Sunday 22 December 2013

Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và rủi ro nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG, số ra ngày 19/12/2013)


Với diễn biến “ì ạch” của tăng trưởng tín dụng từ đầu năm cho đến nay, có khả năng không hoàn thành mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% trong năm 2013 này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những biện pháp chỉ đạo quyết liệt đốc thúc và tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng tăng trưởng tín dụng. Còn bản thân các ngân hàng thương mại thì cũng quyết liệt tìm mọi cách để tăng tín dụng vì áp lực lợi nhuận, giảm nợ xấu, và giành thị phần.
Trong khi đó, nền kinh tế xem ra cũng vẫn đang trong giai đoạn “ì ạch” tăng trưởng, với hàng tồn kho ở mức lớn, với sản xuất cầm chừng ở nhiều ngành, nhiều nơi do nhu cầu thấp, thu nhập dân cư và doanh nghiệp tăng chậm, dẫn đến vòng luẩn quẩn là tổng cầu tăng chậm, nợ xấu gia tăng, nhu cầu tín dụng hạn chế, bất chấp mọi nỗ lực quyết liệt giải quyết khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng của Chính phủ.

Bối cảnh này làm dấy nên nỗi lo ngại rất chính đáng rằng các biện pháp tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng như hiện nay sẽ tiếp tục làm gia tăng khối nợ xấu trong nền kinh tế, đơn giản vì nhanh và “quyết liệt” thường đồng nghĩa với ẩu và bỏ qua các nguyên tắc hành động chuẩn mực.
Sẽ có nhiều người, nhiều ngân hàng phản đối mối lo ngại này, vì cho rằng cho vay tín dụng luôn đi kèm với những nguyên tắc bất di bất dịch của ngành, kể cả trong giai đoạn đang phải “quyết liệt” như hiện nay. Họ sẽ dẫn ra những bằng chứng nào là thông tin tín dụng được cung cấp bởi Trung tâm Thông tin tín dụng NHNN (CICB), nhờ đó họ nắm rõ được lịch sử tín dụng của khách hàng, nhờ đó giảm thiểu khả năng cho vay “nhầm” đối tượng; nào là cán bộ tín dụng được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và tuân thủ pháp luật; nào là hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng đã được nâng cấp, tái cơ cấu để hạn chế gia tăng rủi ro tín dụng từ cấp cơ sở v.v... Còn phía NHNN thì liên tục khẳng định đã tăng cường và thắt chặt công tác thanh tra, giám sát hoạt động tại các ngân hàng, quản lý rủi ro của toàn hệ thống v.v...

Và mọi việc dường như sẽ đúng như vậy cho đến khi có những vụ việc nổ ra, làm bộc lộ những lỗ hổng lớn trong công tác quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng và cả NHNN. Mới đây nhất là vụ tranh chấp kho cà phê trị giá 100 tỷ đồng của Công ty Trường Ngân vốn là tài sản thế chấp cho ... 7 ngân hàng với tổng số nợ lên tới 600 tỷ đồng. Trước đó, theo báo chí, thì còn có vụ Công ty cổ phần Inox Việt Mỹ cũng dùng sản phẩm inox của mình để thế chấp tại 5, 6 ngân hàng để vay 200 tỷ đồng. Đây chắc chắn mới chỉ là 2 trong số nhiều vụ việc đã và đang xảy ra mà dư luận còn chưa được biết đến.
Những vụ việc trên, về nguyên tắc, là không được phép xảy ra. Nếu đúng rằng các ngân hàng có sử dụng thông tin của CICB và các thông tin của CICB là đầy đủ để cung cấp một bức tranh tổng quát về những khách hàng như  Trường Ngân hoặc Inox Việt Mỹ thì chắc chắn các ngân hàng sẽ biết chính xác hiện tại các khách hàng này đang có bao nợ, với những ngân hàng nào. Bản thân từng ngân hàng có ý định cho các công ty này vay, dựa trên thông tin của CICB, có khả năng và bắt buộc phải phân tích xem với dư nợ vay hiện tại và số nợ mới mà họ đang xem xét, thì liệu các công ty khách hàng tiềm năng này có khả năng trả nợ cho họ không (dựa vào, ví dụ, thu nhập và dòng tiền), để rút ra kết luận có thể cho họ vay được không v.v...

Nhưng những vụ việc như trên vẫn xảy ra, chứng tỏ hai điều. Hoặc là thông tin của CICB là không đầy đủ, không được cập nhật (kịp thời). Điều này có thể xảy ra khi đối tượng cung cấp thông tin cho CICB, theo luật định, là các tổ chức (có hoạt động) tín dụng không thực hiện nghiêm túc đúng nghĩa vụ của mình; còn CICB thì không thực hiện được việc giám sát công tác báo cáo của các tổ chức này. Hoặc là bản thân các ngân hàng thương mại đã lơ là với chuyện cho vay, không có hệ thống quản lý rủi ro tín dụng hoạt động tốt, bị cán bộ tín dụng qua mặt v.v...
Điều rủi ro hơn hiện nay là các ngân hàng đang dốc sức phát triển mảng tín dụng cá nhân trong bối cảnh tín dụng doanh nghiệp đang “mắc cạn”. Các khoản cho vay cá nhân như tiêu dùng; mua, xây, sửa nhà; mua ô tô, thẻ tín dụng đang được khuyến khích và quảng bá rầm rộ.

Vì quy mô khoản vay tương đối nhỏ, số lượng đối tượng nhiều, chi phí cho vay lớn hơn đáng kể so với tín dụng doanh nghiệp nên thông tin gửi về CICB hoặc thông tin lấy ra từ đây còn hạn chế hơn nữa so với thông tin về các doanh nghiệp khách hàng vay tiền. Một số thông tin cực kỳ quan trọng đối với tín dụng cá nhân là tổng thu nhập và tổng số các khoản đã vay ngân hàng của từng khách hàng cá nhân là những điều mà các ngân hàng rất khó, và hầu như không nắm được. Nếu như ở nhiều nước khác, thông tin về thu nhập của mọi cá nhân được thể hiện rõ ở tổng mức thu nhập khai báo với cơ quan thuế vụ, thì ở Việt Nam, thu nhập này khá là mù mờ hoặc không được biết đến, không được xác nhận. Trong khi đó, thông tin về tổng mức vay nợ của khách hàng cá nhân với các tổ chức tín dụng hoặc là cũng không có, hoặc là không đầy đủ, thậm chí còn tệ hơn nhiều (nếu có) nếu so với thông tin tương tự của các khách hàng doanh nghiệp, vốn cũng đã không đầy đủ, cập nhật.
Thiếu vắng thông tin về thu nhập và đi vay của các khách hàng cá nhân làm nảy sinh rủi ro lớn về nợ xấu từ mảng nghiệp vụ này, vì phòng ngừa rủi ro luôn có hiệu quả hơn là xử lý hậu quả khi sự việc đã rồi, xét về mặt bảo toàn vốn và lợi nhuận. Lúc đó, các ngân hàng chỉ còn biết dựa vào các biện pháp “rắn” sau cho vay để đôn đốc thu nợ nếu khách hàng mất khả năng, hoặc cố tình không chi trả, cho dù kết quả có thể chẳng là bao.

Cũng phải công bằng mà nói rằng lỗ hổng trong cho vay cá nhân (và cả một bộ phận doanh nghiệp) nói trên là do “ở Việt Nam nó thế!”, và trói tay các cơ quan giám sát Chính phủ và các ngân hàng muốn làm nghiêm túc, trong khi là điều có thể thực hiện được ở nhiều nước khác. Ở Singapore, ví dụ, mới đây, nhân chuyện giá bất động sản tăng nóng do đầu cơ, Chính phủ đã khống chế tổng mức vay nợ ngân hàng dùng để mua căn hộ của Chính phủ quản lý sao cho mức trả góp hàng tháng (tiền trả nợ gốc cộng lãi) không quá 30% tổng thu nhập hàng tháng của người vay. Và đương nhiên là tổng thu nhập hàng tháng và tổng mức vay mượn ngân hàng của đại bộ phận người sống ở Singapore là điều có thể biết được qua một cái bấm chuột máy tính.
Nói tóm lại, rủi ro nợ xấu tăng lên mạnh hơn là điều có thể nhìn thấy trước khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng đang được quyết liệt và ráo riết thực hiện, bởi không chỉ những lý do chủ quan (yếu kém nội tại trong hệ thống quản lý rủi ro của các ngân hàng) mà còn bởi những lý do khách quan (không phân tích, theo dõi được tổng số tiền vay và khả năng trả nợ của khách hàng).

Saturday 14 December 2013

Lại thêm cái quen quen!

Tiếp theo bài mới đọc buổi chiều nay, tớ lại thấy có bài này có mùi văn thoang thoảng của tớ (ở trong bài này), ở cái đoạn định nghĩa về tỷ giá thật trong cái box màu vàng phía dưới. Hóm thật. Sao đồng chí tác giả không google một phát là ra cái định nghĩa chuẩn rồi tha về, mà cứ phải bệ nguyên cái thoang thoảng của tớ làm gì nhỉ. Tớ xem ra khéo sắp thành lãnh tụ đến nơi mất.

Friday 13 December 2013

Bài này nghe quen quen!

Tớ lướt báo, thấy có bài này trên tờ An ninh Thủ đô, nghe quen quen mùi của tớ, hehe!

http://www.anninhthudo.vn/Van-de-hom-nay/Khong-de-cung-cau-venh-nhau/528889.antd

Vì là nó "hơi hơi" có mùi của bài này của tớ

http://phan-minh-ngoc.blogspot.com/2013/11/quan-ly-gia-khong-phai-cu-muon-binh-la.html

Phải công nhận là bọn báo chí cũng xào xáo giỏi và "thản nhiên" thật.

Và các báo cũng đưa tin giá sữa đã bắt đầu tăng ở một số nhãn. Trong khi đó thì Bộ Tài chính đã thành lập mấy đoàn kiểm tra với xử phạt. Rốt cuộc, như tớ nói, hãy chuẩn bị mà đón đợi tinh thần giá sữa tiếp tục tăng

Thursday 5 December 2013

Ở đâu động lực tăng trưởng? (Bài đăng trên TBKTSG, số 5/12/2013, bản gốc)


Trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng thấp hơn so với mức được coi là tiềm năng và vẫn còn đó những bất ổn kinh tế vĩ mô, một câu hỏi được đặt ra là phải làm gì để “vực” dậy tăng trưởng kinh tế trong khi vẫn tiếp tục cải thiện các cân đối kinh tế vĩ mô.
Trả lời câu hỏi trên, gần đây có luồng ý kiến cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần phải từ bỏ chính sách quản lý tổng cầu (hay “trọng cầu”) để thúc đẩy tăng trưởng. Thay vào đó là chính sách “trọng cung”, gồm thực thi chính sách tiền tệ theo hướng duy trì lạm phát ở mức thấp, giúp doanh nghiệp có thể tiên đoán được sự biến đổi về lãi suất, nhờ đó có thể giúp doanh nghiệp xây dựng được các chiến lực kinh daonh và yên tâm bỏ vốn đầu tư trong trung và dài hạn; giảm các loại thuế và phí, cắt giảm chi tiêu chính phủ; đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hoá các DNNN; giải điều tiết các thị trường, tăng cường cạnh tranh và tự do thương mại; khuyến khích đầu tư vào phát triển công nghệ, giáo dục và đào tạo để cải thiện năng suất và phát triển vốn con người.

Đối với luồng ý kiến này, có thể thấy một số vấn đề cần làm rõ thêm.

Nhận diện thách thức hiện tại
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tổng cầu tăng yếu (hơn mức kỳ vọng và/hoặc tiềm năng), thể hiện ở tăng trưởng GDP và chỉ số bán lẻ ròng thấp. Cầu yếu còn thể hiện ở  việc dư cung, với chỉ số hàng tồn kho cao, ở việc doanh nghiệp không dám vay vốn (mặc dù đủ điều kiện vay với lãi suất ưu đãi) để mở rộng sản xuất. Trong khi đó, thu ngân sách bị hụt lớn (so với kế hoạch) do Chính phủ tiến hành một loạt động thái cắt giảm, hoãn, miễn,  hoàn thuế trong khi mức giao nộp của doanh nghiệp và cá nhân, theo báo cáo, bị sụt giảm bởi sản xuất kinh doanh không khả quan.

Cho dù các thách thức trên có thể chỉ là ngắn hạn nhưng nếu không có biện pháp xử lý đúng đắn thì chúng sẽ thành vấn đề có tính dài hạn hơn. Nói cách khác, hiện nay nền kinh tế đang đối mặt với thiếu cầu chứ không phải thiếu cung để mà phải “kích cung”. Nên nếu tiến hành chính sách trọng cung (hiểu ở đây chắc là, theo ý của phía “trọng  cung” này, phải tăng cung hơn nữa; và lưu ý thêm rằng hiểu như vậy thì chính sách này không thể được gọi là “trọng cung” theo đúng định nghĩa của nó) thì nền kinh tế sẽ càng phải chứng kiến sự dư thừa, tồn kho hàng hóa lớn hơn, doanh nghiệp càng phải co hẹp và đóng cửa nhiều hơn. Vì thế, chí ít thì tình trạng thiếu cầu (và dư cung) là căn bệnh đang diễn ra hiện nay và cần phải được giải quyết ngay và trước mắt đã. Cho đến khi nào sự bất cân đối này được cải thiện thì có thể lúc đó ta mới có thể phải xem xét các biện pháp kích thích sản xuất kinh doanh (lưu ý lại là các biện pháp này không thuộc về chính sách “trọng cung” theo đúng nghĩa của nó) trong trung và dài hạn.
Trong bối cảnh hụt thu ngân sách ở mức lớn như hiện nay (và còn kéo sang ít nhất năm sau), chính sách trọng cung với các biện pháp giảm thuế phí hơn nữa chỉ càng dẫn đến sự hụt thu trầm trọng hơn. Nguy hiểm hơn, điều này sẽ càng buộc Chính phủ phải dựa vào Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để tiền tệ hóa khoản thâm hụt ngân sách Chính phủ, tức là làm trầm trọng thêm các bất ổn vĩ mô (áp lực lạm phát và tỷ giá gia tăng v.v...).

Cho dù phía trọng cung nói trên có đề cập đến giảm chi tiêu Chính phủ, nhưng rõ ràng là cho dù có giảm được chi tiêu Chính phủ nhưng thâm hụt ngân sách vẫn có khả năng không giảm đi, thậm chí vẫn trầm trọng hơn, nếu tổng thu ngân sách giảm mạnh hơn mức giảm chi của Chính phủ. Chưa nói thêm rằng giảm chi tiêu của Chính phủ sẽ lại dẫn đến vòng luẩn quẩn là tổng cầu yếu lại càng thêm yếu trong khi cái cần ngay trước mắt là phục hồi tổng cầu, chứ không phải là tổng cung.

Động lực tăng trưởng nằm ngay ở giải pháp xử lý những thách thức hiện tại
Xử lý được những “điểm nghẽn tăng trưởng” nói trên cũng tức là mang lại động lực phục hồi tăng trưởng cho nền kinh tế. Và giải pháp xử lý đương nhiên sẽ phải là tăng tổng cầu (và giảm tồn kho), và giảm thâm hụt ngân sách Chính phủ. Vì khuôn khổ giới hạn, nên ở đây ta chỉ nêu một số nét làm ví dụ.

Tổng cầu gồm có cầu từ thị trường nội địa và từ xuất khẩu. Tuy xuất khẩu đã tăng trưởng rất khả quan trong suốt mấy quý qua nhưng vẫn có thể tạo thêm dư  địa để khu vực này đóng góp tích cực hơn nữa vào tăng trưởng kinh tế, thông qua các biện pháp như phá giá tiền đồng để tăng sức cạnh tranh, nhờ đó tăng được doanh số xuất khẩu. Xuất khẩu tăng sẽ có tác động tích cực tới nền kinh tế nội địa khi nó tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập, thuế phí giao nộp, v.v... và tức là tăng tổng cầu.
Ngoài mặt lượng, dư địa đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng còn có thể được mở rộng thêm về chất, tức nhờ vào tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu. Các biện pháp chính sách theo hướng này là phải tăng cường liên kết theo chuỗi giữa hoạt động xuất khẩu với hoạt động của các ngành công nghiệp phụ trợ. Mà theo hướng này, một loạt các biện pháp chính sách cần phải tiến hành, trong đó đáng kể nhất là cải thiện tính hiệu quả của việc hoạch định chính sách, của hoạt động của bộ máy công quyền, quản lý hành chính; cải thiện chất lượng và số lượng các yếu tố đầu vào như lượng và chất nguồn lực lao động, đất đai, hạ tầng v.v...

Đối với thị trường nội địa, giảm, miễn và hoãn thuế phí như đã và đang làm có lẽ không phải là một giải pháp hiệu quả và có tính quyết định, vì như đã nói, nó có tác dụng phụ là làm tăng hụt thu. Ngay những nước như Nhật, với nền kinh tế trì trệ hàng thập kỷ qua, vẫn phải cân nhắc đến tăng thuế tiêu thụ để bù đắp nguồn thu. Thay vào đó, cải thiện lòng tin của người tiêu dùng, của doanh nghiệp vào triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là điều cần được ưu tiên để họ mở rộng hầu bao cho tiêu dùng và đầu tư. Mà để làm việc này thì việc giảm thiểu tính bất trắc của nền kinh tế trong tương lai, chứ không phải là việc nâng lên hay hạ xuống bản thân một chỉ số kinh tế vĩ mô nào đó (như lạm phát), mới là điều quan trọng. Người ta thậm chí còn mạnh tay chi tiêu tại thời điểm hiện tại nếu nhìn thấy trước được rằng lạm phát chắc chắn sẽ ở mức xung quanh, chẳng hạn, 7% vào năm sau. Kể cả đối với đầu tư cũng vậy, đầu tư vẫn có thể tăng nếu nhà đầu tư tính toán được bài toán lợi nhuận dựa trên mức lạm phát cho trước hầu như là sẽ thành sự thật này. Điều rủi ro mà người ta lo ngại nhất, và co lại, chính là việc dự tính lạm phát một đằng mà thực tế hóa ra một nẻo. Nói cách khác, chính sách tiền tệ làm cho lạm phát ở mức thấp, như phía “trọng cung” đề xuất, không nhất thiết là cần thiết và/hoặc có lợi hơn một chính sách tiền tệ gây ra lạm phát cao hơn, nhưng ổn định hơn.
Với chi ngân sách Chính phủ, cắt giảm chi tiêu và đầu tư công vừa là điều không dễ dàng, vừa là điều không nhất thiết là ưu tiên hàng đầu, đặc biệt trong bối cảnh không còn trông chờ vào đâu để vực tổng cầu. Thay vào đó, và hiển nhiên là vậy, hiệu quả chi tiêu là điều cần chú trọng. Theo hướng này, tất nhiên sẽ có một loạt biện pháp chính sách cần được xây dựng và thực thi để cải thiện chất lượng chi tiêu của Chính phủ. Một khi hiệu quả chi tiêu được nâng cao thì đương nhiên nhu cầu tăng thâm hụt ngân sách sẽ phải giảm đi.

Những giải pháp trên cũng sẽ mang lại động lực tăng trưởng trong trung và dài hạn
Không như một số người sẽ hiểu lầm rằng các giải pháp trên chỉ mang tính ngắn hạn, đối phó với những thách thức hiện tại. Cần lưu ý rằng các giải pháp trên thường là (và liên quan đến), như đã dẫn chứng,  việc cải thiện tính hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, của từng khu vực, thành phần kinh tế và của chức năng và hoạt động của Chính phủ v.v... để sao cho cùng một nguồn lực hiện có nhưng thành quả đóng góp vào tăng trưởng kinh tế lớn hơn.  Mà bản thân nội hàm của việc cải thiện tính hiệu quả đã tự nó bao gồm tất cả những biện pháp mà phía “trọng cung” đề xuất. Chẳng hạn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng chính là một biện pháp để cải thiện tính hiệu quả của khu vực kinh tế này, sao cho ngân sách không phải bỏ thêm vốn ra mà đóng góp của nó lại tăng lên. 

Tóm lại, đi tìm và mang lại động lực cho hồi phục và tăng trưởng kinh tế không nên chỉ giới hạn ở trong 2 khái niệm “trọng cầu” và “trọng cung”. Trong ngắn hạn, động lực này nằm ngay ở chính kết quả của các giải pháp có xử lý hữu hiệu được các khó khăn và thách thức hiện nay của nền kinh tế hay không. Tiếp tục thực thi hữu hiệu các giải pháp này để cải thiện tính hiệu quả của các nguồn lực trong trung và dài hạn cũng chính là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn.

Wednesday 27 November 2013

Tái cơ cấu kinh tế, hãy đợi đấy!

Đọc bài này và những bài tương tự thời gian gần đây về tái cơ cấu kinh tế với kinh tiếc, tớ lại ngậm ngùi cho số phận của con dân Việt, đồng thời phải thốt lên lần thứ n rằng tớ phục tớ quá vì cách đây đúng 2 năm tớ đã viết bài này trên VEF, dự cảm xấu về triển vọng tái cấu trúc với lại tái cơ cấu, câu cửa miệng một thời của người người, nhà nhà.

Tiếc là VEF đăng lên đâu như được 1 ngày thì tự diễn biến, thấy sợ sao đó bèn biên tập lại bài đã bị biên tập (mặc dù trong bài đã bị biên tập, giọng điệu và nội dung đã biến thái đi rất nhiều so với bài gốc mà tớ post ở đây, làm tớ không thể nhận ra bài của mình nữa. Phải nói thêm rằng vì viết cho báo nên trong bài gốc tớ cũng đã phải uốn lưỡi rất nhiều sao cho dễ được đăng, thế mà vẫn không xong).

Khi tớ phản ứng mạnh vì biên tập mà không hỏi ý kiến tớ, VEF có phân trần, đại loại, rằng viết thế thì ngang với nói rằng tình hình nước đến cổ mới nhảy, đã quá muộn để cải cách với tái cơ cấu, thế thì tiêu cực quá, cần phải viết lại cho tích cực hơn.

Tớ điên quá bèn bắt phải gỡ bài đầu Ngô mình Sở này xuống và chấm dứt luôn chuyện bài vở với VEF. Mới thế mà đã 2 năm trôi qua rồi, nhanh thật, và cũng nhanh như thế cho ngày xuống lỗ của nền kinh tế VN.

Tuesday 26 November 2013

Bình ổn vàng tổn thất ra sao?


Theo báo cáo “Xu hướng Nhu cầu Vàng của Hội đồng Vàng Thế giới, tổng nhu cầu tiêu thụ vàng của Việt Nam tiếp tục tăng trong quý 2 và quý 3 năm nay, đưa tổng lượng vàng tiêu thụ trong 2 quý này  lên 46,1 tấn, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2012 (xem bảng dưới).

Nhu cầu vàng tiêu dùng của Việt Nam
 Quý 2+3/2012Quý 2+3/2013% tăng
Tổng khối lượng (tấn)36,146,128%
Vàng trang sức4,45,320%
Vàng miếng, thỏi31,740,829%
Tổng giá trị (triệu USD)1.8912.0317%
Vàng trang sức2302342%
Vàng miếng, thỏi1.6611.7978%

Nếu tính theo giá trị, Việt Nam đã tiêu thụ một số lượng vàng có giá trị trên 2 tỷ USD trong 2 quý qua. Mức tăng so cùng kỳ năm ngoái chỉ là 7% vì giá vàng đã liên tục giảm trong các quý vừa qua, xuống còn 1,326 USD/oz trung bình trong quý 3 này.
Đáng chú ý là lượng tiêu thụ vàng miếng và thỏi đã tăng mạnh trong quý 2 và 3 năm nay so với cùng kỳ năm trước (tăng 9,1 tấn). Cũng cần lưu ý là thời kỳ này cũng là thời kỳ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức đấu thầu vàng cấp tập với khối lượng lớn.

Vì Việt Nam là nước nhập khẩu hầu như toàn bộ lượng vàng tiêu thụ, và vì không thể coi con số nhu cầu 46,1 tấn nói trên là tổng lượng vàng có (sẵn) trong nền kinh tế, nên có thể coi nhu cầu tiêu thụ vàng do Hội đồng Vàng Thế giới cung cấp nói trên chính là nhu cầu nhập khẩu vàng thêm vào nền kinh tế trong 2 quý qua. Và vì thời gian này cũng là thời gian diến ra đấu thầu vàng của NHNN – nguồn cung độc quyền vàng miếng và thỏi ở Việt Nam – nên có thể nói rằng phần lớn khối lượng vàng miếng và thỏi tăng thêm vào nền kinh tế trong thời gian qua gắn liền với (và là kết quả của) hành động đấu thầu vàng của NHNN.
Đương nhiên, để nhập khẩu vàng miếng và thỏi phục vụ cho đấu thầu vàng trong nước thì NHNN phải dùng ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối. Theo số liệu trong bảng trên thì Việt Nam đã phải bỏ ra gần 1,8 tỷ USD để nhập khẩu vàng miếng và thỏi trong 2 quý qua. Như thế, số ngoại tệ mà NHNN đã phải bỏ ra chắc cũng không xa con số này lắm.

Và mới đây, NHNN lại có chủ trương mua vào vàng miếng với dự đoán xu hướng giá vàng sẽ giảm trong 6 tháng hoặc 1 năm tới, được cho là có mục đích để bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam (mua rẻ và hy vọng vàng lên giá để tăng giá trị quỹ dự trữ ngoại hối).
Giả sử NHNN đã dự đoán đúng xu hướng giảm giá vàng này, và NHNN giá vàng trong 6 tháng tới sẽ giảm đi so với mức giá hiện tại như kỳ vọng của NHNN. Lúc đó, NHNN có 3 lựa chọn mua vào vàng miếng: mua vàng từ thế giới; mua vàng từ trong nước; và mua từ cả 2 nguồn này.

Đối với lựa chọn mua vàng từ thế giới, NHNN tiếp tục phải bỏ ra một lượng ngoại tệ  trong quỹ dự trữ ngoại hối để nhập khẩu vàng. Tuy giá vàng có thể đúng như dự đoán là sẽ rẻ hơn thời điểm này, và do đó lượng ngoại tệ bỏ ra cho cùng một số lượng vàng nhập khẩu sẽ ít đi, nhưng đồng thời với việc mua vàng về thì quỹ dự trữ ngoại hối lại mất đi một lượng USD tương ứng về giá trị. Như thế có nghĩa là tổng giá trị quỹ dự trữ ngoại hối không thay đổi về giá trị (quy đổi theo USD), mà chỉ có sự hoán đổi cấu thành của quỹ, chứ không có tác dụng “bổ sung” vào (làm tăng giá trị của) quỹ dự trữ ngoại hối như NHNN có thể đã dự tính. Và sẽ càng là vấn đề khi giá vàng lại tiếp tục giảm sau khi NHNN mua vào, vì lúc đó quỹ dự trữ ngoại hối càng tổn thất thêm nữa về giá trị.
Đối với lựa chọn mua vàng miếng từ thị trường trong nước, NHNN có thể in/xuất tiền đồng ra để mua vàng mà không cần phải dùng đến ngoại tệ trong quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, do nguồn cung vàng trong nước là rất có hạn (chủ yếu là lượng vàng do dân nắm giữ trước đây, đặc biệt kể từ khi NHNN tổ chức đấu thầu), nên hành động này của NHNN nhanh chóng đẩy giá vàng trong nước lên cao. Kết cục là NHNN hoặc phải rút thanh khoản từ hệ thống ngân hàng hoặc phải in tiền thêm để mua đủ số lượng vàng cần thiết. Như vậy, hành động mua vàng trong nước để bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN sẽ gây ra hoặc là tăng lãi suất do thanh khoản tiền đồng khan hiếm, hoặc gây ra áp lực lạm phát do in tiền. Cả 2 hậu quả này đều là điều NHNN muốn tránh, nhất là trong thời điểm hiện tại.

Đối với lựa chọn thứ 3, tức kết hợp cả 2 lựa chọn trên, tuy hậu quả có vẻ như được san sẻ giữa 2 lựa chọn ban đầu, nhưng nói ngắn gọn thì hậu quả vẫn là hậu quả (ví dụ, quỹ dự trữ ngoại hối có thể ít hao tổn hơn nhưng nền kinh tế sẽ bị thiệt hại nhiều hơn do lãi suất hoặc lạm phát tăng cao).
Tóm lại, cái giá của bình ổn vàng là sự hao hụt khá lớn trong quỹ dự trữ ngoại hối trong suốt thời gian qua, chưa kể những rủi ro đi kèm với việc NHNN có thể mua vàng vào trong thời gian tới (tùy theo lựa chọn mua vào của NHNN mà rủi ro sẽ là khác nhau).

Wednesday 20 November 2013

NH Nhà nước đã thực sự thành NH Trung ương? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2013/11/1078110/nh-nha-nuoc-da-thuc-su-thanh-nh-trung-uong/

Hôm trước đồng chí Nguyễn Quốc Dân làm tớ mừng hụt vì tưởng Chính phủ sợ tớ mà vội vàng ban hành quyết định về thành lập NHTW. Tớ cũng quáng gà, vào đọc mấy lời bình luận của tờ báo mà tin sái cổ. Chỉ thấy lạ là một chuyện tầy đình thế mà sao lại được tiến hành im im, không hề được đề cập đến trên báo cho đến ngày được ký.

-----------------------------------------------------------------------------
Ở nhiều nước, Ngân hàng Trung ương (NHTW) độc lập với Chính phủ nói riêng và giới chính trị nói chung. Sự độc lập này là điều cần thiết để NHTW có thể theo đuổi chính sách có tác động tích cực lên tăng trưởng và ổn định kinh tế trong dài hạn. Nếu không được độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung thì NHTW dễ tạo ra những cơn trồi sụt của nền kinh tế trong ngắn hạn bắt đầu bằng chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức thông qua áp lực của giới chính trị đặc biệt trước thời điểm bầu cử nhằm “ghi điểm” với cử tri.

Ở Việt Nam, ngày 11/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương của Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của NHTW về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của NHNN.

Với sự ra đời của Nghị định 156, nhiều ý kiến bình luận rằng từ 26/12 tới (là ngày Nghị định 156 có hiệu lực), Việt Nam sẽ chính thức có một NHTW hoạt động độc lập, tự chủ giống như các nước trên thế giới, với nhiệm vụ quan trọng nhất là ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh trong khuôn khổ luật pháp.
Tuy nhiên, xem xét kỹ một chút thì có thể thấy NHNN vẫn chưa thể là một NHTW độc lập như ở nhiều nước trên thế giới. Để được gọi là độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung, một NHTW phải thỏa mãn (ít nhất) một trong những điều kiện sau: độc lập về mặt pháp lý; độc lập về mục tiêu; độc lập về hoạt động; và độc lập về quản lý.

Về độc lập pháp lý, lưu ý rằng Nghị định 156 là một văn bản luật do Chính phủ ban hành, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam. Như thế, cho dù có thể NHNN đã được trao thêm nhiệm vụ và quyền hạn mới, về bản chất nó vẫn là một cơ quan trực thuộc của Chính phủ, do Chính phủ lập ra và bị chi phối hầu như trên mọi mặt.
Đối với việc độc lập về mục tiêu, Nghị định 156 không đề cập đến việc NHNN được quyền độc lập quyết định mục tiêu chính sách của mình (ví dụ, có thể là mục tiêu về lạm phát, cung tiền, và tỷ giá). Điều này có thể được minh họa rõ nét hơn ở nhiệm vụ “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ” mà Nghị định 156 quy định cho NHNN. Nếu chỉ dừng lại ở quyền hạn “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ”, rõ ràng NHNN vẫn chưa thể coi là đã có sự độc lập với Chính phủ nói riêng và giới chính trị nói chung. Việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm đương nhiên là việc của NHNN, với tư cách là một bộ chủ quản ngành, chứ không thể giao cho một cơ quan bộ nào khác. Bởi vậy, bản thân việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát không phải là một điều mới mẻ, cho thấy một sự chuyển biến căn bản gì ở đây cả.

Thêm nữa, giả thiết rằng chỉ tiêu lạm phát của NHNN, tuy theo tính toán của NHNN là cần thiết để đảm bảo lạm phát thấp, lại bị Chính phủ coi là “không phù hợp” (với ai, vì cái gì đó). Lúc đó, Chính phủ hoàn toàn có thể phủ quyết chỉ tiêu lạm phát này, buộc NHNN phải trình ra một chỉ tiêu nào đó theo ý đồ của Chính phủ thì mới được chấp nhận. Nói cách khác, việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát và việc chỉ tiêu đó được phê duyệt bởi Chính phủ là 2 chuyện có thể hoàn toàn khác nhau, và rốt cuộc, để “xuôi chèo mát mái” thì rất có thể NHNN phải nhượng bộ hoàn toàn trước yêu cầu của Chính phủ trong việc kiểm soát lạm phát.
Về độc lập trong hoạt động, thông thường NHTW có sự độc lập trong việc quyết định cách thức nào là tối ưu để đạt được các mục tiêu chính sách của mình, bao gồm loại hình công cụ chính sách và thời điểm sử dụng chúng. Về điểm này, Nghị định 156 cũng trao NHNN quyền sử dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm: Tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng điều này tự thân không cho biết rằng NHNN từ nay sẽ có quyền độc lập trong việc hoạch định mục tiêu (của chính sách tiền tệ quốc gia), khi, ví dụ, mục tiêu lạm phát bị Chính phủ thay đổi và buộc NHNN phải có hành động chính sách tương ứng để đạt được mục tiêu lạm phát mới.

Và cuối cùng là độc lập về quản lý, theo đó NHTW có sự độc lập trong điều hành hoạt động của mình, bao gồm bổ nhiệm nhân sự, lập ngân sách hoạt động v.v... mà không có sự can thiệp mạnh mẽ của Chính phủ. Nhưng trong trường hợp của NHNN, Nghị định 156 lại có những quy định rất rõ ràng liên quan đến công tác điều hành hoạt động của NHNN, ví dụ, bộ máy và nhân sự của NHNN.
Tóm lại, điểm qua những loại hình độc lập của NHTW thì có thể kết luận NHNN theo Nghị định 156 vẫn chỉ là một cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ và không có sự độc lập như của nhiều NHTW trên thế giới về bản chất như dư luận nhìn nhận. Sự mới mẻ có chăng là sự gia tăng thêm một số nhiệm vụ và quyền hạn cho NHNN.

Thursday 14 November 2013

Quản lý giá: Không phải cứ muốn “bình” là “ổn” (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 14/11/2013, bản gốc)

Thị trường đã nhiều phen chứng kiến một số mặt hàng nào đó lên cơn sốt giá. Những mặt hàng này bao gồm đủ loại, từ những thứ thiết yếu như mớ rau, cân thịt lợn, hộp sữa cái đinh, lá tôn lợp đến những thứ cao cấp và giá trị hơn nhiều như vàng, ngoại tệ.

Một trong những phản ứng chính sách thường thấy là cơ quan chủ quả (thuộc Bộ Tài chính, và/hoặc các bộ quản lý ngành chức năng), nói một cách nôm na, dùng mệnh lệnh hành chính cấm người cung những mặt hàng này trên thị trường tăng giá, tại thời điểm hiện tại. Những biện pháp quản lý giá cụ thể trong những trường hợp này là buộc người bán theo giá niêm yết, giá quy định; đưa (một số) những mặt hàng này vào diện hàng hóa được bình ổn về giá; thanh tra, điều tra, phát hiện và xử phạt những ai vi phạm các quy định về giá cả đã đăng ký và/hoặc trong diện được bình ổn; khi muốn tăng giá phải giải trình với cơ quan chủ quản và không được tăng liên tục trong vòng một thời gian nào đó v.v...

Vụ việc lùm xùm mới đây nhất là chuyện giá sữa trẻ em dưới 6 tuổi liên tục tăng trong thời gian ngắn (mà không vì lý do gì!?). Nguyên nhân cuối cùng được cho té ra là do các mặt hàng sữa trước đây đã bị thay tên đổi họ thành sản phẩm dinh dưỡng theo quy định của Bộ Y tế, và, do đó, “thoát” bị nằm trong danh mục hàng hóa phải bình ổn giá do Bộ Tài chính quản lý.

Và như một giải pháp xử lý để giá sữa trẻ em không tăng nữa, người ta đã nhanh chóng đưa sữa trẻ em vào lại danh mục hàng hóa phải bình ổn giá của Bộ Tài chính. Và rồi dư luận thở phào một cái, với những tờ báo giật tít lớn đại loại giá sữa từ này hết “cửa” tăng với hành động chính sách này! Tìm ra nguyên nhân và xử lý vấn đề xem ra thật rõ ràng và đơn giản.

Thế nhưng, có thể nhìn thấy trước tương lai tiếp tục bất ổn của những mặt hàng thuộc diện bình ổn giá nói chung và của sữa nói riêng. Có không ít những mặt hàng thuộc diện bình ổn mà giá của chúng nhiều khi và ở nhiều nơi còn cao hơn cả ngoài thị trường. Có nhiều mặt hàng bình ổn mà lượng cung như muối bỏ bể và tiểu thương đổ xô đến để mua rồi bán lại với giá cao hơn, để rồi rốt cuộc giá tăng vẫn cứ tăng. Có nhiều mặt hàng mà giá niêm yết một đằng, bán một nẻo mà người mua vẫn cứ phải lẳng lặng chấp nhận và móc túi trả tiền vì nhiều chiêu lách luật của người bán mà nếu có phát hiện thì cơ quan chủ quản chẳng thể làm gì, và người mua thấy chỗ nào cũng vậy v.v... Trong khi đó, có nhiều mặt hàng mà để giá của chúng được bình ổn, hàng loạt ưu đãi tài chính phải được đưa ra để rồi phí tổn liên quan đến bình ổn trở nên phi lý và tạo động cơ cho những hành động trục lợi của những doanh nghiệp tham gia bình ổn.

Mấu chốt của vấn đề, rất tiếc, lại rất đơn giản. Do cung và cầu chênh lệch nhau, chính xác hơn, cung nhỏ hơn cầu. Để khắc phục quy luật cơ bản này của thị trường, người ta phải tăng cung và/hoặc giảm cầu, và/hoặc bù giá. Tăng cung có thể bằng cách tăng sản xuất trong nước, tăng/nới lỏng điều kiện nhập khẩu. Giảm cầu có thể bằng cách “bóp mồm bóp miệng”, hoặc tìm loại hàng hóa thay thế được. Bù giá là lấy ngân sách nhà nước ra để bù vào phần chênh lệch giữa giá do thị trường quyết định và mức giá mà nhà nước thấy có thể chấp nhận được, làm cho tất cả nhu cầu hiện tại vẫn được thỏa mãn. Cứ dựa vào những yếu tố này sẽ thấy có nhiều vấn đề liên quan đến giá đã bị bỏ qua ở Việt Nam.

Cụ thể với mặt hàng sữa, việc tăng cung xem ra không phải là vấn đề khi, theo một số báo cáo, có tới hơn 200 nhà nhập khẩu sữa vào Việt Nam, chưa kể nguồn cung từ “hàng xách tay”. Sản xuất trong nước dường như không bị chịu một cơn sốc nào, vẫn không ngừng tiếp tục tăng trưởng, khó mà tạo thành cơn sốt giá đột ngột. Nhưng có điều, vẫn chưa thấy có phân tích nào, kể cả từ cơ quan chức năng, chỉ ra rằng chi phí và giá nhập khẩu sữa, và nguyên vật liệu vào Việt Nam để sản xuất sữa, có tăng lên không. Thay vào đó, một ví dụ cụ thể, cái mà người ta vẫn hay viện dẫn ra là một cái bảng giá sữa nhập khẩu vào Việt Nam của nhiều hãng sữa chỉ bằng một phần của giá bán hiện tại trong nước, để rồi kết luận rằng giá sữa tăng lên ở Việt Nam là vô lý. Nhưng phân tích theo kiểu này là vô nghĩa vì người ta không chỉ ra rằng giá nhập khẩu đó đã có thay đổi hay không so với trước khi các hãng sữa tăng giá. Nếu quả thật đã có sự thay đổi (tăng lên) thì đương nhiên giá sữa trong nước cũng phải thay đổi (tăng lên), bất chấp chênh lệch giá trong nước và giá nhập khẩu là bao lần. (Chuyện chênh lệch này lại thuộc một chủ đề khác).

Về phía cầu, cũng có một vài yếu tố bị bỏ qua. Chẳng hạn, người ta không chịu xem xét xem trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch về lượng và cơ cấu của cầu về sữa làm thay đổi giá sữa hay không. Từ ngoài nhìn vào, có thể chỉ ra ngay một yếu tố có thể đã có ảnh hưởng đến cầu về sữa ở Việt Nam. Đó là việc mua vét sữa của dân Trung Quốc xảy ra trên phạm vi toàn cầu, từ Âu sang Mỹ xuống Úc và New Zealand rồi lên Á do người dân Trung Quốc lo ngại với chất lượng sữa sản xuất trong nước họ. Với nhu cầu mua vét khổng lồ này, việc tăng giá sữa trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam, nếu có, là điều không khó hiểu và bất ngờ. Ngược lại, việc Trung Quốc vơ vét sữa “ngoại” thế này đương nhiên cũng đẩy giá sữa và nguyên liệu sữa nhập khẩu lên, làm giá sữa sản xuất ở Việt Nam cũng phải tăng lên (xét về phía cung).

Về việc bù giá. Một khi cung cầu đã có biến động theo hướng bất cân đối như vậy thì giá sẽ chịu áp lực tăng lên. Để mọi người tiêu dùng vẫn tiếp cận được mức giá không đổi thì nhà nước phải bù giá. Nhưng ở Việt Nam hình như cho đến nay vẫn chưa nghe thấy chuyện ngân sách đã bỏ ra từng này đồng hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu sữa hoặc nhập khẩu nguyên liệu sữa để sản xuất sữa với giá bán rẻ hơn so với không có hỗ trợ. Và cũng chưa nghe thấy chuyện nhà nước trợ cấp mỗi hộp sữa cụ thể là từng này đồng để người mua chỉ phải bỏ ra một số tiền không đổi so với trước cho cùng một hộp sữa. Chuyện thiếu vắng sự hỗ trợ và bù giá thế này xem ra vẫn tiếp tục trong thời gian tới. Ở đây ta chưa nói đến quy mô hỗ trợ cần thiết để đảm bảo mọi nhu cầu được thỏa mãn tại mức giá hiện tại (không tăng) và những tổn hại to lớn đi kèm với việc hỗ trợ, mà vì thế mà nhiều nước đang có trợ giá cho mặt hàng nào đó (xăng dầu, lương thực, thực phẩm v.v...) đã và đang phải cân nhắc thu hẹp hoặc xóa bỏ tài trợ do ngân sách của họ không thể kham nổi.

Tóm lại, việc quản lý giá hàng hóa nói chung và giá sữa nói riêng đang có nhiều bất ổn, từ chuyện phân tích và tìm ra nguyên nhân, cách tư duy và biện pháp xử lý, công cụ xử lý, năng lực và nguồn lực xử lý, và kể cả việc giám sát công tác xử lý. Bởi vậy, có thể thấy trước (và thực tế cũng cho thấy vậy) rằng giá cả các mặt hàng được bình ổn sẽ tiếp tục bất ổn và/hoặc đi kèm với những tổn thất lớn cho ngân sách.


Thursday 7 November 2013

Khi chính sách tiền tệ gánh chính sách tài khóa (Bài trên TBKTSG, số ngày 7/11/2013, bản gốc)

Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) vốn là 2 chính sách kinh tế vĩ mô độc lập và được chịu trách nhiệm bởi 2 cơ quan chủ quản khác biệt, Ngân hàng Trung ương (NHTW) và Bộ Tài chính.

Về chức năng, NHTW thông qua CSTT để điều chỉnh cung tiền để đạt được một mức lãi suất phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế và ổn định. Trong số những mục tiêu theo đuổi chính thống thường có mục tiêu ổn định giá cả và thất nghiệp thấp. Còn CSTK là việc Chính phủ sử dụng tiền thu về ngân sách (trong đó có thuế) để chi tiêu và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế. 2 công cụ chính của CSTK là thay đổi mức độ và cấu thành của thuế và chi tiêu của Chính phủ vào các ngành và lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Sự độc lập của NHTW với Bộ Tài chính nói riêng và rộng hơn là với Chính phủ và cả giới chính trị nói chung là điều cần thiết để NHTW có thể theo đuổi chính sách có tác động tích cực lên tăng trưởng và ổn định kinh tế trong dài hạn. Nếu không được độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung thì NHTW dễ tạo ra những cơn trồi sụt của nền kinh tế trong ngắn hạn bắt đầu bằng CSTT nới lỏng quá mức thông qua áp lực của giới chính trị đặc biệt trước thời điểm bầu cử nhằm “ghi điểm” với cử tri.

Điều đáng nói ở Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước ( NHNN)  không có tư cách độc lập với Chính phủ. CSTT vì thế cũng bị sự chi phối các định hướng điều hành chung của Chính phủ. Bởi vậy, ở Việt Nam, CSTT nhiều lúc đã phải đảm đương cả vai trò của CSTK mỗi khi Chính phủ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách lớn mà “không tiện” giải trình để xin Quốc hội cho nới lỏng trần thâm hụt, như đang chứng kiến hiện nay. Có điều, vì NHNN không phải giải trình và xin phép Quốc hội trong việc nới lỏng cung tiền ở từng thời điểm để tạo ra nguồn tiền tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ nên việc CSTT phải gánh vác vai trò của CSTK thường không bị chú ý, không được biết đến và tác động tiêu cực của nó lên nền kinh tế cũng vì thế mà thường được bỏ qua, lãng quên. Sự lỏng lẻo và dễ dãi trong việc “thò tay” vào túi NHNN để lấy tiền, ngược lại, càng như một động lực khuyến khích Chính phủ lạm dụng NHNN như một bầu sữa ngân sách không bao giờ cạn để bổ khuyết cho sự bất cập về kỷ luật tài chính của mình, đặc biệt khi bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước có nhiều điểm không thuận.
Có thể liệt kê ra đây một số ví dụ về việc CSTT phải gánh vác vai trò của CSTK , hay đúng hơn là NHNN phải thay Bộ Tài chính tài trợ cho các khoản chi tiêu mà lẽ ra phải lấy từ ngân khố quốc gia để chi trả. Đó là, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, hàng loạt các hỗ trợ cho 5 lĩnh vực ưu tiên lẽ ra của chính sách tài khóa thì lại qua ngân hàng, dùng tiền của ngân hàng trung ương; tạm ứng cho ngân sách như để giải phóng mặt bằng quốc lộ 1, hay tạm ứng ngân sách đối ứng giải ngân vốn ODA, 30.000 tỷ đồng hỗ trợ vay mua nhà, rồi xử lý nợ xấu qua VAMC cũng có thể tới 100.000 tỷ đồng, hay một vài lĩnh vực khác “không thể nói ra”… đều qua Ngân hàng Nhà nước.

Riêng xử lý nợ xấu qua VAMC mà ông Nghĩa đề cập, không rõ chuyện “xử lý” này là như thế nào, nhưng nếu chi có tới 100 nghìn tỷ đồng thì có lẽ ông Nghĩa chưa tính đủ, vì lượng nợ xấu của Việt Nam hiện lên tới mấy lần con số này. Trong bối cảnh ngân sách đang thâm hụt mạnh, vượt trần cho phép, đương nhiên ngân sách chẳng thể gánh vác được khối nợ xấu lớn như vậy. Mà cho dù thâm hụt ngân sách có được phép tăng lên và Chính phủ có được phép phát hành thêm trái phiếu để tài trợ cho việc mua nợ xấu thì hành động này hoặc sẽ dẫn đến lãi suất tiền đồng tăng vọt do tiền đã bị hút vào trái phiếu, hoặc NHNN phải nới cung tiền, cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng thương mại để mua trái phiếu Chính phủ nhằm giữ lãi suất không tăng lên, dẫn đến tăng áp lực lạm phát do tăng cung tiền. Cả 2 kịch bản đều không phải là điều được mong muốn ở Việt Nam.
VAMC được ra đời với hình thức mua nợ độc đáo của nó là bằng trái phiếu đặc biệt, dùng để chiết khấu tại NHNN lấy tiền mặt được cho là một giải pháp sáng tạo của Việt Nam, khi ngân sách không phải trực tiếp chi trả cho việc mua nợ xấu. Và Thống đốc NHNN có thể đã đúng khi tuyên bố rằng: “Việc mua bán nợ của VAMC không sử dụng tiền của ngân sách”.

Tuy vậy, việc các ngân hàng thương mại mang trái phiếu đặc biệt của VAMC đến chiết khấu tại NHNN để lấy dù chỉ là 70% giá trị nợ xấu đã bán cho VAMC thì cũng vẫn có nghĩa là có nhiều trăm nghìn tỷ đồng vẫn sẽ phải được NHNN in ra và chảy vào nền kinh tế. Mà như vậy thì tác hại của nó lên kinh tế vĩ mô (cụ thể là lạm phát) cũng sẽ tương tự như việc phát hành trái phiếu Chính phủ để mua nợ xấu và được “hỗ trợ” bằng thanh khoản của, bằng cung tiền từ NHNN.
Như vậy, có thể thấy, việc thành lập VAMC và phát hành trái phiếu đặc biệt của nó nói riêng và nhiều khoản mục khác trong chi tiêu của Chính phủ được tài trợ bởi tiền từ NHNN nói chung là một hình thức lách luật của Chính phủ nhưng rốt cuộc hậu quả tiêu cực của hành động này lên nền kinh tế lại không thể tránh khỏi. Nếu làm nghiêm ngặt và thống kê đầy đủ thì thâm hụt ngân sách lẽ ra đã và sẽ phải ở mức lớn hơn như đã biết nhiều. Bởi vậy, những câu phát biểu kiểu như “ngân sách không tốn một đồng” chẳng hề có chút giá trị chút nào ngoài việc xoa dịu và đánh lạc hướng dư luận.

Và dẫu có muộn, cũng đã đến lúc hoạt động của NHNN phải được độc lập với Chính phủ, và hoạt động của nó phải chịu sự theo dõi sát sao của Quốc hội. Bằng không, sự tồn tại của NHNN cũng chỉ như là một cánh tay nối dài của Kho bạc Nhà nước.

Wednesday 6 November 2013

"Hay, dở đều do Ngân hàng Nhà nước" (Bài trả lời phỏng vấn, tiêu đề do báo đặt)

 
 
PV: Nhiều ý kiến cho rằng điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng giữ cho lạm phát năm nay ở mức thấp. Nhưng lại cũng có phản bác, rằng, Ngân hàng Nhà nước "ăn may" vì giá cả thế giới không tăng. Ông nghĩ sao?
 
TS Phan Minh Ngọc: Cái đó đúng một phần. Thêm yếu tố nữa là tổng cầu đã tăng trưởng chậm lại nên bất chấp cung tiền vần tăng khá mạnh trong 10 tháng qua nhưng lạm phát mới dừng lại như hiện nay.

Nên quả thật là Ngân hàng Nhà nước có sự may mắn ở đây, chứ không hẳn cho thấy tính hiệu quả của chính sách tiền tệ như tự nhận.

Áp lực lớn nhất của điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2014 theo ông là gì?

Đó là áp lực phải chạy theo mục tiêu tăng trưởng tín dụng, phát hành trái phiếu Chính phủ, mặt khác phải kiên định với ổn định tỷ giá.

Có người nói phát hành trái phiếu Chính phủ không làm tăng áp lực lạm phát nhưng thật ra không hẳn thế. Nếu để tăng tổng vốn đầu tư xã hội thì chính sách tiền tệ buộc phải chạy theo bằng cách cung cấp thanh khoản, vốn cho hệ thống ngân hàng để họ có tiền mua trái phiếu Chính phủ.

Rồi nữa, nhiều người sốt ruột với tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp trong năm nay nên gây áp lực tăng nó lên trong thời gian còn lại của năm và năm sau. Điều này sẽ làm tăng áp lực lạm phát ngay từ đầu năm sau.

Cuối cùng, áp lực gia tăng lạm phát (làm tiền đồng lên giá thực) một bên và áp lực phá giá để hỗ trợ xuất khẩu như Thủ tướng chỉ đạo bên khác sẽ làm cho kỳ vọng phá giá càng tăng mạnh, càng gây thêm áp lực lạm phát.

Nói gọn lại, chính sách tiền tệ năm sau sẽ phải đánh vật giữa nhiều mục tiêu trái chiều nhau, vừa ổn định kinh tế vĩ mô vừa phải cấp vốn cho Chính phủ, cho nền kinh tế để chạy theo mục tiêu tăng trưởng không kém tham vọng.

Như vậy, căn bệnh kinh niên “chính sách tài khóa lấn lướt chính sách tiền tệ” có vẻ sẽ tái phát trong năm tới?

Không phải là lấn lướt, mà chính xác hơn là ép chính sách tiền tệ phải chạy theo một cách vô tình hay hữu ý. Cũng có thể do quan niệm chưa đúng và đầy đủ của những người có trách nhiệm, rằng phát hành trái phiếu Chính phủ không làm tăng áp lực lạm phát, vì thế, cho tiện lợi, người ta cứ đề xuất và rồi được phê chuẩn.

Ngân hàng Nhà nước có thể xoay sở như thế nào trong năm tới nếu chính sách tài khóa không thắt chặt?

Tài khóa không thắt chặt có nghĩa là Chính phủ tiếp tục tăng chi tiêu và đầu tư. Sẽ không thành vấn đề nếu chỉ có duy nhất mục tiêu tăng trưởng. Nhưng sẽ thành vấn đề nếu có thêm đồng thời mục tiêu kiềm chế lạm phát. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ sẽ phải ngược hướng với chính sách tài khóa.

Hình dung cụ thể của ông về lạm phát năm tới là như thế nào trong bối cảnh này?

Phần lớn sẽ phụ thuộc vào hành động nới lỏng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Càng nới
lỏng, càng chạy theo mục tiêu tăng trưởng, theo yêu cầu cấp vốn của Chính phủ thì áp lực lạm phát càng gia tăng.

Hy vọng, triệu chứng lạm phát sẽ đến sớm trong năm và Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ sẽ phải chùn tay, siết lại chính sách tiền tệ và tài khóa của mình.

Theo ông, lãi suất năm 2014 sẽ diễn biến như thế nào?

Ngân hàng Nhà nước đã biết và xác định được cơ sở thiết lập lãi suất, đó là dựa trên lạm phát và kỳ vọng lạm phát. Bởi vậy, lãi suất năm sau sẽ phụ thuộc vào lạm phát và lạm phát kỳ vọng, đến lượt nó, lạm phát và lạm phát kỳ vọng lại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ nới lỏng đến mức độ nào.

Các quân cờ đều nằm trong tay Ngân hàng Nhà nước, hay dở thế nào đều do Ngân hàng Nhà nước thực hiện. Và sâu xa hơn là quan điểm của những lãnh đạo cấp cao hơn. Nếu họ vẫn mang tâm lý thích tăng trưởng bằng mọi giá thì Ngân hàng Nhà nước còn phải vật lộn một cách khá vô vọng với những mục tiêu mâu thuẫn, loại trừ lẫn nhau.

Nhưng sự độc lập của Ngân hàng Nhà nước, như ông biết, chỉ là tương đối?

Vì Ngân hàng Nhà nước chỉ là một cơ quan cấp bộ, không có sự độc lập về chính sách, mục tiêu hoạt động. Kết quả là nền kinh tế sẽ còn tiếp tục bị trồi sụt trong bãi lầy chính sách.

Theo ông, có cách nào để thoát khỏi bãi lầy đó?

Không thể cầu toàn và tham lam mọi chuyện được. Phải biết điểm dừng và giới hạn, tuyệt đối cần bỏ thái độ chủ quan duy ý chí. Như vậy cần theo đuổi và chấp nhận một sự tăng trưởng vừa phải, trong những phạm vi an toàn cho phép để có được sự ổn định vĩ mô tương đối nhằm tạo điều kiện cho những cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế hướng đến mục tiêu tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Cái nhìn dài hạn thay cho tâm lý ứng phó, xoay sở trong ngắn hạn là cái cần thiết, cần có ở đây hiện nay.

Xin cảm ơn ông!
Tường Vi

Tuesday 5 November 2013

Bồi bút của bác Lại Trần Mai

Hình như có lần bác Lại Trần Mai, chủ nhân của blog "Tôi thích đọc", người cũng thỉnh thoảng ghé chơi blog này, đề cập đến đồng chí phóng viên (nhà báo?) Xuân Ba của Tiền Phong, gọi đồng chí này là bồi bút thì phải.

Đọc mấy bài của đồng chí Xuân Ba, nhất là mấy bài viết về các lãnh tụ kính yêu của tớ, quả thật tớ thấy đôi lúc cũng muốn lộn mửa. Ấn tượng nhất là một bài viết của đồng chí ấy về chuyến thăm Nhật của đồng chí X kính yêu hồi mấy năm trước, có đoạn viết, đại loại mấy đồng chí CEO của các tập đoàn lớn của Nhật cứ "thập thò" ngoài cửa để mong được vào diện kiến đồng chí X.

Có lẽ nếu đồng chí Xuân Ba nói thế với mấy đồng chí quan chức của Việt Nam cứ thập thò diện kiến Bill Gate thì tớ còn tin chút chút, chứ nói mấy đồng chí Nhật, mà lại là CEO của ví dụ như Sony, Panasonic, Toyota v.v... cũng như vậy thì tớ muốn ... vào cái ... của bác Xuân Ba lắm, vì tớ nghĩ tư cách của mấy người Nhật, nhất là những nhân vật không phải tầm thường như thế này đâu có cho phép họ "thập thò", cho dù chỉ là để ngóng ý con ông trời là đồng chí X.

Hôm qua và hôm nay đọc thêm tuyệt phẩm này này của đồng chí Xuân Ba về Thống đốc Bình và NHNN mà thú thật là tớ chỉ đủ kiên nhẫn đọc được một đoạn (mà cũng không thể hiểu nổi ý của nó), tớ càng thấy cái thứ văn xôi thịt theo kiểu "thập thò", dây cà ra dây muống, thấy người sang bắt quàng làm họ, bốc thơm mang phong cách đặc trưng này.

Vỗ tay cho đồng chí Đặng Thành Tâm

Lần này tớ phải vỗ tay hoan nghênh đồng chí doanh nhân Đặng Thành Tâm khi phát biểu về Vinacomin xin miễn giảm thuế như ở bài này.

Thường tớ không mấy thiện cảm và ấn tượng với giới doanh nhân Việt Nam, nhất là khi nói gì đó về vấn đề quốc tế. Nhưng đọc phát biểu của đồng chí Đặng Thành Tâm, người từng bị tớ phang trước đây về phát biểu "hạnh họe" của đồng chí ấy với đồng chí X kính yêu của tớ trước nghị trường, tớ thấy khá phục đồng chí ấy về hiểu biết trong ngành sản xuất nhôm (nếu là trả lời phát biểu vo, không có chuẩn bị trước, không trả lời bằng giấy bút thì càng phục).

Có những đoạn viết như thế này:

"Tại vì sao không khả thi? Tôi là thành viên hội đồng cố vấn Apec cùng với ông Oleg Deripaska - ông vua nhôm lớn thế giới. Chính ông đã nói thẳng, chính bản thân ông ấy mua mỏ của nước Nga từ khi giá còn rất rẻ nhưng vẫn bị lỗ.
Nhà tỷ phú Oleg Derpaska – ông chủ Tập đoàn United Co Rusal của nước Nga buộc phải cắt giảm sản lượng vì riêng quí IV năm 2011 lỗ 974 triệu USD trong khi quí IV năm 2010 còn thu lãi 1,45 tỷ USD! Sáu tháng đầu năm 2012, lợi nhuận ròng sụt giảm tới 95,25%, doanh thu giảm 9,66% khi giá một tấn nhôm chỉ còn 1.810 USD. Chính vì thế, ông ấy rất băn khoăn chuyện Việt Nam đầu tư vào 2 dự án này."

Thực hư về quan hệ quen biết của đồng chí Tâm với đồng chí Deripaska như thế nào thì tớ không biết, nhưng cái đoạn nói về tình hình sản xuất nhôm, giá nhôm... mà đồng chí Tâm nói vanh vách, khá chính xác thì tớ phục thật. Chả là tớ cũng đã và sẽ phải làm các báo cáo thị trường kim loại định kỳ, trong đó có nhôm, nên cũng biết chút chút về chuyện này.

Và cả những đoạn khác về tình hình ngành và thị trường, về Vinacomin, là những phát biểu khá khách quan, chính xác.

Giá mà đồng chí Tâm lúc nào và ở đâu cũng minh mẫn, khách quan được thế này thì tốt thật.

Thursday 31 October 2013

Việt Nam và Vinashin

Đọc cái tin xóa bỏ "mô hình thí điểm" Vinashin này mới thấy tội nghiệp và cay đắng cho dân ta, vì ta cũng đã và đang bị biến thành chuột bạch cho các thí nghiệm các kiểu vài chục năm nay, để rồi bao xương máu, nước mắt đã phải đổ ra và tiền của đội nón ra đi để hiện thực hóa những suy nghĩ điên khùng của một bộ phận người đã và đang nắm vận mệnh đất nước và dân tộc.

Vinashin đã phải trả giá cho lỗi lầm của mình, trả giá hộ cho lỗi lầm của những kẻ khai sinh ra nó, còn dân Việt Nam đang và sẽ phải è cổ, bóp mồm, thắt đít trả giá hộ cho tất cả những lỗi lầm này, trong không chỉ một mà vài thế hệ, điều mà nhiều người giờ mới ngã ngửa ra khi được biết.

Chưa hết, dân Việt Nam vẫn đã và đang phải trả giá cho một "mô hình thí điểm" mà về quy mô thì lớn gấp ngàn lần Vinashin, đó là mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà theo đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kính yêu và thông thái thành thật tâm sự và chia sẻ: "Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa".

Đến đồng chí Trọng mà còn chưa biết thì ai biết đây? Thông thái gần bằng và nhìn xa hơn như tớ mà cũng chỉ lờ mờ cảm nhận rằng tương lai và tiền đồ của (công cuộc xây dựng) CNXH ở Việt Nam cũng mù mờ và sóng gió như, để rồi có kết cục giống của Vinashin hôm nay.

Vinashin đã đổ vỡ rồi, mô hình của nó đã phải bị xóa bỏ rồi (lời của báo Nhân dân nhé), liệu có hy vọng gì cho một khả năng tương tự như thế với mô hình CNXH mà ta đang nhắm mắt lao tới không? Và bao giờ đây? Sao các đồng chí chưa (hoặc cố tình không) tỉnh ngộ, rút kinh nghiệm từ Vinashin và thôi mang cái nước Việt khốn khổ này ra làm thí nghiệm nữa đi cho con dân được nhờ?


Áp lực lạm phát – Có hay không và đến từ đâu? (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 31/10/2013, bản gốc)

Chính phủ đang phấn đấu kiềm chế lạm phát trong các tháng còn lại của năm để đạt được mục tiêu giữ lạm phát cả năm dưới 7% năm nay, tạo đà để kiềm chế lạm phát trong năm sau xoay quanh mức này. Với lạm phát 10 tháng năm nay so cùng kỳ năm trước “mới” đạt mức 5,92%, nhiều người cho rằng mục tiêu lạm phát 7% năm nay là hoàn toàn khả thi. Mặc khác, cho dù có đạt được thì cũng cần phải thừa nhận rằng mức này vẫn là cao so với khu vực và thế giới.

Tuy vậy, với một số đề xuất và công bố về chính sách vi mô và vĩ mô mới đây, sẽ là không dễ phủ nhận sự gia tăng của áp lực lạm phát cho những tháng còn lại của năm và ít nhất là sang đến năm sau.
Nguồn gia tăng áp lực lạm phát đầu tiên phải kể đến là nguồn cung tiền từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên quan đến khoản trái phiếu chính phủ 170 nghìn tỷ đồng mà Chính phủ đang đệ trình Quốc hội phê duyệt cho phát hành thêm nhằm bổ sung nguồn vốn cho kế hoạch chi tiêu đề ra từ trước trong bối cảnh hụt thu ngân sách mạnh. Mặc dù một số đại diện của Chính phủ có giải thích rằng đây không phải là khoản tiền in thêm ra nên “người dân có thể yên tâm là sẽ không gây ra lạm phát”, nhưng điều này phải có điều kiện.

Như đã biết, tại mỗi thời điểm với một khối lượng cung tiền không đổi, khi Chính phủ phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư và chi tiêu,  hành động này sẽ hút bớt một phần vốn lẽ ra dành cho khu vực kinh tế phi nhà nước (tức khu vực kinh tế tư nhân). Lãi suất trái phiếu Chính phủ càng hấp dẫn thì lượng vốn hút vào trái phiếu càng tăng, và tức là lượng vốn còn lại dành cho khu vực tư nhân càng giảm. Cứ vậy, cho đến một lúc nào đó thì lượng vốn hút vào ngân sách sẽ đúng bằng lượng trái phiếu phát hành ra (trong trường hợp này là 170 nghìn tỷ đồng theo đề xuất của Chính phủ), và cũng đúng bằng lượng vốn chảy ra khỏi/lẽ ra dành cho khu vực tư nhân (170 nghìn tỷ đồng).
Như vậy, mục đích dùng để biện minh cho đề xuất phát hành thêm 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ là để tăng tổng đầu tư xã hội sẽ không thành hiện thực vì tổng đầu tư xã hội sau khi phát hành thêm 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu vẫn không thay đổi so với trước khi phát hành trái phiếu. Để hiện thực hóa mục đích này, cần phải có thêm một nguồn tiền mới hấp thu hết được 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu phát hành thêm, bên cạnh lượng tiền hiện có trong nền kinh tế.

Vậy nguồn tiền mới này có thể từ đâu đến? Nó có thể đến từ NHNN, thông qua việc bơm thêm thanh khoản cho các ngân hàng thương mại để họ mua trái phiếu Chính phủ. (Một phần) nguồn tiền đó cũng có thể đến từ các nhà đầu tư nước ngoài, mang ngoại tệ vào Việt Nam, đổi ra tiền đồng để mua trái phiếu, thông qua hệ thống ngân hàng trong nước. Một phần lượng trái phiếu trên cũng có thể được phát hành ra quốc tế, bằng ngoại tệ. Dù bằng nguồn nào thì rốt cuộc cung tiền (tiền đồng và ngoại tệ) trong nền kinh tế Việt Nam cũng tăng lên tương ứng, tạo thêm áp lực lạm phát, chứ không đơn giản như giải thích trấn an của Chính phủ.
Nguồn tăng áp lực lạm phát thứ hai đến từ việc chủ động phá giá tiền đồng nhằm hỗ trợ xuất khẩu, do tiền đồng đã lên giá mạnh, như tuyên bố của Thủ tướng. Mặc dù mức độ phá giá có thể là nhỏ (2% đến cuối năm), nhưng việc này cũng tạo ra thêm áp lực lạm phát (nhập khẩu) một thời gian đầu khi mới phá giá, nhất là khi việc phá giá tạo ra cơn sốc tâm lý mà Chính phủ không kiểm soát được, đẩy áp lực lạm phát nhập khẩu lên cao quá mức.

Cần lưu ý rằng hành động phát hành thêm trái phiếu với thanh khoản tăng thêm từ NHNN sẽ tạo điều kiện cho thị trường kỳ vọng lạm phát sẽ gia tăng, từ đó làm tiền đồng càng lên giá thực so với đô la Mỹ, càng tạo bất lợi cho xuất khẩu, và tức là càng tạo thêm áp lực phá giá hơn nữa tiền đồng, có thể quá mức mục tiêu 2% như tuyên bố của Chính phủ. Đến lượt nó, việc phá giá tiền đồng mạnh hơn sẽ càng tăng áp lực lạm phát, theo một vòng xoáy trôn ốc.
Nguồn tăng áp lực lạm phát thứ ba đến từ chính NHNN, trong một nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đạt mức 12% như đã đặt ra ban đầu. Cho đến tháng 10 này, tăng trưởng tín dụng mới đạt trên 6%, thấp xa so với con số mục tiêu trên. Nếu NHNN phải biến mục tiêu này thành hiện thực thì sẽ không khó hiểu khi thấy một lượng thanh khoản lớn sẽ tiếp tục đổ vào hệ thống ngân hàng, bên cạnh lượng tài khoản giúp cho các ngân hàng mua 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ nói trên. Đương nhiên, lúc đó áp lực lạm phát đến từ gia tăng tổng cầu do tăng cung tiền sẽ phải tăng lên mạnh.

Ngoài ra, một số biện pháp hành chính đang và sẽ được thực thi như không cho một doanh nghiệp/ngành nào đó tăng giá sản phẩm và dịch vụ (điện lực, xăng dầu, giáo dục, y tế...) có thể sẽ có hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát trong thời gian cấm tăng giá. Nhưng cũng có thể dễ dàng thấy khi được “buông” thì giá của chúng sẽ được tăng “bù” và thậm chí còn tăng nhiều hơn, như thực tế đã cho thấy.
Với những nguồn trên, và nếu mọi kế hoạch và đề xuất đều được thực hiện ráo riết, có thể nói rằng áp lực gia tăng lạm phát sẽ rất lớn, và, do đó, mục tiêu giữ lạm phát như đã đề ra cho năm nay và cả năm sau sẽ trở nên bất khả thi, chứ không đơn giản như người ta nghĩ.

(Bổ sung: Tớ viết vội quá nên ẩu. Đoạn về phá giá và kỳ vọng lạm phát lẽ ra nên để ở sau yếu tố thứ ba, vì hành động thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cũng làm tăng kỳ vọng lạm phát và do đó kỳ vọng phá giá hơn nữa do VND tiếp tục lên giá thực mạnh so với USD).

Friday 25 October 2013

Sao cứ phải nâng bội chi ngân sách? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=296367

08:28 | 26/10/2013
 
Thay vì nâng trần thâm hụt ngân sách để tăng nợ công, điều cần làm là phải thắt chặt kỷ luật thu chi ngân sách, đồng thời xây dựng các mục tiêu, kế hoạch mang tính thực tiễn, khoa học hơn, và quan trọng hơn, không buộc chúng phải đạt được bằng mọi giá, bất chấp hoàn cảnh khách quan và chủ quan.
Nguồn: vef.vn
Chính phủ đang trình Quốc hội nâng trần thâm hụt ngân sách để phát hành bổ sung 170.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014 - 2016. Lý do xin phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ, theo giải trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, là: bổ sung nguồn lực đầu tư toàn xã hội và thúc đẩy đầu tư các thành phần kinh tế khác; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa Việt Nam thành nước công nghiệp vào năm 2020; tái cơ cấu nền kinh tế, nhất là tái đầu tư công, huy động vốn đầu tư xã hội (gồm ODA); bổ sung nguồn để thực hiện các dự án đầu tư bằng trái phiếu Chính phủ dang dở.
 
Tuy nhiên, lý do sâu xa, nói ngắn gọn, là do giảm thu trong khi chi ngân sách vẫn tăng, dẫn đến khả năng thâm hụt ngân sách lớn hơn dự kiến, và tình hình này có thể kéo dài sang một vài năm sau trong bối cảnh kinh tế trong (và ngoài) nước đã và sẽ tiếp tục có nhiều bất ổn. Vậy, lẽ ra biện pháp chủ đạo cần phải làm trước tiên, trước khi xem xét và phê chuẩn chấp nhận cho Chính phủ tăng trần thâm hụt và phát hành thêm trái phiếu Chính phủ, là cắt giảm chi tối đa, nhất là các khoản chi lãng phí, không hiệu quả, đồng thời tăng cường thu tối đa từ các nguồn hiện có và các nguồn có thể bổ sung.
 
Biện pháp trên thoạt nghe tưởng chừng quá hiển nhiên, ai cũng nói được, cũng biết được, và cũng... làm được (và đã làm được). Nhưng xem xét lại báo cáo giải trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách mới thấy thực ra tình hình thực tế hoàn toàn không phải vậy.
 
Về thu ngân sách, báo cáo thẩm tra đã chỉ ra được một loạt những khoản thất thu, những bất cập trong công tác thu ngân sách, ví dụ như thất thoát và gian lận thuế, những khoản để ngoài ngân sách..., và kết luận rằng vẫn còn dư địa tăng thu. Về chi ngân sách, báo cáo thẩm tra cũng xác định được một loạt bất cập. Ví dụ, trong khi thu NSNN giảm nhiều, chi đầu tư phát triển vẫn tăng; phân bổ, bố trí vốn xây dựng cơ bản chưa khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, thi công kéo dài, gây lãng phí nguồn lực; vẫn còn nhiều dự án triển khai chậm tiến độ, phân bổ vốn không đúng cơ cấu, chương trình hỗ trợ được giao; còn tình trạng một số cơ quan, đơn vị thiếu kiên quyết trong cắt, giảm đầu tư công; khởi công dự án mới trái quy định; một số chính sách, chế độ hỗ trợ cho các địa phương còn bất cập...
 
Trong bối cảnh trên, không khó hiểu tại sao bội chi lại có khả năng tăng mạnh so với mục tiêu kế hoạch đặt ra ban đầu. Lẽ ra Chính phủ phải tập trung khắc phục những bất cập này, còn Quốc hội cần phải nghiêm khắc hơn với Chính phủ về kỷ luật tài chính thay vì thông qua kế hoạch tăng bội chi của Chính phủ. Nếu thực hiện nghiêm túc quá trình thực hiện và giám sát thực hiện kỷ luật tài chính của cả Chính phủ và Quốc hội thì chắc chắn thâm hụt ngân sách không lớn như hiện tại và dự toán cho năm nay và những năm sau như trong các báo cáo của Chính phủ và Quốc hội, và hoàn toàn có khả năng không cần thiết phải nâng trần thâm hụt và nợ công. Còn nếu cứ để mọi việc trôi theo đề xuất của Chính phủ như hiện nay thì bội chi ngân sách khó có khả năng cải thiện trong những năm sau, nếu không muốn nói là sẽ tệ hơn, vì bao giờ Chính phủ cũng có những lý do nghe rất xác đáng (như hiện tại) để biện minh cho sự không hoàn thành nhiệm vụ của mình.
 
Biện pháp thứ hai cần làm là xem xét lại và thay đổi toàn bộ quy trình lập, trình và phê chuẩn các kế hoạch, mục tiêu phát triển KT - XH của Chính phủ và Quốc hội. Bản thân Quốc hội cũng (nên) nhận ra rằng các con số kế hoạch mục tiêu không gắn bó chặt chẽ với nhau và bản thân các con số đó được đưa ra chủ yếu bởi cảm tính, định tính (dựa theo các năm trước, theo nghị quyết, hoặc cảm thấy cần phải ở mức đó thì mới là hợp lý v.v...). Và kể cả có một cơ sở nào đó khi đưa ra những kế hoạch này nhưng đôi khi chúng sẽ thành mục tiêu ảo, đơn giản vì hoàn cảnh kinh tế (trong và ngoài nước) lúc đó đã thay đổi, không đúng như dự tính ban đầu. Lúc đó, nếu cứ khăng khăng phải đạt được mục tiêu kế hoạch thì hoặc là duy ý chí, hoặc là có hại nhiều hơn lợi.
 
Hãy lấy một ví dụ minh họa. Tăng trưởng năm nay ước đạt 5,4%, so với mức 5% của năm trước. Nhưng người ta sẽ giải thích làm sao khi tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng đầu tư trên GDP năm nay lại giảm rất mạnh so với năm trước? Nghịch lý gì chăng? Không phải vậy. Nếu loại trừ khả năng các con số thống kê này là tạo dựng, thì đơn giản là chẳng có mối quan hệ rõ ràng và ổn định nào như kiểu, ví dụ, tăng trưởng tín dụng và đầu tư phải là x% để GDP tăng được y%. Trên nghĩa này, xin đừng “quyết tâm” với “quyết liệt” và “phấn đấu” để đạt được một con số mục tiêu vô căn cứ, duy ý chí nào đó, chẳng hạn tăng trưởng GDP phải là 6%,  hoặc tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP phải là 30%, hoặc tăng trưởng tín dụng phải là 12%, hoặc thâm hụt ngân sách phải là 5,3% GDP... bằng mọi giá để rồi nền kinh tế phải trả giá trong trung và dài hạn, vì sự những sự quyết tâm, quyết liệt và phấn đấu này không được dựa vào, không tuân theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường.
 
Tóm lại, thay vì nâng trần thâm hụt ngân sách để tăng nợ công, điều cần làm là phải thắt chặt kỷ luật thu chi ngân sách, đồng thời xây dựng các mục tiêu kế hoạch mang tính thực tiễn hơn, khoa học hơn, và quan trọng hơn, không buộc chúng phải đạt được bằng mọi giá, bất chấp hoàn cảnh khách quan và chủ quan.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).