứng nới lỏng kịp thời khi cần (khi nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và người dân vẫn tăng mạnh, bất chấp dịch bệnh).

Trong kịch bản thứ hai, NHNN cho phép NHTM còn dùng gói tín dụng hỗ trợ này để cho vay mới các đối tượng chịu ảnh hưởng dịch bệnh. Vẫn giả sử NHNN không thay đổi cung tiền, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Khi đó, có thể nói đây là kịch bản tương tự nhưng ở mức độ cao hơn kịch bản nêu trên, xét về mức độ gây ảnh hưởng lên mặt bằng lãi suất. Cụ thể hơn, không chỉ chịu thiệt hại về nguồn vốn và lợi nhuận khi một phần nguồn vốn đã cho vay ra không thu hồi được, NHTM còn phải “căng mình” huy động vốn để tiếp tục cho vay mới không chỉ các đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch bệnh mà cả các đối tượng còn lại.

Cần nói thêm là nợ xấu (tiềm ẩn) trong kịch bản thứ hai sẽ còn lớn hơn kịch bản thứ nhất khi nợ xấu phát sinh không chỉ ở các khoản cho vay hiện hữu các đối tượng chịu ảnh hưởng dịch bệnh mà còn từ các khoản cho vay mới cho cùng các đối tượng này, với khả năng thu hồi vốn không thể khẳng định chắc chắn.

Do NHTM phải tăng lãi suất huy động đồng thời chịu thêm áp lực gia tăng nợ xấu nên kịch bản thứ hai sẽ có nhiều khả năng làm cho mặt bằng lãi suất chung tăng cao hơn, ảnh hưởng mạnh hơn đến triển vọng tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn (so với kịch bản thứ nhất).

Để đối phó với kịch bản này, NHNN không chỉ phải sát sao trong việc theo dõi tổng cầu tín dụng của nền kinh tế mà còn phải tăng cường chỉ đạo, thanh tra các khoản vay mới cho các đối tượng chịu ảnh hưởng dịch bệnh. Nếu thấy các đối tượng này không có khả năng hồi phục thì tốt nhất NHTM phải (được phép) để cho các đối tượng này phá sản mà không được “nuôi nợ”, vốn chỉ càng làm tăng mức độ thiệt hại cho ngân hàng, cho nền kinh tế trong tương lai.

Cuối cùng, nếu nhu cầu tín dụng của nền kinh tế sụt giảm đáng kể do dịch bệnh, thể hiện khả năng là tổng cung của nền kinh tế sụt giảm mạnh (cũng do/như là hậu quả của dịch bệnh làm suy giảm tổng cầu), NHNN cần phối hợp chặt chẽ với các bộ để “kích cầu”, chủ yếu gia tăng chi tiêu của Chính phủ vào các dự án phát triển hạ tầng và an sinh xã hội, kể cả trợ cấp trực tiếp cho người thu nhập thấp và người bị ảnh hưởng dịch bệnh (như một số nước đã và sẽ thực hiện). Một phần nguồn vốn này tất nhiên cuối cùng sẽ là xuất phát từ NHNN.

Và dù kịch bản nào xảy ra thì NHNN và NHTM vẫn phải sẵn sàng đối phó với triển vọng nợ xấu “hồi phục” và gia tăng mạnh trở lại trong và sau dịch bệnh. Những bất cập trong mô hình, cách thức và khuôn khổ pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu trong quá khứ cần được khẩn trương khắc phục ngay và triệt để nhằm giảm thiểu nợ xấu mới tích tụ.

Ngoài ra, nếu gói tín dụng hỗ trợ này được triển khai rầm rộ, thậm chí còn tăng về quy mô thì chắc chắn sẽ dẫn đến tình huống mới là NHTM quay sang “đòi” NHNN “chia sẻ” thiệt hại từ việc tái cơ cấu, giảm lãi, phí, và cho vay mới các đối tượng chịu ảnh hưởng dịch bệnh. Trước yêu cầu không dễ chối bỏ này, nhất là khi nó mang danh hưởng ứng chủ trương hỗ trợ nền kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN sẽ có ít lựa chọn ngoài giải pháp hỗ trợ lãi suất cho vay hỗ trợ, cho vay tái cấp vốn, cho vay trực tiếp các NHTM tham gia gói hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi...

Đến bước này thì, về mặt kỹ thuật, có thể nói chủ trương không nới lỏng chính sách tiền tệ hay không dùng ngân sách nhà nước sẽ khó đứng vững!

 -------------------- 

(1) https://cafef.vn/dang-sau-goi-tin-dung-250000-ty-dong-va-goi-ho-tro-tai-khoa-30000-ty-dong-la-gi-2020030622431741.chn
(2) https://cafef.vn/ts-can-van-luc-can-hieu-dung-goi-tin-dung-250000-ty-dong-va-goi-ho-tro-tai-khoa-30000-ty-dong-20200307165008222.chn

Sunday 8 March 2020

Nhiều câu hỏi 'đau đầu' cho đề án phát triển DNNN quy mô lớn (Bài đăng trên TBKTSG, 9/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/td/300766/nhieu-cau-hoi-dau-dau-cho-de-an-phat-trien-dnnn-quy-mo-lon.html

Chính phủ vừa giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng đề án phát triển doanh nghiệp nhà nước  (DNNN) quy mô lớn, đặc biệt là tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) đa sở hữu với ba nhiệm vụ chính, gồm vai trò dẫn dắt của DNNN trong xây dựng và mở rộng chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới; phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu; và rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về DNNN. (1) Ngoài ra, Chính phủ cũng yêu cầu Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban.

DNNN “quy mô lớn” có phải là tập đoàn?

Điểm cần làm rõ đầu tiên liên quan đến đề án nói trên là khái niệm DNNN “quy mô lớn” và sự phân biệt nó với TĐKTNN đa sở hữu. Theo cách viết trong đề án thì có thể hiểu DNNN “quy mô lớn” bao gồm TĐKTNN đa sở hữu. Đến đây thì lại nảy sinh ra ba vấn đề liên quan dưới đây:

1. Ngoài TĐKTNN ra, những DNNN nào thuộc phạm vi điều chỉnh của đề án này? Nếu nói là “quy mô lớn”, thì ở quy mô (vốn?) gì và cụ thể thế nào? Cần nói thêm ở đây là thực tế thì có thể coi các TĐKTNN là các DNNN quy mô lớn rồi, bao trùm hầu hết các DNNN có quy mô đáng kể khác ở hầu khắp mọi lĩnh vực rồi nên khó mà hình dung vẫn còn DNNN “quy mô lớn” nào đó còn sót lại, chưa được đề cập đến.

2. Khái niệm TĐKTNN “đa sở hữu” dường như mới xuất hiện từ năm 2017 trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII. Đây là một khái niệm mới, chưa được định nghĩa rõ ràng, cụ thể gồm, ví dụ, để được gọ là TĐKTNN đa sở hữu thì nhà nước phải sở hữu tối thiểu bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp, ở cấp độ nào (công ty mẹ, công ty con, công ty liên kết..). Nói rộng ra nữa, vậy DNNN “quy mô lớn” được đề cập trong đề án có được phép gồm cả những DNNN “đa sở hữu”?

Điểm liên quan nữa là cho dù nhà nước có sở hữu đa số trong các TĐKTNN thì về bản chất chúng không phải là sở hữu nhà nước nữa nên không thể gọi là TĐKTNN được, mà phải là cái gì đó đại loại như TĐKT (liên doanh, cổ phần). Do đó, các TĐKT này nói riêng và DNNN “quy mô lớn” đa sở hữu nói chung sẽ không còn/không nên được gọi là DNNN đúng nghĩa nữa. Mà như thế thì liệu chúng có nên chịu chế tài theo hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về DNNN được đề cập đến trong đề án hay không?

3. Vì đã có sự đồng sở hữu bởi thành phần kinh tế tư nhân và nước ngoài nên TĐKTNN đa sở hữu nếu cứ độc đoán theo định hướng sản xuất kinh doanh của nhà nước, là định hướng thường không nhất thiết trùng hợp với định hướng của chủ sở hữu thuộc các thành phần khác, thì sẽ dễ dẫn đến khả năng là mô hình TĐKTNN đa sở hữu sẽ không hấp dẫn được các nhà đầu tư phi nhà nước. Nói cách khác, một khi đã (muốn) thành lập mô hình sở hữu đa thành phần trong các TĐKT thì cần phải để các TĐKT này vận hành theo nguyên lý thị trường, tức cũng có nghĩa là tính định hướng nhà nước với chúng, được thể hiện ở trên các khía cạnh ví dụ như công cụ bình ổn kinh tế vĩ mô... hoặc sẽ không còn nữa, hoặc nó sẽ trở thành nguyên nhân cho những xung đột pháp lý một khi cứ áp đặt ý chí của nhà nước trong định hướng hoạt động của TĐKT “cổ phần” này.

Tóm lại, nếu ngay cả các khái niệm, định nghĩa không được làm rõ ngay từ đầu thì mọi kế hoạch, đề án chắc chắn sẽ vấp phải tình trạng dò dẫm, lúng túng, mâu thuẫn, bất đồng, bất nhất trong việc xác định mục tiêu, thực thi, vận hành và tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện.

Cái cũ còn chưa rõ, sao phải làm cái mới?



Đề án có nhiệm vụ phát triển DNNN quy mô lớn và/gồm các TĐKTNN đa sở hữu. Vì các DNNN quy mô lớn và TĐKTNN đa sở hữu này chắc chắn gồm 11 TĐKT được thí điểm thành lập trong giai đoạn 2005-2009 nên việc phát triển DNNN quy mô lớn và/gồm các TĐKTNN đa sở hữu cũng có nghĩa là (bao gồm việc) phát triển các TĐKT được thành lập thí điểm này.

Điểm mấu chốt ở đây là việc thí điểm thành lập 11 TĐKTNN dường như chưa bao giờ được đánh giá và tổng kết một cách đầy đủ, tổng quá và chính thức. Tuy Thủ tướng Chính phủ có ban hành Quyết định 1428 năm 2012 về kết thúc thí điểm hình thành Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam và Tập đoàn Phát triển nhà và Đô thị Việt Nam (đây là hai trong số 11 TĐKT được thành lập thí điểm), nhưng việc này không có nghĩa là (mô hình) 9 TĐKTNN còn lại là đã thành công, cần được tiếp tục phát triển và nhân rộng, hay khuôn khổ, cơ chế, chính sách pháp luật về các TĐKTNN đã rõ ràng. Lưu ý thêm rằng tuy cũng đã có một vài đánh giá về những vấn đề này nhưng đó chỉ là những đánh giá mang tính cá nhân, và vẫn chỉ dừng lại ở mức rất chung chung, định tính (xem, ví dụ, (2), (3)).

Nêu những chi tiết như trên để chỉ ra những vấn đề bất ổn, bất hợp lý liên quan. Trong khi những vấn đề cơ bản về TĐKTNN chưa được làm rõ (như thế nào là TĐKTNN, nó có phải là một mô hình thành công, xứng đáng tồn tại và cần tiếp tục phát triển, nhân rộng hay không, và nếu là mô hình thành công thì đâu là những yếu kém hiện hữu cụ thể cần khắc phục của mô hình này...) thì việc tiếp tục cho xây dựng đề án phát triển DNNN quy mô lớn và/gồm TĐKTNN đa sở hữu cho thấy hoặc là dường như người ta quan niệm rằng TĐKTNN được thành lập thí điểm trước đây không phải là/chẳng có gì chung với “DNNN quy mô lớn” và “TĐKTNN đa sở hữu” được nêu trong đề án, hoặc là, đơn giản hơn, người ta đã quên mất sự hiện diện của 11 TĐKTNN thí điểm này. Điều nào trong hai khả năng này đều là điều không thể chấp nhận được!

Và lại chồng chéo

Trong khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ) được giao nhiệm vụ xây dựng đề án phát triển DNNN quy mô lớn và TĐKTNN đa sở hữu thì Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban) cũng lại được giao nhiệm vụ xây dựng chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là sự phân tách nhiệm vụ như trên có tạo ra sự chồng chéo, mâu thuẫn, dẫm chân lên nhau giữa Bộ và Ủy ban hay không?

Như đã phân tích, DNNN quy mô lớn và TĐKTNN đa sở hữu rất có thể là gồm các TĐKTNN đã được bàn giao cho Ủy ban. Nếu để Bộ xây dựng đề án phát triển (mà chắc chắn sẽ phải gồm chiến lược tổng thể đầu tư, phát triển doanh nghiệp) cho các doanh nghiệp/TĐKT này thì sẽ dẫn đến khả năng đề án phát triển của Bộ sẽ không tương thích, phù hợp với cái của Ủy ban. Ngược lại, Ủy ban hoạch định chiến lược phát triển cho các doanh nghiệp thuộc quản lý của mình cũng có khả năng sẽ mâu thuẫn với định hướng của Bộ cho các DNNN và TĐKTNNN nói chung.

Để khắc phục tình trạng trên thì buộc phải có thêm một yêu cầu nữa, đại loại là Bộ/Ủy ban chủ trì phối hợp (với bên kia) xây dựng chiến lược đầu tư phát triển... Nhưng đến đây thì câu hỏi tiếp theo sẽ là vậy thì thành lập ra Ủy ban để làm gì? Chẳng phải là Ủy ban ra đời chỉ làm rối/khó thêm tình hình hay sao?

---------------

(1) https://ndh.vn/thoi-su/xay-dung-de-an-phat-trien-doanh-nghiep-nha-nuoc-quy-mo-lon-1263963.html

(2) https://vnexpress.net/kinh-doanh/thi-diem-tap-doan-thanh-cong-8-11-2722942.html
(3) http://pvc.vn/tinchitiet/tabid/93/id/1205/Mo-hinh-tap-doan-kinh-te-–-thuc-tien-va-giai-phap.aspx

Sunday 1 March 2020

Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Lần gỡ nút thắt (Bài đăng trên TBKTSG, 2/3/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/300563/uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep-lan-go-nut-that-.html

Mới đây, Tổ công tác của Thủ tướng đã có cuộc họp với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban) về kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng giao cho Ủy ban. Trong cuộc họp này, nhiều khó khăn, vướng mắc và hàng loạt kiến nghị đã được Ủy ban đưa ra.

Vụn vặt, không ổn

Theo báo chí đưa tin, Ủy ban đã nêu hàng loạt khó khăn, vướng mắc, trong số đó có vấn đề nguồn nhân lực. Theo Ủy ban, do nhiều nguyên nhân khác nhau, họ gặp khó khăn trong việc thu hút các cán bộ có chuyên môn giỏi, có năng lực, kinh nghiệm từ các bộ và từ khu vực doanh nghiệp về. Một nguyên nhân là việc tuyển chọn, tiếp nhận cán bộ về Ủy ban thực hiện theo các quy định áp dụng với cơ quan quản lý nhà nước, trong khi Ủy ban không phải là cơ quan quản lý nhà nước mà là cơ quan hành chính. (1)

Thực tế, cho đến nay dường như chưa bao giờ Ủy ban đăng tuyển dụng nhân lực một cách công khai, bình đẳng, rộng rãi để thu hút những người có đủ trình độ và phẩm chất như yêu cầu. Cho dù có thể có/viện lý do rằng nhân lực của Ủy ban phải là “người nhà nước” (nên phải tuyển dụng kín, trong nội bộ các bộ), nhưng lưu ý là, cũng theo Ủy ban, nhân lực của Ủy ban còn đến từ khu vực doanh nghiệp. Nên kể cả “khu vực doanh nghiệp” này có được hiểu theo nghĩa chỉ là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thì nhân lực cho Ủy ban không nhất thiết phải là “người nhà nước”, hoàn toàn có thể đăng tuyển công khai để tuyển dụng nhân lực từ các khu vực, thành phần kinh tế khác, miễn là những nhân lực này có chuyên môn, kinh nghiệm và phẩm chất tương ứng. Chắc chắn sẽ có (nhiều) người đáp ứng được yêu cầu nếu Ủy ban thực tâm tìm kiếm. Mà xét cho cùng, “người nhà nước” trước hết cũng phải là “dân thường” rồi mới được các cơ quan nhà nước tuyển dụng.

Điều đáng chú ý liên quan đến nhân lực là ý kiến của Ủy ban cho rằng họ không phải là cơ quan quản lý nhà nước mà là cơ quan hành chính. Nhiều người chắc chắn sẽ rất “hoang mang” khi nghe phát biểu này. Bởi về khái niệm, cơ quan hành chính là một cấu thành của bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Thêm nữa, Ủy ban là một cơ quan trực thuộc Chính phủ. Nên nếu một khi đã coi các bộ là một cơ quan hành chính/cơ quan quản lý nhà nước thì Ủy ban cũng đương nhiên là một cơ quan tương tự. Vậy sao Ủy ban lại phải tách biệt (một cách sai lầm) như vậy để lấy đó làm lý do biện minh cho bất cập trong hoạt động của mình?     

Do đó, việc Ủy ban nêu khó khăn về tuyển dụng nhân lực (sau cả 2 năm từ khi đi vào hoạt động) thực sự là vụn vặt, “có gì đó sai sai”!

Tương tự như vậy, cũng theo Ủy ban, hiện đội ngũ kiểm soát viên nhà nước tại 13 tập đoàn, tổng công ty do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có 21 người, nhưng theo Nghị định số 10 năm 2019 thì số lượng này chưa đáp ứng quy định, cần bổ sung tối thiểu 25 kiểm soát viên.

Theo Nghị định 10 thì lực lượng kiểm soát viên này là do Ủy ban lựa chọn và bổ nhiệm. Vì vậy, sự thiếu hụt lực lượng kiểm soát viên cho thấy có vấn đề về công tác tuyển dụng nhân lực tại bản thân Ủy ban (có thể liên quan đến chuyện không đăng tuyển dụng công khai như nêu trên), chứ không phải một lý do khách quan, do một bên thứ ba, mà Ủy ban không tự mình khắc phục được.  

Chưa hết, Ủy ban cho biết hiện một số tập đoàn, tổng công ty chưa bảo đảm số lượng cán bộ lãnh đạo quản lý, chậm chí có các doanh nghiệp chưa có Tổng giám đốc, chức danh này do một Phó Tổng giám đốc phụ trách. Nhưng cần biết là cũng theo Nghị định 10, công tác nhân sự với người quản lý DNNN là do Ủy ban chịu trách nhiệm. Do đó, việc Ủy ban nêu “khó khăn” về cán bộ lãnh đạo tại DNNN chỉ càng làm rõ thêm tính vụn vặt và đặc biệt là sự không hoàn thành nhiệm vụ của Ủy ban như được giao phó.

Không “quyết liệt” thực hiện chức năng?

Theo Ủy ban, vướng mắc lớn nhất của Ủy ban là thẩm quyền phê duyệt dự án của cơ quan đại diện chủ sở hữu chưa được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, dẫn đến nhiều cách hiểu không thống nhất trong nội bộ Ủy ban, giữa các bộ, ngành và các doanh nghiệp. Khó khăn kiểu này cũng được một số doanh nghiệp như Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Vietnam Airlines và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước nêu ra tại cuộc họp.

Gác lại chuyện “sinh con rồi mới sinh cha” khi các văn bản luật trước khi thành lập Ủy ban chưa tính tới sự tồn tại của Ủy ban nên phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Và cũng gác qua một bên chuyện “có vấn đề về cách tiếp cận vấn đề của các tập đoàn, tổng công ty” như lời của đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong cuộc họp. (2) Trong số các chức năng và nhiệm vụ được giao cho Ủy ban có những việc như đề xuất, tham mưu, giúp Thủ tướng thực hiện các quyền, trách nhiệm đối với doanh nghiệp do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu; chủ trì phối hợp với các bộ trình Thủ tướng phê duyệt (hoặc tự phê duyệt) chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm và hàng năm của doanh nghiệp...

Như vậy, cho dù có tồn tại sự hiểu khác nhau giữa các bộ nhưng nếu Ủy ban quyết tâm thực thi nghiêm túc quyền hạn và trách nhiệm của mình thì sự khác biệt về cách hiểu, nếu có, giữa các bộ với Ủy ban sẽ được khắc phục bằng cách này hay cách khác, ví dụ như đề xuất và trình Thủ tướng giải pháp xử lý vấn đề. Trừ khi Thủ tướng “quên” không trả lời, không chỉ đạo các bộ thực hiện giải pháp đề xuất, những tồn tại như thẩm quyền phê duyệt dự án cứ bị “treo” ở đó rõ ràng là do lỗi của trước tiên ở phía Ủy ban mà không thể đổ cho một bên thứ ba.

Tóm lại, dù sự ra đời và hoạt động của Ủy ban là chuyện đã rồi với nhiều bất cập đã được dự báo, cảnh báo trước nhưng những khó khăn hiện tại được nêu ra thực sự mang tính chủ quan là nhiều. Do vậy, Ủy ban cần phải nỗ lực thực hiện tốt hơn những gì họ được giao phó, trông cậy.

(1) http://mnews.chinhphu.vn/story.aspx?did=388019
(2) https://vnexpress.net/kinh-doanh/tong-cong-ty-duong-sat-keu-kho-khi-ve-sieu-uy-ban-4058012.html

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).