Friday 24 March 2017

Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ: để không chỉ là hình thức (Bài đăng trên TBKTSG, 24/3/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/158212/Quy-dinh-ve-he-thong-kiem-soat-noi-bo-de-khong-chi-la-hinh-thuc.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã đưa ra dự thảo thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Điều đáng nói về dự thảo này là tuy đã đưa ra những quy định khá chi tiết về quy trình và hình thức, nhưng nó lại thiếu vắng một nền tảng hình thành nên tinh thần tự giác, tích cực và chủ động nhận diện và xử lý các rủi ro có thể phát sinh của từng cá nhân trong tổ chức tín dụng.
 
Do sự thiếu vắng này nên rất có thể tổ chức tín dụng và nhân viên chỉ thực thi các yêu cầu của dự thảo theo kiểu đối phó, sẵn sàng viện dẫn “làm đúng quy trình” để biện bạch khi có chuyện xảy ra.
 
Muôn hình vạn trạng kiểm soát nội bộ

Ngoài việc xây dựng và thực thi các hệ thống quản trị rủi ro, kiểm soát và kiểm toán nội bộ đáp ứng yêu cầu chung của cơ quan quản lý tiền tệ, nhiều ngân hàng trên thế giới còn thực thi nhiều hình thức kiểm soát nội bộ (riêng có) để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của mình.

Nhiều ngân hàng thường xuyên và định kỳ tổ chức các đợt tập huấn và tập huấn nhắc lại cho toàn bộ nhân viên. Chủ đề của những đợt tập huấn này có thể là các hình thức rửa tiền, tài trợ khủng bố, tác hại của việc nếu ngân hàng bị “vướng” vào các giao dịch này, và làm cách nào để nhận diện và phòng chống các hoạt động tội phạm này.
 
Hoặc chủ đề tập huấn cũng có thể là các vấn đề về an ninh, nhận diện và cách thức đối phó với các rủi ro đến từ các hoạt động tội phạm lừa đảo qua mạng, điện thoại và e-mail, giao dịch nội gián... Cũng không thể thiếu các cuộc tập huấn định kỳ và nhắc lại về chính sách chống hối lộ, tham nhũng, lạm dụng quyền lực để trục lợi cá nhân trong các giao dịch với chính quyền và đối tác. Các cuộc tập huấn này thường diễn ra dưới hình thức trực tuyến, “học sinh” phải đọc các tài liệu được chỉ định có ở trên mạng nội bộ và sau đó hoàn thành các câu hỏi trắc nghiệm để được cấp chứng nhận là đã hoàn thành khóa tập huấn, sau khi đã trả lời đúng một tỷ lệ nhất định các câu hỏi trắc nghiệm.
Các hình thức và biện pháp kiểm soát nội bộ rất đa dạng, khó có thể đồng bộ hóa để quy định thành luật và áp dụng chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng sẽ tự giác và chủ động xây dựng và triển khai các hệ thống kiểm soát nội bộ sao cho phù hợp nhất.
 
Ngoài những khóa tập huấn bắt buộc trên, nhiều ngân hàng còn thường xuyên cập nhật và nâng cao nhận thức và tính tuân thủ luật lệ và quy định của nhân viên bằng cách gửi e-mail toàn ngân hàng thông báo những tin tức, diễn biến mới nhất liên quan đến các vụ vi phạm các quy định tài chính tiền tệ của một (số) cá nhân trong và ngoài ngân hàng, trong nước và trên thế giới bị các cơ quan chức năng phát giác và xử lý, làm nhân viên “biết sợ” với những hình phạt nghiêm khắc sẽ xảy đến với mình và ngân hàng nếu không tuân thủ pháp luật.
 
Chưa dừng lại ở đó, có nhiều ngân hàng còn tiến hành thường xuyên những việc tưởng như không mấy quan trọng khác. Một vài lần trong năm sẽ có các cuộc gọi hay e-mail đột xuất từ một bộ phận có trách nhiệm trong ngân hàng về một tai nạn giả tưởng làm đình trệ hoạt động của ngân hàng tại một địa phương nào đó để kiểm tra xem liệu toàn bộ nhân viên của ngân hàng có được liên lạc và giữ liên lạc thông suốt với tổng hành dinh và với đồng nghiệp của mình hay không, nhằm đảm bảo tính duy trì hoạt động liên tục của ngân hàng trong mọi điều kiện. Hoặc ngân hàng cũng sẽ kiểm tra tinh thần tuân thủ quy định bảo mật của nhân viên thông qua tổ chức các cuộc kiểm tra đột xuất các ngăn bàn của nhân viên xem có được khóa hay không, trên mặt bàn làm việc có tài liệu chứa thông tin cần bảo mật sau khi ra về hay không.
 
Cần bổ sung vào dự thảo
 
Từ thực tế ở các ngân hàng nước ngoài nêu trên, có thể thấy là các hình thức và biện pháp kiểm soát nội bộ rất đa dạng, khó có thể đồng bộ hóa để quy định thành luật và áp dụng chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thay vào đó, trên cơ sở nhận thức đúng đắn được tính cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng và vận hành hệ thống kiểm soát, quản lý rủi ro nội bộ, các ngân hàng sẽ tự giác và chủ động xây dựng và triển khai các hệ thống kiểm soát nội bộ của mình sao cho phù hợp nhất.
 
Dự thảo thông tư trên của NHNN tuy không quy định phải có những việc làm cụ thể như nêu ví dụ ở trên, nhưng như đã nói, đây không phải là điều thiếu sót. Một trong những thiếu sót chính là những điều khoản gắn chặt trách nhiệm của những người đứng đầu tổ chức tín dụng trong việc tổ chức xây dựng, điều hành và giám sát hoạt động hệ thống kiểm soát, quản lý rủi ro nội bộ. Hiện tại, dự thảo trên mới chỉ đề cập chung chung về trách nhiệm này, ví dụ: “Hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm cuối cùng về hệ thống kiểm soát nội bộ (ngoại trừ kiểm toán nội bộ) của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ban kiểm soát chịu trách nhiệm cuối cùng về kiểm toán nội bộ”.

“Trách nhiệm cuối cùng” trên cụ thể là thế nào, làm sao quy được cho những người đứng đầu, là điều không dễ chút nào nếu chỉ dừng lại ở mức quy định chung chung như vậy. Hãy lấy một ví dụ. Một giao dịch rửa tiền của nhân viên tại một ngân hàng bắt nguồn từ việc nhân viên này “vô tình” tiến hành giao dịch này do đã “quên” thế nào là một giao dịch rửa tiền, do ngân hàng đó không thường xuyên tập huấn bắt buộc hoặc cập nhật cho nhân viên các kiến thức về rửa tiền, như trong ví dụ ở đầu bài. Để bào chữa cho thiếu sót liên quan đến giao dịch rửa tiền này, ngân hàng có thể viện lý lẽ rằng họ đã có đầy đủ và thực hiện “đúng quy trình” kiểm soát nội bộ về phòng chống rửa tiền, ví dụ như đã ban hành đầy đủ các quy định nội bộ về phòng chống rửa tiền theo yêu cầu của NHNN. Còn chuyện họ không bắt buộc nhân viên phải đọc và hiểu đúng các quy định về giao dịch rửa tiền cũng không sai vì trong dự thảo thông tư của NHNN không đề cập đến chi tiết này! Và như vậy thì chỉ có nhân viên giao dịch xem ra mới bị pháp luật xử lý, còn ngân hàng và người quản lý thì vô can!
 
Nếu chuyện này xảy ra ở nước ngoài, hầu như bất luận thế nào thì ngân hàng này và/hoặc người quản lý của họ cũng sẽ bị xử lý đích đáng.
 
Ví dụ, hồi tháng 10 năm trước, Singapore đã phạt tiền và đóng cửa chi nhánh Ngân hàng Falcon, phạt tiền ngân hàng DBS và UBS, ngoài việc truy tố những người có liên quan của các ngân hàng này trong các giao dịch với Quỹ đầu tư nhà nước 1MDB đầy tai tiếng của Malaysia. Một trong những cáo buộc chính với các ngân hàng này là đã “không kiểm soát được các hoạt động rửa tiền” liên quan đến 1MDB, mà không cần phải đi sâu vào chi tiết tại sao lại có tình trạng “không kiểm soát” được này.
 
Do vậy, dự thảo trên cũng cần phải có thêm các quy định về xử phạt nghiêm khắc cá nhân và toàn bộ tổ chức tín dụng khi để xảy ra các vi phạm bắt nguồn từ các yếu kém và thiếu sót trong hệ thống kiểm soát nội bộ tương ứng với hậu quả của các vi phạm này. Có làm được như vậy thì các tổ chức tín dụng mới tự giác, tích cực và chủ động xây dựng, vận hành hiệu quả hệ thống kiểm soát, quản lý rủi ro nội bộ theo cả những cách thức chung và riêng mà khó có thể cụ thể hóa đầy đủ và nhất thể hóa bằng những thông tư và hướng dẫn từ NHNN.

Wednesday 22 March 2017

Không nên trao cho VAMC quá nhiều quyền (Bài đăng trên TBKTSG, 22/3/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/157983/Khong-nen-trao-cho-VAMC-qua-nhieu-quyen.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã xây dựng dự thảo nghị định quy định về thẩm định giá khởi điểm khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu để trình Chính phủ. Nhìn chung, dự thảo nghị định này nếu được thông qua thì sẽ trao cho VAMC nhiều quyền và nghĩa vụ không cần thiết, và, quan trọng hơn, sẽ đi ngược lại tinh thần khách quan mà NHNN nhấn mạnh xuyên suốt dự thảo.
Đồng tiền không đi liền khúc ruột

Về nguyên tắc, nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng bán cho VAMC để đổi lấy trái phiếu đặc biệt theo giá trị sổ sách trừ đi khoản trích lập dự phòng chưa sử dụng đến thì không phải là tài sản toàn quyền quyết định của VAMC. Sau khi mua về, nếu VAMC xử lý được nợ xấu và tài sản bảo đảm và thu được tiền từ việc xử lý này thì họ sẽ giữ lại một phần của khoản thu này dưới dạng “hoa hồng” và hoàn trả phần còn lại khoản thu về này cho tổ chức tín dụng bán nợ xấu. Nếu không xử lý được thì sau 5 năm tổ chức tín dụng phải mua lại số nợ xấu này đúng bằng giá trị số trái phiếu đặc biệt mà VAMC lúc ban đầu đã trả cho tổ chức tín dụng. VAMC cũng không phải trích lập dự phòng mua nợ xấu từ tổ chức tín dụng.

Nói cách khác, VAMC chỉ là nơi giữ và xử lý hộ nợ xấu cho các tổ chức tín dụng, và không chịu áp lực phải xử lý nợ xấu với tư cách là chủ nợ như của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, tuy sẽ được hưởng hoa hồng nhưng động cơ làm VAMC phải cố gắng hết mức để bán được nợ xấu và tài sản bảo đảm với giá cao nhất sẽ nhiều khi không mạnh bằng động cơ muốn bán cho nhanh, dù với giá thấp, miễn là được việc. Chuyện này cũng tương tự như người môi giới bất động sản nhiều khi chú trọng đến tính thành công của giao dịch hơn là cố gắng giúp bên bán bán được giá cao nhất nhưng giao dịch sẽ bị chậm lại vì phải thuyết phục người mua hoặc phải tốn thời gian và nhọc công tìm người mua khác trả giá cao hơn.
Tương tự như vậy là về vị thế của bên bảo đảm (chủ tài sản bảo đảm) cho khoản nợ xấu và của VAMC. Tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu dù có thể đang “nằm kẹt” ở VAMC nhưng trên giấy tờ pháp lý thì vẫn thuộc về sở hữu của bên bảo đảm cho khoản nợ xấu, chứ không phải là VAMC.

Do vậy, về lý, trong trường hợp nợ xấu được mua bằng trái phiếu đặc biệt, chủ nhân thực sự của khoản nợ xấu (hoặc tài sản bảo đảm) và muốn xử lý nợ xấu (hoặc tài sản bảo đảm) nhanh nhất và tối đa hóa giá trị thu về nhất chính là tổ chức tín dụng bán nợ xấu (hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu), chứ không phải là VAMC. Vì thế, nếu không thỏa thuận được giá khởi điểm của khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt (và tài sản bảo đảm) thì tốt nhất là phải để cho tổ chức tín dụng (hoặc chủ tài sản bảo đảm) lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá và có tiếng nói quyết định hơn trong Hội đồng đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm thì mới đảm bảo tính khách quan (đảm bảo không có xung đột lợi ích).
Nhưng theo dự thảo thì VAMC lại được quyền chọn và thuê doanh nghiệp thẩm định giá đồng thời lập Hội đồng đấu giá nợ xấu mà Chủ tịch là người của VAMC và là người có tiếng nói cuối cùng (ví dụ, khi bỏ phiếu với kết quả khác nhau có tỷ lệ bằng nhau). Nếu như vậy thì sẽ có rủi ro là VAMC sẽ chọn doanh nghiệp thẩm định giá và tổ chức đấu giá sao cho “được việc” cho họ nhất mà phần thiệt hại chủ yếu rơi vào bên tổ chức tín dụng bán nợ xấu hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu.

Nếu lo ngại rằng giá khởi điểm được xác định bởi doanh nghiệp thẩm định giá do tổ chức tín dụng (hoặc chủ tài sản bảo đảm) lựa chọn có thể sẽ là quá cao, khó đấu giá thành công, và lấy chuyện này làm lý do trao quyền cho VAMC được lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá (có thể là thấp hơn, phù hợp hơn với thị trường) thì lý do này cũng không thỏa đáng. Bởi đơn giản là đã có điều khoản trong dự thảo cho phép các lần đấu giá tiếp theo được giảm giá khởi điểm (tối đa không quá 10%). Theo đó, dù doanh nghiệp thẩm định giá do tổ chức tín dụng bán nợ xấu (hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu) có đưa ra một giá khởi điểm quá cao dẫn đến đấu giá thất bại chăng nữa thì sau một vài lần hạ giá khởi điểm, nó sẽ trở nên “phù hợp” hơn, hấp dẫn nhà đầu tư hơn, và rốt cuộc thì đấu giá sẽ phải thành công.
Và suy cho cùng, nếu đã là đấu giá công khai, minh bạch thì chẳng cần VAMC phải tự tổ chức đấu giá, vì việc đấu giá có thể thuê một tổ chức độc lập chuyên nghiệp được cấp phép tiến hành thì sẽ hiệu quả và khách quan hơn, cũng giống như việc ai đó có một tác phẩm nghệ thuật có thể thuê một tổ chức đấu giá bán hộ tác phẩm này cho mình. VAMC đúng ra chỉ có vai trò khi, ví dụ, tổ chức tín dụng hay chủ tài sản bảo đảm vì một lý do nào đó chần chừ, không hợp tác, tổ chức đấu giá thì lúc đó VAMC cần thiết phải đứng ra thuê doanh nghiệp thẩm định giá, thuê tổ chức đấu giá, hoặc tự tổ chức đấu giá (nếu bắt buộc phải vậy) để giải quyết nhanh tình trạng nợ xấu dồn ứ trong “kho” nợ xấu mà họ mua về. Khả năng này mới nên, mới cần đưa vào trong dự thảo.

Đương nhiên, với trường hợp nợ xấu được VAMC mua theo giá thị trường, tức bằng “tiền tươi thóc thật” thì đó có thể coi là tài sản toàn quyền và là chuyện nội bộ của VAMC và, do đó, họ có toàn quyền quyết định việc xử lý, bán lại tài sản này như thế nào (đấu giá hay bán trực tiếp…) để bảo toàn vốn (và có lãi), đồng thời chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản và trước pháp luật về hoạt động của mình, giống như một doanh nghiệp nhà nước đơn thuần. Nên việc quy định về thuê doanh nghiệp thẩm định giá, lập Hội đồng đấu giá… như trong dự thảo là không liên quan, không cần thiết, và nếu cứ nhất định phải có thì cũng chỉ là hình thức mà thôi. 
Nếu được chọn thì VAMC cũng không chắc chọn được doanh nghiệp thẩm định giá phù hợp

Mặc dù dự thảo quy định VAMC ban hành tiêu chuẩn, quy trình xem xét, quyết định lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá,  nhưng do việc lựa chọn này diễn ra trước khi doanh nghiệp thực sự bắt tay vào thẩm định giá nên VAMC nói riêng hay NHNN và Chính phủ nói chung không thể có cách nào biết trước một cách chắc chắn rằng giá khởi điểm mà doanh nghiệp được lựa chọn đưa ra là phù hợp, “chuẩn” nhất. Thực tế ở Việt Nam trước đây cũng cho thấy có những vụ việc mà việc định giá cùng một tài sản của các doanh nghiệp thẩm định giá cho ra các kết quả chênh lệch nhau đến hàng nghìn tỷ đồng.

Nói như trên là để thấy một điều đơn giản là trao quyền cho VAMC lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá vừa tạo ra xung đột lợi ích (với tổ chức tín dụng bán nợ xấu hoặc chủ tài sản bảo đảm khoản nợ xấu), vừa vẫn có khả năng gây thiệt hại cho tất cả các bên liên quan khi giá trị nợ xấu hoặc tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu bị định giá quá thấp. Do đó, nếu không muốn trao quyền cho bên tổ chức tín dụng bán nợ xấu hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu được chọn doanh nghiệp thẩm định giá thì dự thảo cũng nên có một điều khoản xử lý trường hợp giá được thẩm định bởi một doanh nghiệp thẩm định giá do VAMC lựa chọn cũng không được đồng thuận bởi các bên liên quan khác.

Thursday 2 March 2017

Những con số cho thấy robot không phải là mối đe dọa đáng sợ cho công nhân dệt may Việt Nam (Bài đăng trên CafeF, 2/3/2017)

http://cafef.vn/nhung-con-so-cho-thay-robot-khong-phai-la-moi-de-doa-dang-so-cho-cong-nhan-det-may-viet-nam-20170302132832832.chn 

Năm ngoái Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố một báo cáo cho thấy những ước tính “đáng sợ” như sẽ có khoảng 56% người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì robot, đặc biệt là ngành may mặc, trong hai thập kỷ tới.
Báo cáo này ước tính cụ thể thêm rằng, với Việt Nam sẽ có đến 86% công nhân ngành may mặc đối mặt với nguy cơ mất việc cao do xu hướng tự động hóa. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh, xu hướng tự động hóa trong những ngành thâm dụng lao động như dệt may và da giầy ở Việt Nam sẽ không những không phải là một mối đe dọa mang tính tiêu cực mà còn là một xu thế tất yếu đáng hoan nghênh.
Trước tiên, hãy nhìn vào cơ cấu và xu hướng biến động về dân số và lực lượng lao động ở Việt Nam. Có một số báo cáo chính thức, như bộ phận thống kê ASEAN (ASEANstats) cho thấy một số diễn biến đáng lo ngại về dân số và lực lượng lao động Việt Nam.
Cụ thể dân số Việt Nam hiện đang tăng trưởng chậm lại đáng kể. Dân số Việt nam đạt 90,7 triệu người trong năm 2014, tăng bình quân 1,06%/năm trong giai đoạn 2009-2014 – mức thấp nhất trong vòng 35 năm gần đây. Đây cũng là mức thấp nhất nếu so với mức tăng trưởng bình quân trong khu vực là 1,3%/năm.
Tỷ suất sinh giảm đồng thời tuổi thọ tăng lên làm cho Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ “già hóa dân số”, với tỷ lệ dân số trên 65 tuổi đang tăng lên nhanh, mặc dù đang có cơ cấu “dân số vàng” (tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động là 64,9% hơn gấp đôi dân số trong độ tuổi phụ thuộc - gồm 23,5% dân số dưới 15 tuổi và 7,1% dân số trên 65 tuổi).
Xu hướng già hóa dân số nói trên tiếp tục trong những năm tới sẽ dẫn đến một hệ quả không thể đảo ngược là dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm dần, làm gia tăng áp lực tiền lương. Tiền lương thậm chí sẽ tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động.
Thực tế, xu hướng tiền lương gia tăng nhanh hơn tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động đã và đang diễn ra ở Việt Nam mấy năm gần đây. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cho thấy tiền lương thực tế của Việt Nam (gần đây) tăng bình quân 8%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP và năng suất lao động (4,2%năm). Trong dài hạn hơn, chẳng hạn sau 2 thập kỷ nữa, chắc chắn vấn đề tăng lương nhanh hơn tăng năng suất lao động sẽ càng trầm trọng hơn, chứ không thể dịu bớt đi, trừ khi có các biện pháp đối phó hữu hiệu.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để đối phó với tình trạng khan hiếm lao động và gia tăng chi phí nhân công là thực hiện tự động hóa, robot hóa các công đoạn sản xuất thâm dụng lao động mà máy móc có thể làm thay con người. Tự động hóa đã và sẽ mang lại những kết quả rất ấn tượng cho doanh nghiệp.
Ví dụ, theo dữ liệu công bố trong một bài viết trên tờ Financial Times ngày 24/2/2017, có 77,4% trong số các công ty khảo sát tại Trung Quốc cho biết chi phí mua và lắp đặt robot trong các dây chuyền sản xuất đã được thu hồi trong 3 năm ( tất nhiên là trong số này có một số công ty được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí trang bị robot).

Quan trọng hơn có đến 96,8% các công ty này cho biết có sự cải thiện rõ ràng về hiệu suất hoạt động sau khi lắp đặt robot, với năng suất lao động tăng trung bình 27%, trong khi có 77,4% doanh nghiệp cho biết chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm đã giảm.
Năng suất lao động tăng và chi phí sản xuất giảm được thể hiện bằng những con số cụ thể. Ví dụ, công ty Henghui Funiture ở Quảng Đông, nơi đã cắt giảm được 40 trong số 200 nhân công trong vòng 2 năm sau khi lắp đặt robot, đã tiết kiệm được 1,9 triệu Nhân dân tệ tiền lương một năm, tương đương với chi phí trang bị robot, trong khi lợi nhuận tăng thêm 10% so với mức tăng hàng năm khoảng 5-10% trước đây.
Lợi ích về phía doanh nghiệp là như vậy. Về phía người lao động, hiển nhiên là sẽ có một bộ phận lao động nhất là lao động giản đơn, không có kỹ năng, sẽ bị đào thải trong quá trình các doanh nghiệp trang bị robot. Trở lại với số liệu nêu trên trong bài viết ở tờ Financial Times, 74,2% các công ty được khảo sát cho biết công nhân đã giảm sau khi lắp robot, trong khi đó có đến 80,6 % số các công ty đã cắt giảm lao động giản đơn.
Tuy vậy, xu hướng robot hóa lại mở ra một con đường mới cho người lao động. Các vị trí làm việc liên quan đến robot đòi hỏi kiến thức chuyên biệt về máy móc và lập trình, và điều này dẫn đến sự thiếu hụt (và theo đó là tiền lương tăng lên cho) lao động có kỹ năng. Bởi vậy, các ngành và khóa đào tạo liên quan cũng bùng nổ tương ứng, đáp ứng nhu cầu mới của doanh nghiệp và người lao động.
Với một bộ phận những người lao động bị dôi dư sau khi doanh nghiệp lắp đặt robot mà không thể chuyển dịch sang vị trí liên quan đến robot, tình hình cũng không hoàn toàn tuyệt vọng. Cũng theo bài báo cáo trên, một số doanh nghiệp đã đào tạo lại và sắp xếp cho các lao động dôi dư vào các vị trí khác như kiểm tra chất lượng sản phẩm. Cũng có những doanh nghiệp nhờ năng suất lao động, cải thiện hiệu quả kinh doanh do lắp đặt robot nên đã mở rộng quy mô doanh nghiệp nhanh chóng, nhờ thế mà có điều kiện tái tuyển dụng hầu hết những lao động dư thừa vào vị trí robot không thể đảm nhiệm được.
Nhìn từ góc độ toàn bộ nền kinh tế xã hội, xu hướng tự động hóa trước hết là hoàn toàn phù hợp với và là một lời giải hữu hiệu cho chủ trương của nhà nước nhằm chuyển đổi kinh tế theo hướng chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, cải thiện tính cạnh tranh, tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng trong bối cảnh đang diễn ra tình trạng già hóa dân số. Tự động hóa, robot hóa cũng mang đến những lợi ích to lớn và ít ngờ tới như giảm thiểu tình trạng di dân cơ học từ nông thôn ra các trung tâm kinh tế và công nghiệp làm quá tải cơ sở hạ tầng tại đó, đi kèm với những hệ lụy kinh tế xã hội to lớn.
Tất nhiên trong quá trình tự động hóa sẽ làm gia tăng những tranh chấp lao động giữa giới lao động và chủ doanh nghiệp, cũng như một số vấn nạn đi kèm như tỷ lệ thất nghiệp có thể gia tăng trong một giai đoạn, một số khu vực cụ thể nào đó. Lúc này, chính quyền có một vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công việc từ người sang máy móc trở nên êm thấm hơn, thông qua những chính sách hỗ trợ đào tạo kỹ năng, chuyển dịch lao động từ ngành, doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, trợ cấp cho lao động mất việc, hỗ trợ doanh nghiệp tái sắp xếp lao động, phát triển ngành nghề thu hút lao động tại địa phương…

Suy cho cùng, dẫu vẫn sẽ có một bộ phận doanh nghiệp, ngành nghề và người lao động bị ảnh hưởng bởi quá trình động hóa nhưng đây là một xu hướng tất yếu khi đất nước đang “già” đi nhưng lại muốn leo lên bậc thang mới về giá trị gia tăng và năng suất lao động.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).