Sunday 28 March 2021

Những cú lội ngược dòng lãi suất (Bài đăng trên TBKTSG, 26/3/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/314830/nhung-cu-loi-nguoc-dong-lai-suat.html

Đại dịch Covid-19 nổ ra, đẩy nhiều nước vào tình cảnh tăng trưởng âm. Giải pháp đối phó tiêu chuẩn là tung ra các gói chi tiêu, kích thích kinh tế vô tiền khoáng hậu để chống Covid-19, bảo vệ việc làm và thu nhập cho người dân. Nói như nhà Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới Carmen Reinhart thì chúng ta nên lo để chiến thắng Covid-19 trước đã, sau đó mới nên lo chuyện trả giá thế nào (cho cuộc chiến này).

Quả thật, trong năm 2020 đã có rất nhiều nước trên thế giới đi theo hướng này. Nguồn tài trợ cho các gói này chủ yếu là từ tiền in ra bởi ngân hàng trung ương nước sở tại. Kết cục là tăng trưởng có nhúc nhắc phục hồi nhưng lạm phát thì cũng đã có dấu hiệu tăng trở lại, và tăng mạnh ở một số nước.

Ngân hàng trung ương những nước này đứng trước tình thế lưỡng nan: Nếu ngừng mua trái phiếu kho bạc và/hoặc nâng lãi suất cơ bản để chặn đà tăng của lạm phát thì tăng trưởng đang trên đà hồi phục sẽ bị phanh gấp, nghèo đói và bất ổn xã hội sẽ tiếp tục gia tăng; nhưng nếu quyết định “sống chung” với lạm phát thì áp lực lạm phát tiếp tục tích tụ đến một mức nào đó cũng sẽ gây những đổ vỡ cho nền kinh tế và xã hội, kéo tụt tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm.

Nhưng chỉ trong mấy ngày liên tiếp gần đây, từ 17-3 đến 19-3, đã có ba nước là Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nga lội ngược dòng tăng mạnh lãi suất cơ bản, bất chấp đà hồi phục kinh tế còn mong manh. Điểm chung của ba nước này là lạm phát đã tăng tốc lên mức cao, và đồng bản tệ suy yếu đáng kể so với đô la Mỹ, đặc biệt từ khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ đã tăng mạnh từ đầu năm đến nay.Như vậy, chọn cái nào trong số hai lựa chọn này sẽ là một quyết định có tính phân hóa cao trong số các nước có cùng hoàn cảnh, chủ yếu là các nước đang phát triển. Bên cạnh một số ít nước tiếp tục hạ lãi suất cơ bản như Romania, Mexico và Indonesia, chủ yếu với lý do là lạm phát trong mấy tháng đầu năm 2021 vẫn đang ở mức thấp trong khi nền kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi vững chắc, đa phần các nước sẽ cố gắng duy trì chính sách nới lỏng và các gói kích thích của mình có từ năm trước với hy vọng rằng lạm phát, nếu có, chỉ là tạm thời trong bối cảnh phục hồi kinh tế vẫn chưa vững chắc, và lạm phát vẫn trong phạm vi mục tiêu đề ra - tuy mục tiêu này có thể cũng đã được điều chỉnh cao lên (các nước màu xanh da trời trong hình dưới đây).

Ở Brazil, lạm phát năm đã lên tới 5,2% vào tháng 2-2021, là mức cao nhất trong bốn năm qua, vượt quá mức mục tiêu cho năm nay là 3,75%. Trong khi đó, đồng real đã mất giá 7% so với đô la Mỹ từ đầu năm đến nay. Ngân hàng Trung ương Brazil ngày 17-3 đã tăng mạnh lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm lên 2,75%, và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng lên 3,5% vào tháng 5 tới.

Thổ Nhĩ Kỳ ngày 18-3 đã tăng lãi suất cho vay tái chiết khấu kỳ hạn một tuần từ 17% lên 19%, cao hơn 1 điểm phần trăm so với mức dự đoán của thị trường. Lạm phát đã tăng vọt lên 15,6% vào tháng 2-2021 và 15% trong tháng 1-2021. Đồng lira của nước này đã mất giá hơn 8% so với đô la Mỹ từ giữa tháng 2. Ngân hàng trung ương nước này cho biết việc tăng mạnh lãi suất cơ bản là một động thái đi trước và thắt chặt mạnh mẽ thêm (chính sách tiền tệ).

Trong khi đó, ngày 19-3, Nga tăng thêm 0,25 điểm phần trăm lãi suất cơ bản, lên 4,5% trong một động thái gây ngạc nhiên với thị trường. Bối cảnh tăng lãi suất là lạm phát năm tăng lên 5,8% vào ngày 15-3, là mức tăng nhanh nhất trong bốn năm qua. Tỷ giá rúp/đô la Mỹ giảm thêm 4% tính từ đầu tháng 2. Ngân hàng trung ương nước này cho biết họ định tăng mạnh hơn nhưng sau đó quyết định sẽ tăng lãi suất từ từ, và thêm rằng: “Nếu trì hoãn tăng lãi suất thì lạm phát sẽ tăng tốc và kỳ vọng lạm phát sẽ không giảm đi. Điều này sẽ làm tăng hơn nữa lạm phát so với mục tiêu và sẽ cần phải tăng mạnh lãi suất hơn trong tương lai”. Như vậy, cũng có thể nói đây là một hành động đi trước mang tính phòng ngừa.

Nhưng có một số người lại không tin, không muốn nghĩ như vậy. Trong trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ, hai ngày sau khi tăng lãi suất, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Naci Agbal đã bị Tổng thống Recep Tayyip Erdogan bất ngờ bãi nhiệm. Đây là vị thống đốc thứ ba bị thay thế bởi ông Erdogan trong vòng chưa đến hai năm. Thay ông này là ông Sahap Kavcioglu, một giáo sư về ngân hàng, là người chỉ trích mạnh mẽ chính sách tăng lãi suất trong khi các nước khác có lãi suất âm.Điều rút ra được từ việc lội ngược dòng tăng lãi suất trên, cũng như từ lý thuyết, là để kiềm chế lạm phát (có xu hướng tăng cao, chệch khỏi mục tiêu) và ổn định bản tệ thì sẽ gần như chẳng có giải pháp mang tính thị trường nào ngoài tăng lãi suất dù biết rằng những điều chỉnh chính sách này là điều rất không mong muốn khi nền kinh tế đang vật lộn với hậu quả của đại dịch. Nói cách khác, dù lựa chọn nào cũng đau đớn nhưng lạm phát vẫn là một nỗi sợ hãi lớn hơn đối với một số nước. Thậm chí những nước đã tăng lãi suất gần đây còn là những nước chủ động tăng lãi suất mang tính phòng ngừa bởi lo sợ rằng nếu không tăng sớm và tăng mạnh thì thậm chí phải tăng lãi suất mạnh hơn nữa trong tương lai.

Ông Kavcioglu cũng là một đồ đệ của trường phái lý thuyết phi chính thống như Tổng thống Erdogan, tin rằng nâng lãi suất sẽ làm tăng lạm phát vì làm tăng chi phí vay mượn và, do đó, là chi phí sản xuất, kinh doanh. Để bảo vệ tỷ giá, ông chủ trương dùng dự trữ ngoại hối, như đã thực hiện từ năm 2018-2020.

Do dự trữ ngoại hối đã giảm mạnh bởi quy mô can thiệp lên tới hơn 100 tỉ đô la Mỹ chỉ riêng năm 2020 nên nếu ông Kavcioglu quay lại với chính sách cũ - hạ lãi suất - thì, theo các nhà phân tích, nước này sẽ phải thực thi một loạt chính sách phi thị trường để đối phó với các hậu quả của việc hạ lãi suất. 

Monday 22 March 2021

Tiền số với chủ quyền quốc gia (Bài đăng trên TBKTSG, 21/3/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/314618/tien-so-voi-chu-quyen-quoc-gia.html

Một số nước hiện nay đang nghiên cứu hoặc đã phát hành đồng tiền số ngân hàng trung ương (viết tắt là CBDC) của mình. Đồng Sand Dollar của quốc đảo Bahamas là đồng tiền CBDC đầu tiên trên thế giới được đưa vào lưu thông.

Trung Quốc thì đang tích cực triển khai thí điểm đồng nhân dân tệ số để kịp sử dụng rộng rãi trong dịp Olympic mùa đông 2022. Thụy Điển có thể là nước tiếp theo triển khai tiền số. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Nhật tuy chưa có kế hoạch cụ thể nào về CBDC nhưng đã nhận định rằng nhu cầu CBDC của dân chúng có thể tăng vọt. Còn ở Mỹ thì Bộ trưởng Tài chính Yellen cho rằng đồng đô la số là “rất đáng để xem xét”.

Điều đáng nói, vì là tiền số nên CBDC hoàn toàn có thể được sử dụng cho các giao dịch ngoài biên giới quốc gia, với trung gian là ngân hàng trung ương của các nước có CBDC tương ứng được người dân nắm giữ, chứ không phải là qua các ngân hàng thương mại như truyền thống.Với xu hướng gia tăng về sự quan tâm cũng như số lượng đồng tiền số đã và sẽ được phát hành, phổ cập rộng rãi trên thế giới, đến một ngày không xa - có khả năng là vào cuối thập niên này, người ta sẽ chứng kiến một hiện thực là trong ví điện tử được cài đặt trên điện thoại thông minh của mỗi người dân sẽ cùng lúc chứa vài loại CBDC khác nhau.

Do dễ dàng trong sử dụng và lưu thông nên CBDC hoàn toàn có thể thay thế đồng tiền quốc gia, đặc biệt khi đồng nội tệ chưa được số hóa. Điều này đặt ra một vấn đề thách thức với chủ quyền quốc gia tương tự như nạn đô la hóa nền kinh tế nội địa, thậm chí ở mức độ lớn hơn và quy mô rộng hơn do tính ưu việt và sự thuận tiện của tiền số.

Một phản ứng chính sách dễ dãi để bảo vệ nội tệ, bảo vệ chủ quyền tiền tệ sẽ là sự cấm đoán người dân sử dụng CBDC của các nước khác, cũng như mọi loại tiền mã hóa, tiền ảo... trong thanh toán.

Tuy nhiên, đối tượng giao dịch bằng các CBDC của người dân trong nước là các ngân hàng trung ương thế giới. Ngân hàng trung ương nước sở tại không có quyền và cách thức gì can thiệp và chế tài như họ làm với hệ thống ngân hàng thương mại nội địa gồm cả chi nhánh/ngân hàng con của ngân hàng thương mại nước ngoài.

Do vậy, dù có bị cấm đoán thì CBDC vẫn hoàn toàn có thể được sử dụng trong nước một cách dễ dàng mà khó có thể bị kiểm soát, theo dấu bởi cơ quan chức năng nước sở tại.

Thay vì cấm đoán, điều mà ngân hàng trung ương sở tại có thể làm để bảo vệ chủ quyền tiền tệ của mình một cách hữu hiệu hơn là: một mặt, phát hành CBDC riêng của mình để theo kịp trào lưu thế giới; mặt khác, ngân hàng trung ương sở tại cần làm cho CBDC của mình trở nên hấp dẫn hơn, có tính cạnh tranh với các CBDC khác, và kể cả các loại tiền mã hóa khác do các chủ thể phi nhà nước phát hành như Diem của Facebook - một loại tiền số có giá trị ổn định (stablecoin) do được gắn giá trị với các loại tiền tệ chủ chốt trên thế giới.

Để tăng tính hấp dẫn cho CBDC, ngân hàng trung ương cần đảm bảo khả năng xử lý số lượng giao dịch lớn một cách nhanh chóng nhất, chi phí thấp nhất, và thông suốt trong toàn hệ thống. Ngoài ra, ngân hàng trung ương cũng cần đảm bảo với người sử dụng về tính riêng tư trong các giao dịch hàng ngày.

Một trong những thách thức chính cho ngân hàng trung ương trong nỗ lực làm cho CBDC của mình trở nên hấp dẫn và cạnh tranh hơn là việc lựa chọn đúng công nghệ. Chất lượng và khả năng xử lý của các loại điện thoại thông minh là khác nhau nên nếu công nghệ được lựa chọn không phù hợp thì sẽ mất đi một số lượng người sử dụng nhất định, đồng nghĩa với việc loại bỏ họ ra khỏi cuộc chơi tiền số. Điều này cũng có nghĩa là hạn chế việc phổ cập và đạt được sự ưa thích đối với CBDC của quốc gia trong dân chúng.

Thách thức thứ hai là chi phí giao dịch. Với những giao dịch giá trị nhỏ, chúng sẽ khó có thể được thực hiện thành công nếu chi phí cần có liên quan đến năng lực tính toán trong xử lý và xác nhận giao dịch trong hệ thống phi tập trung trở nên quá cao.

Một thách thức khác cho việc phổ biến và bảo vệ tiền số quốc gia đến từ sự cạnh tranh của các hệ thống thanh toán do các chủ thể phi nhà nước sở hữu như PayPal, Venmo và Stripe. Trước thách thức mang lại từ CBDC (do giao dịch bằng CBDC diễn ra trực tiếp với ngân hàng trung ương mà không cần trung gian là các hệ thống này), các hệ thống thanh toán này cũng tự vệ bằng cách chấp nhận và tích hợp CBDC vào hệ thống của mình. Điều này càng làm cho việc sử dụng CBDC của nước ngoài trong lãnh thổ quốc gia trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.

Trước những xu hướng tất yếu và thách thức như trên, ngân hàng trung ương các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển cần thay đổi nhận thức, chuyển vị thế của mình từ một “ông chủ tiền tệ” sang thành một “nhà cung cấp dịch vụ” với hy vọng người dân trong nước sẽ chấp nhận và yêu thích đồng nội tệ số quốc gia.

Saturday 20 March 2021

Cái gì cũng tăng, thị trường chứng khoán rồi sẽ ra sao? (Bài đăng trên CafeF, 20/3/2021)

https://cafef.vn/cai-gi-cung-tang-thi-truong-chung-khoan-roi-se-ra-sao-20210320085657855.chn

Lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm vào ngày 18/3 đã tăng vọt lên 1,75%, mức cao nhất trong hơn một năm qua kể từ tháng1/2020 sau khi Fed cho thấy sẵn sàng để lạm phát tăng cao ở một số thời điểm và tiếp tục lặp lại cam kết sẽ không tăng lãi suất cho đến hết năm 2023, tiếp tục mua trái phiếu ở quy mô 120 tỷ USD/tháng. Fed cũng đồng thời nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Mỹ lên 6,5% trong năm nay, cao hơn so với dự báo trước đó của họ.

Theo phân tích của TS. Phan Minh Ngọc, chuyên gia đang làm việc trong lĩnh vực tài chính tại Singapore, lợi suất tăng là do sự góp mặt cùng lúc của hai yếu tố: Triển vọng phục hồi kinh tế sáng sủa theo đà tiêm chủng vaccine Covid cũng như gói kích thích chi tiêu khổng lồ 1,9 nghìn tỷ USD mà Mỹ mới thông qua, và kỳ vọng lạm phát tăng cao, vốn đi kèm với tăng trưởng kinh tế nhanh, bên cạnh cam kết tiếp tục mua trái phiếu Kho bạc để giữ lãi suất cận 0 của Fed .

Nhưng tại sao tăng trưởng và lạm phát cao lại đẩy lợi suất trái phiếu lên thưa ông?

TS. Phan Minh Ngọc: Lý do rất đơn giản. Khi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn thì nhà đầu tư có ít nhu cầu nắm giữ trái phiếu Kho bạc hơn, dẫn đến giá bán trái phiếu giảm, cũng tức là lợi suất của trái phiếu tăng lên. Và khi (kỳ vọng) lạm phát tăng, giá cả hàng hóa nói chung sẽ tăng theo, làm cho thu nhập từ trái phiếu trong tương lai sẽ nhỏ đi về giá trị và, do đó, làm giảm giá trái phiếu, đẩy lợi tức trái phiếu lên cao.

Với những diễn biến hiện tại, có thể nói nền kinh tế Mỹ đang bước vào ngưỡng cửa của một giai đoạn tăng trưởng nóng – tăng trưởng bứt tốc và lạm phát cũng vậy – ít nhất 3 năm nữa. 

Vậy chúng ta sẽ nhìn thấy trước được điều gì sẽ xảy ra trên thị trường chứng khoán Mỹ trong ba năm tới đây?

Đầu tiên là lợi suất, lãi suất sẽ cao hơn nữa. Mức lợi suất 1,75% hôm 18/3 vẫn thấp xa so với mức 2,6% đạt được hai năm trước đây, và 5% vào 2 thập kỷ trước. Đáng nói hơn nữa là tốc độ tăng của lợi suất này. Nó đã tăng từ 1% lên 1,75% trong vòng có vài tuần. Hai điều này kèm với chuyện Fed không có ý định chấm dứt sớm nới lỏng định lượng đến tận 2023 dẫn đến nhiều khả năng là lợi suất (và lãi suất) ở Mỹ có thể sẽ tăng lên quá 2% trong năm nay, nhưng khó quay trở lại mức 5% trong lịch sử.

Tiếp theo là sự phân hóa trên thị trường chứng khoán. Nhìn chung, trên lý thuyết, khi lợi suất tăng, thị trường chứng khoán sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, bởi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảm đạm hơn do sẽ phải vay mượn với lãi suất cao hơn. Trong khi đó, nhà đầu tư cũng có xu hướng chuyển sang nắm giữ trái phiếu nhiều hơn một cách tương đối so với trước do tính hấp dẫn của trái phiếu tăng lên.

Trên thực tế, tác động của lợi suất tăng sẽ không như nhau đối với mọi loại cổ phiếu. Khi định giá một cổ phiếu nào đó, nhà đầu tư sẽ nhìn vào (triển vọng) của hai yếu tố: doanh nghiệp mục tiêu sẽ làm ra bao tiền trong tương lai; và cần trả bao nhiêu cho một đồng thu nhập doanh nghiệp đó làm ra trong tương lai. Khi lãi suất thấp và trái phiếu Kho bạc chỉ mang lại thu nhập không đáng kể cho nhà đầu tư, như hơn một năm trước đây, nhà đầu tư sẽ sẵn sàng trả nhiều hơn cho yếu tố thứ hai này.

Ngược lại, khi lãi suất tăng, nhà đầu tư phải đo đếm cẩn thận giữa số tiền cần bỏ ra để đổi lấy một đồng thu nhập tăng lên của doanh nghiệp trong tương lai. Lúc đó, thị trường sẽ bị phân hóa mạnh, với những cổ phiếu có chỉ số P/E quá cao so với thị trường và so với đối thủ, và những cổ phiếu mà giá được hình thành dựa trên kỳ vọng lợi nhuận đến từ quá xa trong tương lai v.v... sẽ là những cổ phiếu bị tác động (mất giá) mạnh nhất. Các cổ phiếu công nghệ thuộc loại này, và điều này giải thích tại sao chỉ số Nasdaq, bị chi phối bởi các cổ phiếu công nghệ, lại sụt giảm hôm 18/3 khi lợi suất tăng mạnh.

Tương tự, các cổ phiếu mà thu nhập cho nhà đầu tư đến chủ yếu từ cổ tức cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi một phần nhà đầu tư chuyển sang nắm giữ trái phiếu vốn an toàn hơn (và nay cho lợi suất cao hơn trước đó). Đồng thời, khi lãi suất tăng, người tiêu dùng nào vốn phải dựa nhiều vào vay mượn (tiêu bằng thẻ tín dụng, mua trả góp v.v...) sẽ phải cắt giảm tiêu dùng để tránh phải trả lãi cao. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tất cả các công ty dựa vào sức tiêu dùng của người dân.

Ông dự báo thế nào về khả năng tăng của giá chứng khoán?

Dù lãi suất được kỳ vọng chỉ ở mức trên 2% năm nay nhưng thế cũng là đủ để các thị trường chứng khoán Mỹ tiếp tục biến động và phân hóa, nhất là khi nhiều cổ phiếu đã đạt đỉnh lịch sử gần đây. Tuy vậy, thị trường chứng khoán vẫn còn cơ hội tiếp tục tăng giá, bởi nhiều nhà đầu tư (vẫn) đồng ý với Fed và tin rằng áp lực lạm phát tăng như hiện nay chỉ là tạm thời (do nhiều yếu tố như thị trường lao động cần nhiều thời gian để phục hồi bền vững, kéo theo tổng cầu tăng, đẩy lạm phát lên). Nếu đúng vậy thì lãi suất sẽ không tăng quá mạnh đến mức nguy hiểm.

Nhiều nhà đầu tư cũng hy vọng sau một năm bầm dập bởi dịch bệnh, lợi nhuận của các doanh nghiệp sẽ bật tăng năm nay, trở lại mức bình thường trước dịch. Nếu thu nhập mang lại tăng đủ lớn thì cổ phiếu có thêm cơ hội để ổn định, thậm chí tiếp tục tăng giá.

Trong số những đối tượng hưởng lợi từ lãi suất (và tăng trưởng) tăng phải kể đến trước tiên là các công ty tài chính, nhất là ngân hàng, bởi lãi suất tăng sẽ làm tăng biên độ lợi nhuận trong các khoản cho vay từ tiêu dùng đến bất động sản. Ngoài ra, nếu lãi suất tăng bởi lo ngại lạm phát thì các công ty năng lượng cũng sẽ được hưởng lợi nếu giá dầu thô và các hàng hóa khác cũng tăng.

Những diễn biến đó trên thị trường thế giới hàm ý gì cho Việt Nam thưa chuyên gia?

Mỹ không sợ lạm phát. Mỹ tiếp tục in tiền và tăng chi tiêu. Kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng mạnh trong ít nhất là hai năm tới. Những điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ có thêm động lực tăng trưởng đến chủ yếu từ xuất khẩu gia tăng sang Mỹ. Đồng thời, lạm phát ở Việt Nam chắc chắn sẽ chịu áp lực gia tăng nếu các yếu tố khác không thay đổi. Lưu ý rằng cùng với đà phục hồi kinh tế của thế giới và Mỹ, giá hàng hóa thế giới đã tăng mạnh trở lại, như được thể hiện qua chỉ số giá hàng hóa quốc tế Commodity Price Index đạt mức cao nhất trong vòng hơn 6 năm qua vào tháng 2/2021.

Do Ngân hàng Nhà nước có nhiều khả năng sẽ thận trọng với việc xiết lại chính sách tiền tệ trong năm nay, bức tranh kinh tế trong ngắn hạn ở Việt Nam sẽ có một số nét tương đồng với của Mỹ như nói ở trên. Lãi suất trúng thầu trái phiếu Kho bạc Nhà nước (lợi suất) kỳ hạn 10 năm cũng bắt đầu tăng trở lại từ cuối tháng 1, lên đến 2,25% ngày 17/3. Một số ngân hàng thương mại cũng đã điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi. Lạm phát thì đã tăng mạnh hồi tháng 2.

Trong bối cảnh cả tăng trưởng kinh tế và áp lực/kỳ vọng lạm phát đều tăng, triển vọng thị trường chứng khoán Việt Nam, vốn đã phá đỉnh lịch sử mới đây, còn tăng được nữa hay không phụ thuộc trước hết vào biến số lạm phát trong các tháng tới. Nếu đó là một xu hướng tăng vững chắc, kéo theo tăng lãi suất thì dư địa tăng sẽ co lại. Nhưng điều này không có nghĩa là các cơ hội đầu tư sẽ ít đi, bởi thị trường sẽ phân hóa mạnh và tưởng thưởng cho ai nắm đúng thời điểm các cổ phiếu sẽ hưởng lợi do lãi suất tăng.

Thursday 18 March 2021

Những thắc mắc về đề án phát triển DNNN quy mô lớn (Bài đăng trên TBKTSG, 18/3/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/314601/nhung-thac-mac-ve-de-an-phat-trien-dnnn-quy-mo-lon.html

Mới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì cuộc họp về dự thảo đề án phát triển doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quy mô lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho các cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Theo đề xuất, sẽ có bảy doanh nghiệp như vậy, trong đó có ba doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao (Viettel, VNPT, MobiFone), hai doanh nghiệp thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo (Tập đoàn Điện lực EVN và Tập đoàn Dầu khí PVN), một doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cảng biển và logistics là Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, và Vietcombank thuộc lĩnh vực tài chính – ngân hàng.

Tiêu chí để lựa chọn là tổng tài sản sản trên 20.000 tỷ đồng, thị phần từ 30% trở lên, bảo đảm các quy định về cạnh tranh; ROE (lợi nhuận trên vốn) lớn hơn 6, được quản trị tốt trên cơ sở nguyên tắc OECD… Các tiêu chí để xác định ngành, lĩnh vực để nghiên cứu thí điểm cơ chế, chính sách phù hợp là: Có tính chất mở đường, dẫn dắt; hướng tới làm chủ công nghệ số; có vai trò cần thiết trong phát triển, định hướng công nghiệp; cần thiết duy trì sự hiện diện của Nhà nước...

Công nghệ cao là thông tin, viễn thông?

Việc chọn tới ba doanh nghiệp thông tin viễn thông là Viettel, VNPT và MobiFone và gọi đó là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao có gì đó gượng ép và không ổn thỏa. Không lẽ công nghệ cao chỉ là thông tin viễn thông? Thắc mắc cách khác, không lẽ Việt Nam không còn doanh nghiệp nào, không nên phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao nào ngoài thông tin viễn thông?

Dù có cho rằng ngành thông tin viễn thông liên quan đến những thứ thời thượng như công nghệ số, trí tuệ nhân tạo... nhưng rõ ràng ngành công nghệ cao không chỉ giới hạn ở thông tin viễn thông, kể cả những công nghệ “lõi” của chúng. Hay tại Việt Nam chưa có DNNN nào có thị phần đủ lớn (trên 30%) trong các ngành công nghệ cao ngoài thông tin viễn thông nên không được đưa vào đề án?

Thị phần 30% hay thấp hơn cũng được?

Nếu đúng là tuy có doanh nghiệp nào đó trong lĩnh vực công nghệ cao ngoài thông tin viễn thông nhưng không được chọn đưa vào trong đề án vì thị phần nhỏ hơn 30% thì tại sao từng doanh nghiệp đơn lẻ, có thị phần trong ngành chúng hoạt động chắc chắn nhỏ hơn 30% như Vietcombank và kể cả ba doanh nghiệp thông tin viễn thông trên lại được chọn?

Hay tiêu chí thị phần thực ra chỉ là có thì tốt mà không thì cũng không sao? 

Một hay nhiều hơn thì tốt?

Trong ngành được xác định là công nghệ cao có tới ba doanh nghiệp được chọn. Còn trong ngành được gọi là năng lượng tái tạo có hai doanh nghiệp (EVN và PVN). Xét tiêu chí “có tính chất mở đường, dẫn dắt”, vốn bình thường được hiểu là vai trò của chỉ một đối tượng (người/doanh nghiệp), tại sao lại phải chọn hơn một doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực? Nhỡ doanh nghiệp này kéo tụt doanh nghiệp kia xuống để “ngoi” lên thì sao? Hoặc nhỡ như rắn có hai đầu, biết đi đường nào cho đúng?

Nếu nói một doanh nghiệp thì sẽ không đủ năng lực để bao trọn cả ngành nên cần hơn một doanh nghiệp mới đủ sức làm vậy, thì tại sao trong các lĩnh vực khác ít nhất như ngân hàng lại chỉ có duy nhất một doanh nghiệp là Vietcombank được chọn, trong khi nếu xét về tiềm lực được đo lường qua vốn, thị phần, tăng trưởng... thì dù là lớn nhưng nó cũng chỉ chiếm một góc trong ngành, bên cạnh các ngân hàng có vốn nhà nước khác cũng thỏa mãn các tiêu chí như tổng tài sản lớn hơn 20.000 tỷ đồng và ROE trên 6...?

Hơn nữa, nếu nói phải có trên một doanh nghiệp trong cùng ngành để tăng cường sức cạnh tranh, vậy sao phải chọn và ưu tiên DNNN (lớn) mà không mở rộng cửa thị trường và khuyến khích cạnh tranh hơn nữa giữa các thành phần, theo định hướng phát triển của Nhà nước với các ưu đãi chính sách cho tất cả doanh nghiệp trong cùng ngành thuộc các thành phần kinh tế?

Đổi mới quản lý (vẫn) sẽ đảm bảo được định hướng?

Dự thảo đề xuất nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách theo hướng đổi mới quản lý của chủ sở hữu, tạo điều kiện cho DNNN được hoạt động bình đẳng, chủ động và cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Nhà nước quản lý theo mục tiêu: giao quyền chủ động, tự quyết trong sản xuất kinh doanh, đầu tư cho doanh nghiệp… Kiểm tra, giám sát theo hướng đánh giá hiệu quả hoạt động/đầu tư theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án/hoạt động cụ thể.

Nếu DNNN được tự do cạnh tranh, tự do theo đuổi các mục tiêu trong sản xuất kinh doanh (không bị kiểm tra giám sát theo từng dự án cụ thể) thì điều gì làm cho (hoặc cần phải làm thế nào để) các DNNN được lựa chọn đưa vào đề án (vẫn) sẽ bám sát định hướng phát triển ngành của Nhà nước như ý định ban đầu trong dự thảo đề án mà không, thay vào đó, theo đuổi các dự án sản xuất kinh doanh tuy “lạc đề” nhưng cho lợi nhuận cao? Xin lưu ý rằng đề án đề xuất Nhà nước chỉ quản lý theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, tức là nói nôm na doanh nghiệp chỉ cần báo lãi dày là tốt, là được chấp nhận.

Nếu đánh đồng các dự án sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nhà nước là những dự án sẽ có lợi nhuận cao thì lý do gì mà phải chọn ra những DNNN tốt nhất để “đi đầu” với cả “dẫn dắt”, nhất là phải dùng đến ưu đãi của Nhà nước? Bởi doanh nghiệp tư nhân nếu thấy có lợi nhuận cao thì sẽ nhảy vào làm mà chẳng cần đến ưu đãi của cũng như sự vận động, kêu gọi của Nhà nước.

Có thực sự là hoạt động “bình đẳng”?

Như trên đã nêu, DNNN được lựa chọn trong đề án sẽ hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Nhưng đề án cũng “trao quyền hoặc giao nhiệm vụ cho một số DNNN để  phát triển các hạ tầng nền tảng...”

Việc lựa chọn để trao quyền hoặc giao nhiệm vụ này, ví dụ trao cho doanh nghiệp X quyền/nhiệm vụ triển khai dịch vụ Y và, do đó, được sử dụng băng tần Z (mà không phải qua đấu giá...) tự thân nó đã chẳng phải là một sự thiên vị, phân biệt đối xử không chỉ với các doanh nghiệp phi nhà nước mà còn với chính DNNN khác hay sao? Thêm nữa, đề án còn đề xuất thành lập Quỹ phát triển công nghệ cho Viettel. Vậy hai DNNN cũng được giao vai trò “dẫn dắt” trong ngành công nghệ cao khác là MobiFone và VNPT thì sao lại không được hưởng đặc ân này?     

Tóm lại, nếu trả lời một cách nghiêm túc những thắc mắc trên (trong số nhiều thắc mắc khác không được đưa ra trong bài viết này do hạn chế độ dài) thì sẽ thấy có vấn đề lớn về tiêu chí lựa chọn (ngành, doanh nghiệp), cách thức triển khai (chính sách ưu đãi, chính sách quản lý), và trên hết là mục đích tại sao lại phải chọn ra một số DNNN để “dẫn dắt”, “mở đường” trong các ngành mục tiêu đề ra.   


Saturday 13 March 2021

Những câu hỏi cần trả lời trước khi xuống tiền đầu tư (Bài đăng trên CafeF, 11/3/2021)

https://cafef.vn/nhung-cau-hoi-can-tra-loi-truoc-khi-xuong-tien-dau-tu-20210311085256477.chn

    Dường như ai cũng có nhu cầu đầu tư làm giàu nhưng không phải ai cũng biết đầu tư thế nào cho tối ưu nên thường hay hỏi nhau câu hỏi căn bản “đầu tư vào đâu?”. Cũng sẽ có người trả lời câu hỏi này cho bạn, nhưng trừ khi họ là chuyên gia cố vấn đầu tư của riêng bạn thì may ra mới có câu trả lời hữu ích, phù hợp với hoàn cảnh riêng của bạn.


    Với số đông còn lại trong đó có bạn, câu hỏi đầu tư vào đâu này phải được tự trả lời bởi chính mình. Nhưng để đi đến được câu trả lời tối thượng đó, bạn phải trả lời được một số câu hỏi tiền đề khác.

    Trước tiên, bạn có bao tiền? Hay hỏi cách khác, nguồn tiền bạn có trong tay lúc này (kể cả huy động đâu đó) là bao nhiêu?

    Giả sử bạn có một vài trăm triệu đồng, và đó là tất cả mà bạn có thể xoay xở để có được vào lúc này. Vậy thì "đầu tư vào đâu?" đã phần nào có câu trả lời. Bạn sẽ không thể đầu tư vào bất động sản hay các tài sản có giá trị lớn vượt quá số tiền của mình, dù có chuyên gia nào đó chọn lựa ra bất động sản/tài sản lớn này là kênh đầu tư tiềm năng nhất.

    Tất nhiên, nếu bạn là nhà đầu tư hay có kinh nghiệm đầu tư bất động sản kỳ cựu thì bạn vẫn có thể đầu tư kiểu "tay không bắt giặc" (ví dụ, đặt cọc rồi tìm cách bán chênh) nhưng rõ ràng nếu bạn đã giỏi, đã có khả năng (và cả may mắn) như vậy thì vấn đề đầu tư vào đâu không dành/cần cho bạn nữa.

    Như vậy, thậm chí trước khi xác định bạn có bao tiền, cần phải xác định bạn là nhà đầu tư amateur hay "pờ rồ"/có kinh nghiệm (trong một lĩnh vực đầu tư nào đó). Ở đây xin chỉ bàn đến trường hợp bạn là nhà đầu tư amateur, vì nếu đã pờ rồ rồi thì tập trung vào lĩnh vực bạn hiểu biết rõ có lẽ sẽ có hiệu quả hơn/nhất.

    Câu hỏi tiếp theo cần trả lời trước khi quyết định đầu tư là, mục đích đầu tư là gì? Hiển nhiên nhiều người sẽ trả lời là muốn có lợi nhuận nhiều nhất. Nhưng cũng sẽ có nhiều người do đã nghe, biết, hoặc trải nghiệm thực tế là "lợi nhuận cao thì rủi ro cao" nên chọn lợi nhuận vừa phải, chẳng hạn như trên mức tiền gửi tiết kiệm, nhưng phải an toàn gần như tiền gửi tiết kiệm.

    Vậy, tùy theo câu trả lời của chính mình, bạn sẽ biết mình phải đầu tư vào đâu. Chẳng hạn, rõ ràng là với mục tiêu vừa an toàn, vừa có lợi nhuận "kha khá" thì bạn không thể, không nên đầu tư vào vàng hay tiền ảo v.v... Trong trường hợp này, bạn có thể cân nhắc đầu tư vào, ví dụ, các loại cổ phiếu quỹ hay các bluechip, dù xin luôn ghi nhớ rằng không có gì đảm bảo chắc chắn mức lợi nhuận đem lại sẽ lớn hơn so với gửi tiết kiệm.

    Liên quan đến vấn đề trên, và là câu hỏi thứ ba, bạn định đầu tư trong bao lâu (thời gian hiện thực hóa lợi nhuận)? Tất nhiên, điều này lại liên quan đến số tiền bạn có là có trong bao lâu. Nếu bạn định đem vài trăm triệu mình có để "lướt sóng" một tài sản nào đó để một tuần sau sẽ "chốt lãi" (một phần vì tài sản của mình cũng chỉ "rỗi rãi" có một tuần) và lãi phải lớn thì càng rõ ràng rằng bạn không thể đầu tư vào bất động sản hay những tài sản có tính thanh khoản kém (tất nhiên là vẫn trừ trường hợp bạn là pở rồ như nói trên). Lúc này, bạn có thể cân nhắc đến đầu tư vào nhiều tài sản còn lại như vàng hay tiền ảo hay những loại chứng khoán có tính đầu cơ cao, giá biến động mạnh, thậm chí là đem cho vay "nóng". Nhưng cũng xin nhắc lại là nếu bạn có mục đích đầu tư này thì xin hãy bỏ qua một bên chữ "an toàn".

    Ngược lại, nếu số tiền hiện có của bạn thực sự là rỗi rãi, và không có thời hạn hay áp lực phải trả lại, kiểu như tiền tiết kiệm khi về hưu. Kết hợp với mục đích đầu tư an toàn trong dài hạn thì bạn nên đầu tư vào những tài sản vừa đủ an toàn mà vẫn cho lợi nhuận kha khá như gửi tiết kiệm, mua trái phiếu (Chính phủ) dài hạn, hoặc các cổ phiếu giá trị.

    Chữ "tiết kiệm" đã được nhắc đến vài lần ở đoạn trên, và trên thực tế cũng được nhiều chuyên gia khuyến nghị trên báo chí, như một kênh đầu tư an toàn mà vẫn sinh lời kha khá. Nhưng thực ra điều đó không luôn đúng, và nhiều người chắc cũng không quên những trải nghiệm của mình khi gửi tiền trị giá một con trâu mà sau này chỉ còn mua được bát phở.

    Nói vậy để dẫn dắt bạn đến một câu hỏi quan trọng thứ tư mà bạn cần trả lời trước khi đầu tư là, tình hình trong lĩnh vực định đầu tư sẽ ra sao? Chẳng hạn, cũng là mục tiêu đầu tư vào tiền gửi ngân hàng, nhưng bạn có hai lựa chọn, gửi bằng tiền đồng và bằng ngoại tệ (USD). Gửi tiết kiệm tiền đồng cho bạn lãi suất chừng 7%/năm, còn USD thì lãi suất 0% trên danh nghĩa. Đương nhiên chắc không chỉ bạn mà nhiều người sẽ chọn gửi tiền đồng do lãi danh nghĩa cao hơn. Tuy nhiên, do tìm hiểu kỹ hoặc nghe chuyên gia nhận định, bạn tin rằng lạm phát có xu hướng tăng lên trong vòng một năm tới, trong khi diễn biến thế giới sẽ làm cho USD tăng giá đáng kể so với tiền đồng. Kết hợp với thực tế rằng gửi USD trong ngân hàng vẫn có cách không phải là bất hợp pháp để có thực lãi dương, bạn có thể sẽ muốn đầu tư vào gửi USD ở ngân hàng thay vì gửi bằng tiền đồng, nhất là khi nguồn tiền của bạn chỉ rỗi rãi trong ngắn hạn và, do đó, chỉ được hưởng lãi suất thấp nếu gửi tiết kiệm vào ngân hàng với kỳ hạn ngắn.

    Nhưng nếu bạn cứ nhất định chờ ai đó trả lời hộ, khẳng định được với bạn rằng gửi tiết kiệm bằng USD sẽ thực sự lãi hơn gửi tiền đồng hay không (hay bất cứ tài sản nào khác) thì e rằng bạn thà tung đồng xu xấp ngửa để có câu trả lời. Bởi ngay cả chuyên gia nếu có trả lời câu hỏi này cũng phải dựa trên một loạt giả định mà trên thực tế có xảy ra hay không lại nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Chẳng hạn, tại thời điểm hiện tại, chuyện lãi suất USD ở Mỹ sẽ tăng (là điều sẽ làm USD tăng giá so với tiền đồng) hay không vẫn còn chưa rõ, phụ thuộc vào Fed. Mà ngay bản thân Fed thì chắc cũng chưa rõ có phải sớm tăng lãi suất hay không, qua cách họ trả lời thị trường! Nói vậy để bạn thấy rủi ro đằng sau lời khuyến cáo của ai đó rằng nên/không nên đầu tư vào một tài sản nào đó vào lúc này.

    Tóm lại, chỉ có mình bạn mới biết phải đầu tư vào đâu, phù hợp với hoàn cảnh của mình. Nếu có tham vấn, hỏi, nghe ý kiến của ai đó thì chỉ nên dùng chúng như dữ liệu đầu vào cho bài toán phân tích của mình. Nếu kết quả đầu tư không được như ý muốn thì hãy tự an ủi rằng những nhà đầu tư pờ rồ cũng không luôn thắng được thị trường!



    Wednesday 10 March 2021

    Cách ly với thế giới làm cho giá vàng ngày càng ảo (Bài đăng trên TBKTSG, 11/3/2021)

    https://www.thesaigontimes.vn/314381/cach-ly-voi-the-gioi-lam-cho-gia-vang-ngay-cang-ao.html

    Sáng 5/2, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới tiếp tục xu hướng nới rộng trong thời gian qua, lên mức kỷ lục 8,7 triệu đồng, cao nhất từ trước đến nay.

    Do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từ nhiều năm nay không cấp giấy phép vàng nhập khẩu vàng nguyên liệu cũng như ngừng đấu thầu vàng miếng để tăng cung cho thị trường nên nguồn cung vàng trong nước chủ yếu đến từ việc mua đi bán lại. Trong khi đó, nhu cầu nắm giữ vàng của người dân không ngừng tăng lên (điều này ít nhất là đúng với nhu cầu vàng trang sức bởi dân số tăng). Ngoài ra, cầu về vàng còn tăng lên bởi nhu cầu đầu cơ vàng với tư cách là một tài sản đầu tư/đầu cơ và/hoặc phòng ngừa rủi ro, đặc biệt khi nền kinh tế có sự biến động lớn bởi những yếu tố trong và ngoài nước.

    Với sự bất cân đối cung cầu như vậy thì giá vàng trong nước đương nhiên sẽ có xu hướng ngày càng thoát ly, vận động độc lập một các tương đối với giá vàng thế giới theo thời gian. Điều này được minh chứng bởi “kỷ lục” chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới liên tục bị xô đổ thời gian qua, từ một vài trăm nghìn vài năm trước đây lên dần lên đến 8,7 triệu đồng như hôm 5/2 và chắc sẽ còn bị xô đổ tiếp trong thời gian không xa tới.

    Còn nhớ tuyên bố của NHNN từ nhiều năm về trước rằng nếu giá vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế khoảng 400.000 đồng/lượng là có dấu hiệu đầu cơ, làm giá v.v... Và nay so sánh chênh lệch ngày càng tăng giữa giá vàng trong nước-thế giới thời gian qua với tiêu chuẩn này, cũng như trồi sụt mạnh của giá vàng trong nước thì có thể thấy tuyên bố mới đây của NHNN rằng “tại thị trường trong nước, giá vàng trong những năm qua không còn nhảy múa, không ảnh hưởng đến giá hàng hoá và tỉ giá“ không còn hoàn toàn đúng nữa. Lưu ý thêm rằng, viện lý do này NHNN đã kiên định với chính sách quản lý vàng của mình được thể hiện qua Nghị định 24.

    Câu hỏi đặt ra ở đây là nếu NHNN kiên định không cho nhập khẩu vàng, làm cho giá vàng trong nước ngày càng ly khai (và cao hơn) giá vàng thế giới thì điều gì sẽ xảy ra, và hậu quả nào cho nền kinh tế?

    Trước tiên, hãy hình dung vàng trong nước như Bitcoin. Hai tài sản này có sự tương đồng ở chỗ nguồn cung ngày càng hạn hẹp còn nhu cầu thì có xu hướng gia tăng. Với Bitcoin, tổng số Bitcoin có thể đào được là 21 triệu đồng. Hiện số Bitcoin còn lại có thể đào là dăm bảy triệu đồng gì đó nhưng độ khó và chi phí đào ngày càng tăng lên, làm cho “giá thành” đồng tiền ảo này cũng không ngừng tăng lên. Dẫu vậy, người ta vẫn tiếp tục đào Bitcoin bất chấp hóa đơn tiền điện ngày càng tăng chóng mặt chừng nào mà giá Bitcoin vẫn leo thang và đứng ở mức cao như hiện nay. Đây chính là nguyên nhân mà một số nơi như ở Trung Quốc đã phải cấm đào Bitcoin vì quá tốn điện (để đổi lấy tài sản “ảo”).

    Tương tự như vậy là thị trường vàng trong nước. Do NHNN kiên quyết không cho nhập khẩu vàng nguyên liệu từ thế giới có giá thành rẻ hơn, nguồn cung vàng gia tăng chỉ có thể đến từ việc khai thác/đào vàng trong các mỏ vàng trong nước, tất nhiên ngoài nguồn... nhập lậu! Nhưng nguồn cung từ các mỏ vàng trong nước cũng rất hạn chế, với dự trữ và sản lượng ngày càng nhỏ và chi phí khai thác ngày càng tăng lên tính trên một đơn vị vàng vật chất được khai thác/đào ra.

    Như vậy, tác động/hậu quả đầu tiên là sự phân bổ ngày càng lệch lạc và lãng phí một nguồn lực xã hội vào khai thác cùng một loại tài sản “ảo” như Bitcoin hoặc vàng vốn được dùng nhiều cho mục đích đầu cơ, đầu tư và phòng ngừa rủi ro. Nói cách khác, nếu thị trường vàng trong nước tiếp tục bị đóng cửa với thế giới thì các nguồn lực hữu hạn trong nền kinh tế sẽ tiếp tục bị kéo ra khỏi khu vực sản xuất thiết yếu để đổ một cách lãng phí vào ngành đào vàng phục vụ các nhu cầu ảo không mong muốn, trong bối cảnh nguồn nhập khẩu với chi phí rẻ hơn thì bị cấm.

    Tác động thứ hai của sự cách lý giá vàng trong nước và thế giới cũng là một sự lãng phí ở dưới dạng thức khác. Như đã đề cập, ngoài nguồn cung do đào vàng trong nước, nhập lậu vàng cũng là một nguồn cung khác cho thị trường vàng trong nước. Ngoài chuyện tốn USD để nhập khẩu vàng, vốn là điều bình thường, điều bất bình thường ở đây là, do phải nhập lậu nên đương nhiên số USD cần bỏ ra để chuyển lậu và đưa cùng một lượng vàng vật chất về nước chót lọt qua bao nhiêu “cửa” sẽ phải tăng vọt lên so với nhập khẩu chính ngạch/hợp pháp.

    Như vậy, một nguồn lực hữu hạn khác của nền kinh tế lại phải bỏ ra một cách lãng phí để đáp ứng cùng một nhu cầu về vàng của người dân trong nước. Nói cách khác, tưởng rằng sẽ là tốt khi cấm nhập khẩu vàng vì không phải tốn USD để nhập khẩu nhưng rốt cuộc một lượng USD đáng kể vẫn sẽ chảy ra nước ngoài bằng cách này hay cách khác. Trong khi đó, nếu để thị trường vàng trong nước liên thông với thế giới thì nhà chức trách hoàn toàn có thể dùng vàng trong nước để chuyển đổi ra USD khi cần tăng nguồn cung USD trong nước, và ngược lại, một cách dễ dàng. Xin đừng quên rằng vàng cũng là USD, cần phải dùng USD để mua vàng thì, ngược lại, cũng có thể dùng vàng để mua lại USD “trong một nốt nhạc”, nên nguồn lực ngoại hối chẳng hao hụt đi đâu cả để phải lo sợ rằng nhập khẩu vàng sẽ chảy máu USD.

    Tác động thứ ba là sự ly khai với thế giới làm cho vàng trong nước trở thành một tài sản “ảo”, tăng giá kiểu bong bóng và xẹp xuống bất chừng không theo một nguyên tắc, quy luật có thể đoán định, lý giải  nào cả. Kèm theo đó là rủi ro đổ vỡ trong hệ thống tài chính, ngân hàng và cả nền kinh tế cùng một cách như các thị trường khác (chứng khoán, bất động sản...) gây ra khi chúng xì hơi.

    Có điều lạ là cơ quan chức năng thường rất tích cực ra cảnh báo mỗi khi có (dấu hiệu) một cơn sốt tài sản ảo/thật nào đó nhưng dường như lại bỏ qua hay xem nhẹ tác động của việc để giá vàng trong nước tăng một cách quá ảo (so với thế giới). Trên góc độ này, dù cũng là cực đoan nhưng hành động tìm cách can thiệp để giảm đầu cơ vàng từ nhiều năm trước đây của NHNN mỗi khi có sự chênh lệch trên 400.000 đồng/lượng vàng lại tỏ ra hợp lý hơn là hành động cách ly thị trường vàng trong nước với thế giới.

    Trên hết, tính hữu hiệu và hậu quả của việc cấm nhập khẩu vàng có thể nhìn rõ hơn qua những ví dụ thực tế về việc cấm/hạn chế nhập khẩu một loại hàng hóa nào đó vào Việt Nam từ thế giới, để rồi kết cục thường là phải dỡ bỏ, tự do hóa hoặc hạ thấp rào cản lên sự nhập khẩu này. 

    Tuesday 9 March 2021

    Nhà đầu tư ngoại rút vốn khỏi thị trường – Con chim sợ cành cong? (Bài đăng trên CafeF, 9/3/2021)

    https://cafef.vn/nha-dau-tu-ngoai-rut-von-khoi-thi-truong-con-chim-so-canh-cong-2021030915011831.chn

    Mới hồi tháng 1 năm nay, tờ Financial Times có bài viết phấn khích đưa tin chỉ trong 3 tuần đầu của tháng đã có 17 tỷ USD vốn nước ngoài đổ vào 30 nước trong nhóm các thị trường mới nổi (EMs). Cũng theo bài viết, kể từ sau khi bị rút vốn mạnh, tới 90 tỷ USD riêng trong tháng 3/2020 là tháng bắt đầu đại dịch, vốn ngoại đã lại tràn ngập trên các thị trường vốn và nợ của EMs, đặc biệt là trong quý 4/2020 với lượng vốn đổ vào là 180 tỷ USD, nâng tổng vốn ngoại vào 63 nước EMs đạt 360 tỷ USD trong 9 tháng cuối năm 2020.

    Bài báo trích dẫn nhận định của một chuyên gia rằng: "Cuộc săn lùng lợi suất chắc chắn đang diễn ra và sẽ kéo dài". Tại thời điểm đó, thực tế là cổ phiếu của EMs đã tăng tới 9% so với cuối năm 2020, trong khi ở các thị trường đã phát triển chỉ tăng 2,7%. Dẫu vậy, bài báo cũng chỉ ra rằng bên cạnh yếu tố hỗ trợ đến từ sự cải thiện tình trạng kinh doanh và sức khỏe kinh tế của EMs, sự tăng mạnh về vốn ngoại vào EMs chủ yếu là do các chương trình kích thích kinh tế của Mỹ và các nước khác, dẫn đến sự ngập tràn vốn đầu tư tìm kiếm lợi suất cao hơn so với ở các nước phát triển.

    Tuy nhiên, thị trường đã không cần quá nhiều thời gian để kiểm nghiệm nhận định trên của chuyên gia về chuyện cuộc săn lùng lợi suất ở EMs sẽ kéo dài.

    Cũng tờ Financial Times ngày 6/3 có bài viết của cùng tác giả với tiêu đề: "EMs đã phải chứng kiến đợt rút vốn đầu tiên kể từ tháng 10/2020 do lãi suất tăng". Một tiêu đề phụ của bài viết cũng kịch tính không kém: "Giai đoạn ‘trăng mật’ kể từ lúc phê chuẩn vaccine đầu tiên trong tháng 8 đã kết thúc đột ngột".

    Bài báo cho rằng lãi suất Mỹ tăng làm nhà đầu tư lo sợ có thể Fed sẽ sớm chấm dứt nới lỏng tiền tệ, gây ra một "taper tantrum" khác giống như hồi 2013 vốn đã làm tổn hại EMs. Nỗi sợ này đã xui khiến các nhà đầu tư rút vốn ròng khỏi thị trường chứng khoán và trái phiếu vào cuối tháng 2 và đầu tháng 3, đột ngột chấm dứt giai đoạn vốn ròng đổ vào dài cả tháng.

    Cần biết rằng trong thời gian đó, lợi suất trái phiếu Kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm mới chỉ quanh quẩn 1,1% hồi đầu tháng 2 đột ngột tăng lên 1,54% ngày 25/2 sau khi Thống đốc Fed Powell trong một cuộc họp báo thậm chí không tỏ cho thấy Fed đã sẵn sàng hành động để kiềm chế lãi suất dài hạn. Thị trường cần và kỳ vọng được nghe những cam kết hành động cụ thể từ Fed làm yên lòng giới đầu tư, chẳng hạn như sẽ ngừng mua trái phiếu ngắn hạn, chuyển sang mua trái phiếu dài hạn để chặn đà tăng lợi suất trái phiếu dài hạn. Chưa hết, lợi suất này tiếp tục tăng lên gần 1,6% ngày 8/3 là mức cao nhất trong vòng một năm, bất chấp Thượng viện Mỹ mới phế chuẩn gói kích thích tài chính 1,9 nghìn tỷ USD vào ngày 6/3.

    Thú vị là bài báo cũng trích dẫn ý kiến của cùng vị chuyên gia nêu trên, cho rằng có lẽ nhiều nhà đầu tư đang phải thốt lên "Trời ơi, nếu Mỹ phải tăng lãi suất thì EMs cũng sẽ bị bầm dập thôi". Vị này cũng rút ra một nhận xét rất quan trọng, đại ý rằng 10 năm trước đây người ta cho rằng lãi suất tăng ở Mỹ không ảnh hưởng đáng kể đến EMs nhưng nay thì tình hình đã đảo ngược.

    Có lẽ nhà đầu tư ngoại đã quá thấm thía bài học từ Taper Tantrum 2013 nên lần này đã phản ứng có thể được nhiều người gọi là quá sớm, quá mức theo kiểu "chim bị tên nên nhìn cành cong cũng sợ", bất chấp Fed và các ngân hàng trung ương khác của phương Tây đã và vẫn cam kết duy trì nới lỏng trong thời gian dài, và bất chấp một thực tế là sức khỏe và khả năng chống đỡ của EMs hiện nay đã tốt hơn nhiều so với năm 2013.

    Như vậy, điều có thể rút ra là mối liên hệ giữa các thị trường phát triển, đặc biệt là Mỹ, với các EMs hiện nay đã trở nên khăng khít và bị tác động nhiều hơn bởi các chính sách kinh tế của Washington so với trước đây. Do đó, với tư cách là một thị trường mới nổi, thậm chí là một trong những điểm sáng hiếm hoi về kinh tế trong khu vực và thế giới, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài những xu hướng đang diễn ra trên các thị trường vốn và nợ quốc tế. Thực tế là tương đồng với xu hướng rút vốn mạnh khỏi EMs từ tuần cuối tháng 2, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến nhà đầu tư ngoại rút vốn ròng liên tục cho đến tuần này mà không có một phiên nào có màu xanh xen kẽ như từng thấy từ đầu năm.

    Điều đáng nói khác là trong lúc không ai có thể khẳng định được nhà đầu tư trong nước sẽ còn lạc quan, hưng phấn với thị trường chứng khoán và trái phiếu Việt Nam được bao lâu, lực nâng đỡ thị trường từ sức mua ròng của khối ngoại là điều không nên được đặt cược quá nhiều, kể cả khi gói kích thích tài chính 1,9 nghìn tỷ USD của Mỹ đã được phê chuẩn. Bởi gói kích thích quy mô đến gần 10% GDP cấp tập đổ vào nền kinh tế Mỹ được Fed cam kết hỗ trợ cấp vốn với lãi suất 0% hoàn toàn có thể tạo ra những kỷ lục mới về thâm hụt kép của Mỹ gồm thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khóa làm dấy lên viễn cảnh lạm phát cao trong tương lai dẫn đến kỳ vọng ngày càng tăng vào việc Fed sẽ sớm phải đảo chiều chiến dịch bơm tiền, kéo theo lãi suất dài hạn tăng. Vì vậy, sẽ là không mấy ngạc nhiên khi thị trường chứng kiến biến động trái chiều của các chỉ số chứng khoán Mỹ ngày 8/3 sau khi gói 1,9 nghìn tỷ USD này được Thượng viện Mỹ phê chuẩn.

    Xu hướng sắp tới của dòng vốn ngoại vào EMs cũng như Việt Nam sẽ phần nào được định hình rõ hơn trong cuộc họp chính sách tuần tới của Fed, nơi một số nhà làm chính sách có thể thay đổi quan điểm của mình trước diễn biến thị trường.

    Monday 8 March 2021

    Đánh thuế Google, Facebook: Tin vui với các nước trên thế giới, và cả Việt Nam? (Bài đăng trên TBKTSG, 7/3/2021)

    https://www.thesaigontimes.vn/314211/danh-thue-google-facebook-tin-vui-voi-cac-nuoc-tren-the-gioi-va-ca-viet-nam.html

    Một tin vui với hầu hết các nước trên thế giới. Ngày 26-2, trong cuộc họp trực tuyến của nhóm quốc gia phát triển G20, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Yellen nói Washington từ bỏ một đòi hỏi chủ chốt liên quan đến việc đánh thuế đối với các ông lớn công nghệ như Google và Facebook, khai thông bế tắc vốn đã làm tăng căng thẳng giữa hai bờ Đại Tây Dương và ngăn cản việc đi đến một thỏa thuận quốc tế.

    Bà Yellen nói Mỹ không còn đòi hỏi điều khoản “safe harbor” (tạm dịch là nơi trú an toàn) cho phép các công ty Mỹ chọn không phải trả thuế như vậy ở nước ngoài. Bà còn nói thêm rằng Mỹ sẽ tích cực tham gia vào các cuộc đàm phán về việc đánh thuế ở nước ngoài này cũng như về một mức thuế toàn cầu tối thiểu.

    Các cuộc đàm phán có sự tham gia của khoảng 140 quốc gia về các điều luật thuế tổng quát lên các công ty công nghệ Mỹ đã bị chựng lại năm 2020 khi chính quyền của Tổng thống Donald Trump yêu cầu phải có một cơ chế safe harbor. Phần lớn các quốc gia khác nói rằng họ không thể chấp nhận quyền chọn trả thuế như vậy.

    Hoan nghênh sự chuyển đổi lập trường này của Mỹ, các nước G20 hy vọng sẽ sớm có một thỏa thuận toàn cầu, có thể là vào mùa hè năm nay, về đánh thuế công bằng lên các công ty công nghệ Mỹ.

    Để hiểu bối cảnh đằng sau một thỏa thuận đánh thuế như vậy, cần hiểu cách các ông lớn công nghệ này đang đóng thuế như thế nào.

    Phần lớn số thuế này được nộp tại Mỹ, nơi sản sinh và phát triển phần lớn sản phẩm và dịch vụ của Google. Phần thuế còn lại được nộp tại khoảng 50 nước trên thế giới - những nơi Google có văn phòng trợ giúp việc bán dịch vụ (1).Ví dụ với Google, công ty này cho biết mức thuế doanh nghiệp tổng hợp trên toàn cầu Google đang phải trả là 23% trong vòng 10 năm qua, tương đương với mức thuế trung bình theo quy định của các nước phát triển thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) là 23,7%.

    Vấn đề là, mặc dù Google đã trả thuế (không thấp) cho cả Mỹ và nhiều nước khác, nhưng Google e ngại là nếu không có một thỏa thuận đánh thuế quốc tế thì họ đã và sẽ tiếp tục bị đánh thuế (cao), thậm chí là đánh thuế hai lần ở nhiều nước khác theo ý muốn của nước sở tại, như đang xảy ra tại Pháp, Úc, Indonesia..., dù là Google có hay không có văn phòng đại diện hoặc cơ sở của mình (như ở Việt Nam).

    Nếu không chấp nhận tuân thủ việc đánh thuế của nước sở tại như vậy thì Google phải đối mặt với rủi ro là bị gây khó khăn hoặc thậm chí buộc phải từ bỏ cơ hội kinh doanh ở các nước này.

    Trong khi đó, với tư cách là nước đặt đại bản doanh của Google, Mỹ đương nhiên không muốn phải chia sẻ số thuế đánh trên lợi nhuận của Google cho bất cứ một nước nào, nên mới nảy sinh ra yêu cầu để cho Google có quyền được chọn trả thuế cho ai; ai chống lại yêu cầu này thì bị Mỹ đe dọa trừng phạt thương mại như định làm với Pháp (và từ bỏ ý định này hồi tháng 1 năm nay trước khi ông Trump rời Nhà Trắng).

    Nhưng nếu Google chọn Mỹ là nước được Google đóng thuế thì các nước khác sẽ bị thiệt hại. Vì đây là một rủi ro lớn có khả năng thành hiện thực nên không mấy nước khác chấp nhận yêu cầu này của Mỹ, dẫn đến sự bế tắc trong việc đàm phán thuế giữa các quốc gia với Mỹ, cũng như sự “mắc kẹt” của Google giữa các thế lực Đông-Tây vốn chẳng có lợi cho ai.

    Không rõ Việt Nam có nằm trong số 140 nước tham gia các cuộc đàm phán nói trên không, vì dường như chưa thấy một dòng tin nào nói về chuyện này ở trong nước. Điều chắc chắn là Việt Nam đang “đau đầu” tìm cách thu thuế trực tiếp từ các công ty công nghệ Mỹ. Do các công ty này không có văn phòng, cơ sở tại Việt Nam nên việc đánh thuế này (dưới dạng thuế nhà thầu) trên thực tế đang gặp một số khó khăn (2).

    Việc thu thuế kiểu “nắm đằng lưỡi” như vậy tất nhiên không phải là tối ưu. Nó có thể dẫn đến thất thu thuế, vì bỏ sót nhiều đối tượng nộp thuế tiềm năng do việc đánh thuế vẫn phải phụ thuộc một phần vào sự tự nguyện khai thuế của  phía người sử dụng/đối tác của các công ty công nghệ đa quốc gia này - bên nộp thuế hộ các công ty này.

    Bởi vậy, nếu chưa phải là một trong số 140 nước tham gia đàm phán thỏa thuận thuế quốc tế trên thì Việt Nam cần tích cực và chủ động tham gia ngay với tư cách là một đối tác đàm phán để cùng các nước khác chia phần một cách công bằng miếng bánh thuế đánh trên lợi nhuận của các công ty công nghệ thu được từ hoạt động của họ trên phạm vi toàn cầu.

    Cần biết rằng việc đánh thuế toàn cầu ở mức tối thiểu cùng với những cải cách về thuế lên các công ty công nghệ sẽ mang lại một khoản thu lên tới khoảng từ 60-100 tỉ đô la Mỹ, tức tương đương tới 4% thuế thu nhập doanh nghiệp trên toàn cầu.

    Nếu Việt Nam đã tham gia việc đàm phán này, thì với tư cách là một đối tác đàm phán, Việt Nam cần chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng cho các cuộc thương lượng gay go còn lại về phạm vi áp dụng của các điều khoản mới về thuế, sự phân bổ phần thuế thu được cho mỗi nước, và việc chế tài để đảm bảo thu được thuế... Tất cả những nội dung này gồm rất nhiều chi tiết lớn và nhỏ, cũng như khó khăn trong việc hiện thực hóa các chỉ dẫn chung thành các quy định chi tiết sẽ làm cho quá trình đàm phán còn lại cho đến đích không hề bằng phẳng.

    (1) https://www.blog.google/outreach-initiatives/public-policy/its-time-new-international-tax-deal/

    (2) https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/google-facebook-youtube-dong-thue-tai-viet-nam-nhu-the-nao-1304070.html



    Sunday 7 March 2021

    Gói kích thích 1,9 nghìn tỷ USD của Mỹ sẽ tác động thế nào đến thế giới và Việt Nam? (Bài đăng trên CafeF, 7/3/2021)

    https://cafef.vn/goi-kich-thich-19-nghin-ty-usd-cua-my-se-tac-dong-the-nao-den-the-gioi-va-viet-nam-20210307165301608.chn 

    Gói kích thích tài chính bổ sung 1,9 nghìn tỷ USD của chính quyền Tổng thống Biden dưới dạng chi tiêu của Chính phủ Liên bang đang đợi được Thượng viện Mỹ phê chuẩn. Gói chi tiêu 1,9 nghìn USD tỷ này bao gồm 750 tỷ USD liên quan đến Covid-19 như mua, phân phối và triển khai tiêm vaccine và truy dấu; 600 tỷ USD trợ cấp trực tiếp cho các gia đình (dưới dạng séc trị giá 1.400 USD mỗi người); 400 tỷ USD trợ cấp cho các gia đình bị thương tổn về tài chính (400 USD/người/tuần thất nghiệp); và 150 tỷ USD trợ cấp cho doanh nghiệp nhỏ.

    PV: Theo chuyên gia, gói kích thích kinh tế khổng lồ của Mỹ sẽ tác động thế nào đến phần còn lại của thế giới?

    TS. Phan Minh Ngọc: Với quy mô lớn, lên đến gần 10% GDP của Mỹ nên nếu được thông qua gói kích thích này sẽ tác động lớn không chỉ lên nền kinh tế Mỹ mà còn gây ảnh hưởng đến cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, ngoài quy mô số tiền trợ cấp, các tác động của gói kích thích còn phụ thuộc vào tốc độ triển khai các khoản trợ cấp liên bang cũng như số tiền trợ cấp và tốc độ chi tiêu mà người dân và doanh nghiệp nhận được đem ra chi tiêu thay vì "bỏ ống". Các tác động cũng còn phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng là hệ số tiêu dùng cận biên – vốn phụ thuộc vào quy mô và mức độ thực hiện giãn cách xã hội.

    Theo những giả định cơ bản, Viện Brookings ước tính gói kích thích này sẽ làm tăng GDP của Mỹ thêm 4% vào cuối năm 2021, 2% vào cuối năm 2022 và ở mức không đáng kể vào năm 2023 so với kịch bản nếu không có gói kích thích này. Đến năm 2023, nền kinh tế Mỹ về cơ bản là trở lại quỹ đạo tăng trưởng dự báo đạt được trước khi xảy ra đại dịch.

    Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế cải thiện và trợ cấp Liên bang nên thu nhập cá nhân và, do đó, sức chi tiêu của dân Mỹ chắc chắn sẽ tăng mạnh trong năm 2021 và 2022. Điều này được minh chứng qua mức tăng tới 10% hồi tháng 1, là tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 4/2020 sau khi Chính phủ triển khai gói kích thích đầu tiên trị giá 300 tỷ USD hồi tháng 12/2020. Chi tiêu của người tiêu dùng, vốn chiếm đến hơn 2/3 hoạt động kinh tế của Mỹ, nhờ thế cũng tăng 2,4% trong cùng tháng, là mức tăng trưởng cao nhất kể từ tháng 6/2020.

    Điều đáng nói là trong bối cảnh tự do hóa thương mại, tăng trưởng tổng cầu tại Mỹ sẽ chỉ được đáp ứng một phần bởi sản xuất trong nước. Phần còn lại sẽ được cung cấp bởi thế giới qua kênh nhập khẩu. Số liệu thống kê của Mỹ cho thấy nhập khẩu của Mỹ tháng 1 đã tăng 1,2% lên 260 tỷ USD so với tháng 12/2020. Đây là mức tăng mạnh nhất trong hơn một năm qua. Hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh nhất là hàng tiêu dùng (tăng 3,7 tỷ USD so với tháng 12/2020) rồi đến xe ô tô và phụ tùng, phụ kiện (tăng 2 tỷ USD).

    Trong khi đó, xuất khẩu của Mỹ tăng 1% lên 192 tỷ USD hồi tháng 1/2021. Tuy cũng tăng mạnh nhất kể từ tháng 2/2020 nhưng do xuất khẩu của Mỹ tăng chậm hơn nhập khẩu nên thâm hụt thương mại của Mỹ tăng kỷ lục lên 68 tỷ USD trong tháng 1/2021.

    Như vậy, tác động đầu tiên từ gói kích thích mới của Mỹ lên phần còn lại của thế giới sẽ được thể hiện ở dưới dạng tích cực là làm tăng xuất khẩu của các nước đối tác vào Mỹ. Việt Nam là một trong những đối tác đã và sẽ được hưởng lợi lớn nhất về mặt này. Số liệu thương mại của Việt Nam cho thấy xuất khẩu sang Mỹ tháng 1/2021 đã tăng vọt 70,3% so cùng kỳ năm trước và 6,2% so với tháng 12/2020, đạt 8,2 tỷ USD. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã chiếm tới 28,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam trong cùng tháng.

    Ở chiều ngược lại, nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ tuy cũng tăng mạnh nhưng ở tốc độ nhỏ hơn nhiều (12,6% so cùng kỳ năm trước). Với xuất khẩu được kỳ vọng tăng trưởng mạnh nhờ thị trường Mỹ, có thể nói tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2021 (và cả 2022) cũng sẽ được hưởng lợi gián tiếp từ gói kích thích 1,9 nghìn tỷ USD của Mỹ.

    Tác động thứ hai là sự gia tăng về mức biến động của dòng vốn ngoại vào các thị trường mới nổi. Nếu đo lường bằng tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP – là tỷ lệ mà Warren Buffett miêu tả là "chỉ số đo lường tốt nhất về giá trị (chứng khoán) vào bất cứ thời điểm nào", thì tỷ lệ này đã đạt mức cao kỷ lục mọi thời đại là 228% vào ngày 11/2, còn cao hơn cả mức trước khi xảy ra sụp đổ của thị trường bắt nguồn từ cổ phiếu dot-com tháng 3/2000. Điều này cho thấy chứng khoán Mỹ đã bị định giá quá cao (so với các yếu tố cơ bản của nền kinh tế) nên sớm muộn sẽ phải điều chỉnh.

    Kết quả là một phần của lượng vốn quá dồi dào ở Mỹ sẽ tìm đường đến các thị trường mới nổi khác như Việt Nam, nơi được cho rằng giá cổ phiếu (và trái phiếu Chính phủ cũng như doanh nghiệp) vẫn còn "rẻ" và có tiềm năng tăng hơn nữa. Tuy nhiên, bản chất của dòng vốn "hot money" này là dễ vào nhưng cũng dễ ra ồ ạt nên có thể nói rằng các gói kích thích tài chính của Mỹ sẽ làm tăng mức độ rủi ro vĩ mô cho Việt Nam, gồm có biến động tỷ giá và lãi suất, nếu sự lưu chuyển của dòng vốn ngoại không được kiểm soát chặt chẽ.

    Những tác động tiêu cực thì sao thưa ông?

    Ngoài chiều hướng tích cực như đã đề cập, gói kích thích khổng lồ trên của Mỹ cũng được dự báo sẽ tác động một cách tiêu cực lên các nước khác trên thế giới thông qua hai kênh chính là là lạm phát và nợ gia tăng tại Mỹ.

    Về lạm phát, sự bơm tiền ồ ạt ở Mỹ đã làm tăng kỳ vọng lạm phát như được thể hiện qua sự tăng mạnh của lợi suất trái phiếu Kho bạc 10 năm của Mỹ, từ 0,93% hồi đầu năm lên tới 1,56% tuần qua sau khi trải qua bước thụt lùi nhẹ tạm thời hồi cuối tháng 2. Nhiều nhà phân tích cũng như làm chính sách lo ngại rằng Mỹ đang "xuất khẩu lạm phát" ra phần còn lại của thế giới bằng chính sách tài khóa và tiền tệ siêu nới lỏng của mình trong bối cảnh toàn cầu cũng đang ngập tràn thanh khoản. Quả thật, với Dow Johns Commodity Index – chỉ số giá cả hàng hóa tổng hợp trong các thị trường tương lai, liên tục nối tiếp đà tăng mạnh mẽ từ cuối 2020, áp lực lạm phát có thể nói là một trong những thách thức của nhiều nước trong đó có Việt Nam vốn đã ghi nhận mức lạm phát khá cao (so với thế giới) trong năm 2020 trong khi cũng đang cố gắng duy trì một môi trường nới lỏng về tài khóa và tiền tệ.

    Áp lực gia tăng lạm phát và lãi suất ở Mỹ cũng sẽ làm tăng áp lực lên lãi suất cho phần còn lại của thế giới, buộc các nước phải thận trọng hơn với các chương trình nới lỏng tài khóa và tiền tệ của mình. Đà phục hồi tăng trưởng kinh tế trong nước vì thế sẽ bị chững lại. Với những nước có không gian hạn hẹp cho chính sách tài khóa và tiền tệ như Việt Nam, tác động này có lẽ không lớn lắm bởi các cơ quan chức năng vẫn khá thận trọng (và chậm chạp) trong nới lỏng các chính sách kích thích tăng trưởng.

    Về nợ, với 1,9 nghìn tỷ USD chi tiêu mới này, tổng nợ của chính quyền Liên bang Mỹ sẽ tăng lên mức kỷ lục là 102% GDP năm 2021. Dù nợ có thể tài trợ bằng phát hành nợ mới nhưng sẽ đến một lúc nào đó mà lượng vay mới không đủ để trả nợ cũ vì chủ nợ không dám cho vay nữa. Lúc đó, Chính phủ buộc phải tăng thuế hoặc in tiền để trả nợ với cái giá phải trả là lạm phát cũng như lợi suất trái phiếu tăng vọt. Ở khía cạnh này, có thể nói rằng các gói kích thích tài chính ở Mỹ (và các nước phương Tây) đã gián tiếp làm tăng chi phí vay nợ của các quốc gia khác vốn luôn phải vất vả trong cuộc chạy đua phát hành nợ với lợi suất cạnh tranh. Nói cách khác, có thể kỳ vọng rằng lãi suất và lợi suất trái phiếu của Việt Nam sẽ tăng trở lại nếu xu hướng tăng ở Mỹ không được kiểm soát hữu hiệu.

    Theo ông, Việt Nam nên làm gì để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu các rủi ro đó?

    Các gói kích thích tài chính của Mỹ trước mắt và trong ngắn hạn sẽ làm lợi cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thông qua kênh xuất khẩu. Nhưng cũng phải lưu ý, chúng cũng có khả năng tạo ra những rủi ro cho Việt Nam trong dài hạn hơn, mà rốt cuộc sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng. 

    Để đối phó hữu hiệu với những rủi ro ấy, Việt Nam cần kiểm soát và ngăn ngừa chặt chẽ những rủi ro tài chính ngoại lai bắt nguồn từ làn sóng nới lỏng của Mỹ và các nước phát triển như nói trên, tăng cường giám sát hệ thống tài chính, ngân hàng, đồng thời có các kịch bản khác nhau về chính sách tỷ giá tương ứng với thực trạng lưu chuyển của dòng vốn ngoại biến động theo chiều hướng của lãi suất ở Mỹ.

    Xin cảm ơn những chia sẻ của chuyên gia!

    Thursday 4 March 2021

    Khi… nghe chuyên gia nước ngoài (Bài đăng trên TBKTSG số 9-2021, 25/2/2021)

    https://www.thesaigontimes.vn/314010/tbktsg-so-9-2021-doc-duong-chuyen-doi-so.html

    Tại Việt Nam từ trước đến nay, như một điều không thể khác, các nhận định, đánh giá của giới đầu tư nước ngoài như các ngân hàng, tổ chức tài chính về các vấn đề liên quan đến tài chính, tiền tệ, tỷ giá, và chứng khoán luôn có sức ảnh hưởng nếu không muốn nói là rất lớn, đôi khi gây ra biến động quá mức cho các thị trường của Việt Nam. Cũng không cần phải nói rằng cũng có nhiều nhà đầu tư trong nước có xu hướng ra quyết định đầu tư “ăn theo” các hành động của nhà đầu tư nước ngoài vì tin rằng họ luôn đúng và biết rõ thị trường Việt Nam (vì có trình độ, kinh nghiệm, và... thông tin).

    Tuy nhiên, nếu chịu khó quan sát, phân tích thì sẽ thấy nhiều khi các đánh giá, nhận định của các tổ chức nước ngoài là khá hời hợt, phiến diện, và sai lầm. Điều này không chỉ làm bóp méo thị trường mà còn gây ra những tổn thất lớn cho các nhà đầu tư trong nước, cũng như cho nền kinh tế nói chung.

    Chẳng hạn, trong một bản tin gần đây trên CNBC (1), một chuyên gia quản lý tài sản toàn cầu của một ngân hàng quốc tế lớn một mặt giành những lời khen ngợi có cánh cho Việt Nam, nào là triển vọng kinh tế của Việt Nam là tích cực, và có rất nhiều tiềm năng, nào là “Việt Nam là một thị trường mà chúng tôi ưa thích” v.v... Mặt khác, vị này tất nhiên là không quên cảnh báo các rủi ro với các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.

    Cụ thể, có hai rủi ro chính được đề cập. Thứ nhất là rủi ro về “thanh khoản”.  Và rủi ro thứ hai mà vị này cảnh báo, theo bản tin thuật lại, là việc các cơ quan chức năng Việt Nam thường sử dụng kiểm soát tiền tệ như là một lựa chọn cho chính sách tiền tệ. Theo đó, “nếu nền kinh tế gặp trục trặc thì họ thường sẽ phá giá mạnh tiền đồng chỉ để kích thích nền kinh tế”. Bản tin còn trích dẫn chuyện Mỹ gắn nhãn thao túng tiền tệ cho Việt Nam năm ngoái như để minh họa cho nhận định về sự “thích” phá giá này của Việt Nam của vị chuyên gia (không rõ đây có phải là sự trích dẫn ý kiến của vị chuyên gia này không).

    Về rủi ro thứ nhất, thanh khoản, bản tin chỉ cho biết vị chuyên gia nói rằng “thanh khoản vẫn là một thách thức chủ yếu”. Vì không có thêm chi tiết nên không rõ thanh khoản mà vị chuyên gia đề cập ở đây là của cái gì. Tiền đồng? Ngoại tệ? Không thể vay được từ ngân hàng hay các công ty tài chính? Các ngân hàng đang khô khát thanh khoản...?                    

    Nhưng dù là của cái gì chăng nữa thì rõ ràng ở thời điểm hiện tại (và cả trong năm trước, cũng như trong thời gian sắp tới) những rủi ro liên quan đến thanh khoản nói trên là không phải là một vấn đề lớn, xét một cách toàn diện và công bằng. Thanh khoản tiền đồng vẫn đang dồi dào, như được thể hiện ở lãi suất huy động đứng ở mức thấp và vẫn có xu hướng giảm đi. Tương tự như vậy là ngoại tệ cũng như thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.

    Như vậy, có thể thấy ngay cảnh báo về rủi ro thanh khoản của vị chuyên gia “Tây” này là rất không chính xác và không... đúng lúc!

    Về rủi ro thứ hai, cũng không khó để thấy vị chuyên gia này có sự hiểu biết không thấu đáo về Việt Nam. Chí ít bởi nếu là người am hiểu về tình hình Việt Nam thì sẽ thấy được rằng thực ra Việt Nam đã có nhiều năm liền luôn nỗ lực và rất vất vả chống đỡ lại áp lực gây mất giá của tiền đồng, chứ không phải ngược lại. Sự mất giá của tiền đồng so với USD cho đến nay, nếu có, chủ yếu là do Việt Nam đã từng không có đủ tiềm lực (dự trữ ngoại hối quá mỏng) để chống lại áp lực phá giá tiền đồng như là kết quả phối hợp của nhiều yếu tố bất ổn vĩ mô, gồm thâm hụt thanh khoản thương mại, lạm phát cao, và thâm hụt ngân sách nới rộng.

    Bởi vậy, dù tin hay không tin vào lời khẳng định của Chính phủ nói chung và của Ngân hàng Nhà nước nói riêng rằng Việt Nam không phá giá tiền đồng để đạt lợi thế thương mại thì sự thực vẫn là việc phá giá tiền đồng (để tiền đồng yếu đi so với USD) luôn là điều không được mong muốn của các cơ quan chức năng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua, nếu họ có lựa chọn. Một phần của lý do cho điều này là bởi nỗi lo ngại của họ về việc phá giá tiền đồng sẽ dẫn đến bất ổn vĩ mô (lạm phát), là điều đã trở nên ưu tiên hàng đầu từ nhiều năm khi Việt Nam luôn phải sống chung với lạm phát thậm chí từng có năm vọt lên đến cả trăm phần trăm.

    Tóm lại, nếu tin vào những nhận định, đánh giá không thỏa đáng trên của chuyên gia nước ngoài thì nhà đầu tư trong và ngoài nước chỉ thấy được một bức tranh méo mó về kinh tế Việt Nam để rồi có những quyết định đầu tư (hoặc không) sai lầm. Nói cách khác, giá trị của những nhận định, đánh giá của chuyên gia và tổ chức nước ngoài vẫn luôn là điều bỏ ngỏ.           

    (1) https://www.msn.com/en-sg/money/markets/vietnam-grew-faster-than-china-last-year-and-ubs-says-its-economy-still-has-huge-potential/ar-BB1dyqmr?ocid=msedgntp

    Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

    (Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

    19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
    http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

    18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
    http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

    17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

    16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
    (http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

    15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
    (http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

    14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
    (http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

    13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

    12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

    11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

    10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

    9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
    (http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

    8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
    (http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

    7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
    (www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

    6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
    (http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

    5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

    4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

    3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
    (http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

    2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

    1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).