Saturday 30 January 2021

Phục hồi kinh tế thời Covid-19: Có vaccin chưa phải là xong (Bài đăng trên TBKTSG, 28/1/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/313149/phuc-hoi-kinh-te-thoi-covid-19-co-vaccin-chua-phai-la-xong.html

Việt Nam hiện đang xúc tiến mua vaccine Covid-19 từ một số nước. Ở trong nước thì vaccine nội địa cũng đang được tiêm thử trên người tình nguyện. Dường như mua/sản xuất được vaccine đã trở thành lời giải cho bài toán phục hồi kinh tế của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới.

Tuy nhiên, cũng như một số nước đã tương đối thành công trong phòng chống Covid-19, chính thành quả phòng chống dịch của Việt Nam lại có nguy cơ trở thành một lực cản để phổ biến tiêm chủng vaccine Covid-19, làm chậm lại quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.

Cụ thể hơn, ngay ở những nước đang bị Covid-19 hoành hành thì luôn có một tỷ lệ không nhỏ dân chúng sẵn sàng “nói không” với vaccine Covid-19 vì lo sợ về tính an toàn của vaccine, và đây đã trở thành một thách thức lớn cho việc tiêm chủng để kiểm soát dịch bệnh. Ở Ấn Độ, nơi có hơn 10 triệu ca nhiễm Covid-19 và hơn 153 nghìn người chết vì nó, một trong những lo ngại chính của Chính phủ là sự sợ hãi của dân chúng về tính an toàn của vaccine sẽ ngăn cản người dân đi tiêm chúng trên diện rộng, dù việc tiêm chủng là miễn phí (nhưng/và tự nguyện). Ở Mỹ, nơi có hàng chục triệu ca nhiễm và hàng trăm nghìn ca tử vong vì Covid-19, nỗi sợ hãi về vaccine của dân chúng được tiếp sức bởi tin giả và các hội anti-vaccine, cũng như các thuyết âm mưu cũng là mối lo tương tự của Chính phủ nước này.

Với những nước kiềm chế dịch thành công như Singapore, sự thành công này đi đôi với tâm lý e sợ vaccine hiện hữu càng làm cho người dân ít động lực hơn để tự nguyện tiêm chủng. Với quan niệm rằng ngay cả khi không có vaccine thì đất nước vẫn kiềm chế thành công Covid-19, nhiều người Singapore có thái độ chờ xem, không mặn mà với chuyện tiêm chủng để bảo vệ mạng sống của chính mình.

Điều này được thể hiện qua kết quả của một khảo sát gần đây của Chính phủ, cho thấy tuy có 60% số người được hỏi nói sẽ tiêm chủng, vẫn có đến hơn 30% chọn thái độ chờ xem cho đến khi có thêm số liệu được công bố để quyết định có tiêm hay không. Khảo sát này còn cho thấy ngay cả một số nhân viên ngành y tế và những người có nguy cơ bị lây nhiễm cao như nhân viên đo nhiệt độ khách hàng hay nhân viên hàng không cũng tỏ ra ngần ngại với chuyện tiêm chủng.

Tỷ lệ chấp nhận tiêm chủng 60% như trên của Singapore là không đủ để đạt miễn dịch cộng đồng – theo các chuyên gia thì chỉ đạt được khi có từ 70% đến 90% dân số được tiêm chủng.

Từ thực tế xảy ra ở phạm vi quốc tế và nhất là của Singapore, Chính phủ Việt Nam cần chủ động và có chiến lược hiệu quả đối phó với rủi ro đến từ tâm lý bài trừ vaccine Covid-19 một khi đã được chuẩn bị để tiến hành tiêm trên diện rộng.

Việc cần làm trước tiên là tiến hành thăm dò và khảo sát để đánh giá được tương đối chính xác trạng thái tâm lý của dân chúng đối với việc tiêm chủng vaccine. Sẽ là điều may mắn nếu kết quả cho thấy đại bộ phận dân chúng tin tưởng và sẵn sàng tiêm chủng. Ngược lại, sẽ có một khối lượng công việc lớn chờ đón trước mắt.

Một trong số những việc cần làm này là phải tuyên truyền sâu rộng cho người dân về sự cần thiết của việc tiêm chủng vaccine Covid-19. Người dân cần được thấy việc tiêm vaccine không chỉ bảo vệ sinh mạng bản thân và những người thân thích xung quanh, mà còn góp phần tiêu diệt virus này thông qua miễn dịch cộng đồng khi nhiều người cùng tiêm chủng. Sâu xa hơn, tiêm vaccine còn là để ngăn chặn sự quá tải lên hệ thống cơ sở hạ tầng y tế còn nhiều tồn tại một khi lại có những đợt tái bùng phát dịch trên diện rộng.

Bên cạnh việc tuyên truyền để người dân tự nguyện chứ không bị bắt buộc tiêm chủng (để không làm trầm trọng thêm tâm lý miễn cưỡng, lảng tránh trong dân chúng), Chính phủ cần khuyến khích việc tiêm chủng bằng những ví dụ sống – tiêm chủng cho những người có uy tín và người trong ngành y tế, chẳng hạn như các bác sĩ. Về chuyện này, xin nói thêm là Thủ tướng Singapore là một trong những người đầu tiên tình nguyện tiêm vaccine để trấn an người dân Singapore về sự an toàn và hiệu quả của vaccine. Báo chí nước này cũng đăng ảnh của một số y tá, bác sĩ tự nguyện tiêm chủng. Những điều này sẽ làm người dân an tâm hơn với vaccine.

Mặt khác, việc tiêm chủng trên diện rộng phải không làm khó cho người dân như phải di chuyển xa (nhất là những địa bàn khó khăn), vào những ngày và khung giờ ảnh hưởng đến công việc của người dân (tốt nhất là vào cuối tuần, buổi chiều tối, hoặc để người dân có thể lựa chọn đến tiêm tại những cơ sở y tế và thời điểm tự lựa chọn).

Ngoài việc tuyên truyền, thuyết phục, và tạo thuận lợi, Chính phủ cũng cần phải đưa ra “củ cà rốt” dành cho những người tự nguyện tiêm chủng. Một điều may mắn cho người dân Việt Nam là hiện nay không có những đợt phong tỏa hay những hạn chế đi lại ở Việt Nam như đang diễn ra ở nhiều nước. Nếu giả sử có những biện pháp này trong tương lai, một trong những khuyến khích hữu hiệu cho tiêm vaccine Covid-19 sẽ là sự nới lỏng các hạn chế này áp dụng cho những người có chứng nhận tiêm vaccine. Tất nhiên, để làm được điều này thì Chính phủ cần làm rõ rằng những người đã tiêm vaccine sẽ không có khả năng mang và làm lây truyền virus nữa.

Trên bình diện rộng hơn, Chính phủ Việt Nam cần hợp tác quốc tế, phối hợp với Chính phủ các nước nghiên cứu, xem xét các giải pháp nới lỏng đi lại thích hợp giữa các quốc gia đối tác dành cho những người có chứng nhận tiêm vaccine Covid-19 để góp phần không chỉ thúc đẩy tiêm chủng mà còn như một giải pháp hỗ trợ hữu hiệu cho nền kinh tế bản địa.


Monday 25 January 2021

Kinh tế sẽ phục hồi mạnh và thế giới sẽ tràn ngập tiền những năm tới (Bài đăng trên CafeF, 24/1/2021)

https://cafef.vn/kinh-te-se-phuc-hoi-manh-va-the-gioi-se-tran-ngap-tien-nhung-nam-toi-20210124124106729.chn

Triển vọng kinh tế thế giới năm 2021 đã trở nên lạc quan, rõ ràng hơn bao giờ hết sau một năm đầy rẫy khó khăn, biến động và bất định. Điều này được phản ánh qua sự thăng tiến mạnh mẽ của các chỉ số chứng khoán trên toàn cầu kể từ tháng 11 năm ngoái.

Những tin tức tích cực đã liên tục xuất hiện gần đây gồm nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc, không những đã tránh được một cơn suy thoái mà còn tăng trưởng dương trên 2% năm 2020, đã và sẽ tiếp tục trở thành một cái phao cứu sinh cho kinh tế khu vực và thế giới tươn tự như thời khủng hoảng kinh tế toàn cầu đầu thập kỷ trước, cũng như cam kết mạnh mẽ của chính quyền Biden ở Mỹ về việc “chơi lớn” để vực dậy nền kinh tế nước này.

Khu vực kinh tế châu Âu dù đang ngập chìm trong đợt phong tỏa mới trước sự tái bùng phát của Covid-19 nhưng việc triển khai tiêm chủng vaccine Covid-19 đã làm các Chính phủ ở đây đã trở nên lạc quan hơn vào triển vọng phục hồi nhu cầu do nới lỏng phong tỏa và sự bất trắc giảm đi.

Do vậy, dù có thể vẫn còn một số bất đồng về mức độ và khu vực diễn ra sự phục hồi và tăng trưởng dương, nhưng sự đồng thuận nhìn chung là sẽ có một sự phục hồi mạnh mẽ của kinh tế thế giới vào nửa năm sau của 2021, dựa trên các trụ cột chính gồm kiềm chế đại dịch, sự ổn định hơn về địa chính trị và các gói kích thích, hỗ trợ kinh tế khổng lồ. Trong số này, kiềm chế đại dịch (nhờ vaccine) là cơ sở quan trọng nhất bởi nó sẽ dập tắt nỗi sợ hãi về các đợt tái bùng phát dịch kèm theo là tái phong tỏa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phục hồi kinh tế. 

Cam kết của tân tổng thống Biden về phục hồi lại quan hệ với các đồng minh thân cận và với thế giới cũng có nghĩa là Mỹ sẽ trở nên dễ đoán định và nhất quán hơn trong quan hệ với các nước trên thế giới dưới thời ông Biden so với ông Trump, là người được biết đến có tính khí thất thường, thường bất ngờ thông báo lật ngược chính sách của mình qua những dòng twit. Quan hệ kinh tế quốc tế cũng vì thế mà sẽ ổn định, dễ tiên đoán hơn, góp phần thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.

Các gói kích thích phục hồi kinh tế dựa trên chính sách tiền tệ và tài khóa siêu nới lỏng kể từ năm 2020 sẽ tiếp tục được duy trì trong thời gian tới. Trong số những gói kích thích kinh tế này phải kể đến gói 1,9 nghìn tỷ USD hỗ trợ tài chính gia đình và phòng chống dịch mới công bố ở Mỹ (tương đương 9% thu nhập quốc dân của Mỹ), 750 tỷ Euro ở khu vực EU nhằm không chỉ cứu trợ các ngành bị ảnh hưởng mà còn xây dựng một nền kinh tế mới ở khu vực này. Trung Quốc thì đã thi hành các gói hỗ trợ quy mô lớn tương tự từ quý 2 năm 2020.                  

Điều đáng lưu ý là về xu hướng mới trong lập trường chính sách. Vốn đã từng vất vả chống đỡ với giảm phát và suy thoái trong cả thời gian dài, các ngân hàng trung ương chủ chốt dường như sẵn sàng duy trì chính sách nới lỏng để hạ lãi suất xuống các mức thấp kỷ lục kể cả sau khi nền kinh tế đã đi sâu vào giai đoạn phục hồi. Thậm chí Fed còn cam kết duy trì chính sách nới lỏng kể cả sau khi lạm phát vượt trên mức mục tiêu 2% trong một thời gian sau đó.

Những diễn tiến và xu hướng nói trên đem lại những hàm ý lớn cho Việt Nam. Trong bối cảnh nới lỏng và tiền rẻ tràn ngập trên toàn cầu trong một thời gian dài nữa, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tiếp tục có cơ hội tăng điểm với triển vọng dòng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào đây. Triển vọng này của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một phần kết quả của việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) rất có thể sẽ tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng của mình trong thời gian tới, nhất là khi các ngân hàng trung ương khác trên thế giới tiếp tục bơm tiền mạnh mẽ, gián tiếp dẫn đến sự tăng giá của tiền đồng nếu NHNN không có sự điều chỉnh tương ứng.

Chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng và lãi suất tiếp tục được duy trì ở mức thấp sẽ tác động tới giá bất động sản ở Việt Nam theo hướng tăng lên, đặc biệt trong bối cảnh nguồn cung bị hạn chế bởi nhiều lý do.

Tuy vậy, đằng sau sự lạc quan trên là một số rủi ro lớn. Trước hết, điều vẫn chưa rõ ràng nếu vaccine sẽ hoàn toàn ngăn ngừa sự mắc và lây lan virus Covid-19 và các biến thể của nó. Nhiều nhà khoa học cảnh báo rằng vaccine không phải là liều thuốc vạn năng và lo ngại sự nới lỏng quá nhanh các biện pháp phong tỏa, kiểm soát dịch sẽ làm tăng vọt sự lây nhiễm virus trong các nhóm người chưa được tiêm chủng. Nếu điều này xảy ra, chu kỳ phục hồi kinh tế thế giới sẽ tiếp tục bị ngắt mạch bởi những đợt phong tỏa mới. Nhu cầu không phục hồi như kỳ vọng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu, và do đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Rủi ro lớn khác là kỷ nguyên tiền rẻ tràn ngập thế giới sẽ không kéo dài đủ lâu bởi sự chống đối của trường phái chính trị gia bảo thủ ở các nền kinh tế lớn. Ở Mỹ, một số nghị sĩ phe Cộng hòa đã kêu gọi thắt chặt lại chính sách tài khóa trước sự tăng phi mã của khối nợ nần ở Mỹ. Điều này sẽ cản trở chương trình kích thích 1,9 nghìn tỷ USD của ông Biden. Ở châu Âu, từ Ý đến Đức đã có những lời kêu gọi tương tự nhắm đến nhanh chóng giảm thâm hụt ngân sách trong khu vực. Còn Trung Quốc thì phải đối mặt với các bất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế trong dài hạn nên sẽ sớm phải thi hành các biện pháp tái cân bằng gồm giảm chi tiêu công, giảm nợ.

Ngoài ra, lạm phát có thể là một điều được hoan nghênh ở nhiều nước sau nhiều năm phải chật vật đối phó với giảm phát. Nhưng lạm phát đối với NHNN là một trong những rủi ro vĩ mô chính. Do vậy, nếu lạm phát thế giới có xu hướng tăng, tác động quá lớn lên lạm phát trong nước, điều này sẽ buộc NHNN phải thi hành một chính sách tiền tệ thận trọng hơn, dù có thể đi ngược lại trào lưu chung của thế giới. Do vậy, biến số lạm phát trong nước luôn cần được dự đoán, phân tích khi muốn biết đường hướng của chính sách tiền tệ và lãi suất ở Việt Nam. 


Sunday 17 January 2021

Chính sách kinh tế của ông Joe Biden và tác động đến Việt Nam (Bài đăng trên TBKTSG, 15/1/2021, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/312619/chinh-sach-kinh-te-cua-ong-joe-biden-va-tac-dong-den-viet-nam.html

Tổng thống Mỹ sắp mãn nhiệm Trump có thể nói đã làm khó cho nhiều nền kinh tế châu Á khi luôn đe dọa, và thực tế đã thực hiện, áp đặt thuế quan lên ngay cả những đồng minh thân thiết nhất của mình. Việt Nam thì bị đưa vào danh sách nước bị cáo buộc thao túng tiền tệ sau khi Mỹ chứng kiến thâm hụt thương mại lớn do hậu quả của thương chiến Mỹ-Trung.

Chính sách của Trump đối với Trung Quốc đặc biệt hà khắc thông qua áp thuế trên gần như ¾ hàng hóa Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi cấm cửa các hãng công nghệ như Huawei và hạn chế xuất khẩu cho các nhà sản xuất chip lớn của Trung Quốc với lý do an ninh quốc gia.

Đó là lý do vì sao sự chiến thắng của Tổng thống đắc cửa Biden đã làm nhiều nước châu Á thở phào. Họ có thể hy vọng một chính quyền ít đối đầu hơn và dễ tiên đoán hơn ở Mỹ, có xu hướng đối thoại để giải quyết xung đột hơn là đơn phương khởi động thương chiến.

Nhưng giới quan sát thì thận trọng hơn. Họ không cho rằng chính sách thương mại hiện thời sẽ thay đổi lớn trong thời của Biden. Bởi trọng tâm chính sách của chính quyền Biden vẫn sẽ là kích thích công nghiệp nội địa như được thể hiện qua cam kết tranh cử “made in all of America” được hiểu là sự mở rộng của nguyên tắc Buy American (tạm dịch, hãy mua hàng hóa của Mỹ) thông qua biện pháp như đánh thuế 10% lên các hãng Mỹ đặt hàng sản xuất hải ngoại (và ngược lại, được giảm thuế), và lấp lỗ hổng giúp các công ty đa quốc gia Mỹ tránh thuế lên phần lợi nhuận thu từ nước ngoài.

Khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra làm hàng triệu người Mỹ thất nghiệp càng thúc đẩy Biden bám chắc chính sách này của mình. Và với chính sách như vậy, Biden rõ ràng không phải là người có, cổ xúy cho tư tưởng thương mại tự do. Biden cũng được trích dẫn khi nói rằng ông sẽ không đàm phán bất cứ một hiệp định thương mại tự do nào cho đến khi đầu tư vào ngành chế tạo của Mỹ gia tăng mạnh.

Trong bối cảnh đó, nhất là khi Covid-19 đang tiếp tục hoành hành tại Mỹ thì khởi động lại đàm phán thương mại sẽ không phải là ưu tiên chính sách của Biden ít nhất trong thời gian đầu cầm quyền. Và cho dù đàm phán có được nối lại thì Mỹ xem ra sẽ không rút lại những biện pháp trừng phạt Trung Quốc nếu không đạt được những nhượng bộ lớn từ Trung Quốc trong các vấn đề cơ bản như sở hữu trí tuệ và trợ cấp Chính phủ cho doanh nghiệp nội địa.

Những chính sách khác của Trump dành cho Trung Quốc như cấm cửa các hãng công nghệ Trung Quốc vẫn sẽ được tiếp tục dưới thời Biden khi mà đảng Dân chủ đã ủng hộ nó. Biden cũng ủng hộ Luật Nhân quyền Hong Kong, và như vậy thì các vi phạm nhân quyền ở Xinjiang và đối đầu chính trị của Trung Quốc với Đài Loan sẽ tiếp tục triệt tiêu cơ hội thay đổi phương pháp tiếp cận của Mỹ với Trung Quốc. Ngoài ra, chính sách Trung Quốc của Biden sẽ còn tiếp tục bị phủ bóng bởi chính quyền tiền nhiệm khi họ cho thấy các biện pháp trừng phạt với doanh nghiệp Trung Quốc chưa dừng lại.

Như vậy, có thể nói rằng dù Biden hứa hẹn, cho thấy sự ổn định hơn (và dựa trên luật lệ hơn) nhưng có lẽ sẽ không (ngay lập tức) lật ngược hoàn toàn chính sách thương mại diều hâu của Trump. Nói cách khác, chính quyền Biden có xu hướng sẽ duy trì lập trường cứng rắn với Trung Quốc của người tiền nhiệm Trump trong một thời gian không xác định trước khi có những chuyển biến căn bản đối nội và đối ngoại.

Hàm ý của một chính sách tiếp tục cứng rắn với Trung Quốc của Biden sẽ có ảnh hưởng đến Việt Nam trên một số khía cạnh. Trước tiên là chính sách liên kết với đồng minh để kiềm chế Trung Quốc của Biden có thể sẽ theo hướng lôi kéo Việt Nam tiến gần hơn nữa với Mỹ. Điều này sẽ đặt Việt Nam vào thế phải ngày càng rõ ràng lựa chọn phe, trong khi không thể, không dễ “thoát Trung” bởi sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào nền kinh tế nước này.

Việc đàm phán một hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ có lẽ cũng không phải là một ưu tiên chính sách của Biden trong thời gian đầu cầm quyền, mà sẽ được đặt trong bối cảnh của việc ông có quyết định quay trở lại bàn đám phán lại về Hiệp định Đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay không. Một số nhà quan sát cho rằng Biden sẽ không muốn sớm gia nhập TPP bởi đảng Dân chủ không mặn mà với những thỏa thuận thương mại mới (dù Biden dưới thời Tổng thống Obama là người cổ xúy mạnh mẽ).

Tiếp đó, là một tổng thống “ổn định” và dựa trên luật lệ hơn, Biden được kỳ vọng sẽ xử lý các vấn đề thương mại với Việt Nam theo các cách thức truyền thống. Thâm hụt thương mại ngày càng tăng với Việt Nam được coi là một bằng chứng của việc Việt Nam lợi dụng Mỹ dưới thời Trump sẽ được Biden xem xét một cách tỉnh táo, thấu đáo hơn với sự tư vấn của các cố vấn của mình như là kết quả của nhiều yếu tố ngoài chuyện thao túng tiền tệ. Thậm chí, một số nhà quan sát còn cho rằng chính quyền Biden sẽ hủy bỏ việc đánh thuế một cách tùy tiện của chính quyền Trump lên tấm pin mặt trời, máy giặt và thép và nhôm của Việt Nam. 

Nhưng điều này không có nghĩa là Biden sẽ xem nhẹ hay bỏ qua vấn đề thâm hụt thương mại ngày càng tăng dưới góc nhìn Buy American. Nó sẽ tiếp tục là áp lực và lý do để chính quyền Biden yêu cầu Việt Nam mở cửa thị trường trong nước hơn nữa với hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Mỹ, nhất là trong các ngành “nhạy cảm” như dịch vụ tài chính... Đồng thời, Mỹ chắc sẽ phản ứng với những yêu cầu/động thái, nếu có, của Việt Nam về buộc các công ty cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải đặt các cơ sở lưu trữ số liệu tại Việt Nam hay về đánh thuế lên các ông lớn công nghệ như Google, Facebook... 

Saturday 16 January 2021

Để không ngừng đổi mới sáng tạo (Bài đăng trên TBKTSG, 15/1/2021)

 https://www.thesaigontimes.vn/312617/de-khong-ngung-doi-moi-sang-tao.html

Nhận thức về vai trò của đổi mới sáng tạo trong chiến lược phát triển ở Việt Nam đã được thể hiện thành hành động như khởi công Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) và khai trương Triển lãm quốc tế đổi mới sáng tạo Việt Nam 2021 gần đây. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu các kinh nghiệm và xu hướng mới trên thế giới để tìm lời giải tối ưu cho bài toán làm thế nào để đổi mới sáng tạo không ngừng một cách hiệu quả.

Ai trả tiền?

Trên tất cả mọi thứ, đổi mới sáng tạo đương nhiên cần tiền, thậm chí rất nhiều tiền, để chi cho các hoạt động từ việc lên ý tưởng đến thương mại hóa, mở rộng và cuối cùng là duy trì doanh nghiệp/startup một cách bền vững trong dài hạn. Vậy những doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân liên quan tham gia đổi mới sáng tạo tìm nguồn tài trợ từ đâu?

Thông thường, ngoài nguồn từ doanh nghiệp, nguồn tài trợ sẽ đến từ chính phủ, các quỹ đầu tư quốc gia, các tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ đầu tư mạo hiểm, thị trường mua bán sở hữu trí tuệ, gọi vốn cộng đồng... Tuy nhiên, trong những giai đoạn biến động, bất an lớn như trong thời đại dịch, vai trò hỗ trợ tài chính, bà đỡ cho đổi mới sáng tạo của chính phủ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong bối cảnh có các đợt phong tỏa (tiềm năng), các nguồn tài chính cạn kiệt, tâm lý sợ rủi ro dâng cao.


Theo hướng này, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Singapore khi nước này vào năm 2018 đã tạo lập ít nhất bảy loại quỹ hoặc chương trình ưu đãi, hỗ trợ tài chính dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các startup của người Singapore và, trong một số trường hợp, cho người nước ngoài. Những giải pháp tài chính này đã góp phần đưa Singapore trở thành một trong những nơi khởi nghiệp công nghệ hàng đầu trên thế giới.

Tuy đa dạng về hình thức và nội dung hỗ trợ như vậy, nhưng nhìn chung các hỗ trợ này được thiết kế và hoạt động có trọng tâm rõ ràng, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghệ, mang tính sáng tạo, thúc đẩy cải thiện năng suất nhưng đồng thời luôn đảm bảo nguyên tắc hỗ trợ phải được gắn với kết quả cụ thể mang lại và có tính duy trì trong tương lai(1).

Trong lĩnh vực nào?

Các lĩnh vực đổi mới sáng tạo ở Việt Nam xem ra vẫn còn được xác định một cách chung chung, quá rộng và trừu tượng, gồm lĩnh vực mà Việt Nam tự cho mình là có thế mạnh như nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế tạo và công nghệ thông tin(2), trong khi lại bỏ qua những lĩnh vực thiết yếu, nhất là có xu hướng mới. Ví dụ, đổi mới sáng tạo trong nghiên cứu và phát triển ở các lĩnh vực liên quan đến y tế.

Hệ thống y tế dường như chưa được quan tâm và đề cập đến một cách đáng kể. Khi đại dịch nổ ra, chúng ta mới nhận ra rằng đổi mới sáng tạo trong những lĩnh vực này không phải là xa xỉ mà là thiết yếu. Giá như chúng ta đầu tư thích đáng vào lĩnh vực này, đã nhanh chóng điều chế, hoàn tất thử nghiệm và sản xuất đại trà vaccin như một số nước khác thì rất có thể đã gặt hái được nhiều cơ hội lớn cho nền kinh tế.

Hơn nữa, đại dịch cũng mang đến nhiều cơ hội cho các ý tưởng phát triển mới trong các lĩnh vực trực tiếp và gián tiếp có liên quan như làm việc từ xa, học từ xa, thương mại điện tử, và các giải pháp di động. Đành rằng Việt Nam đã có một số doanh nghiệp đang chớp thời cơ để lớn mạnh trong một vài lĩnh vực, nhưng cũng phải thừa nhận là chúng ta không phải là chủ nhân của nhiều ý tưởng mới được thương mại hóa, mà chỉ là sao chép của thiên hạ.

Lại giá như các nhà khởi nghiệp của chúng ta có một công cụ, nền tảng họp video từ xa tương tự như Zoom thì không chừng chúng ta đã có một kỳ lân nhiều tỉ đô la, mở đường cho nhiều nền tảng và ý tưởng kinh doanh mới Made in Vietnam khác.

Vậy bài học ở đây là, trước tiên, đổi mới sáng tạo, ngoài sự tự phát, năng động của khu vực tư nhân, cần phải được “hướng nghiệp”, được định hướng theo các đơn đặt hàng cụ thể của Chính phủ dựa trên nhu cầu cụ thể, sát sườn của nền kinh tế, xã hội.

Chẳng hạn, đối với ngành kinh tế thiết yếu như giao thông vận tải ở Việt Nam, với tư cách là bà đỡ cho đổi mới sáng tạo, tại sao Chính phủ không đặt hàng các giải pháp, ví dụ, sử dụng năng lượng sạch trong ngành, thay vì loay hoay từ hàng chục năm nay với chuyện làm đường sắt cao tốc rồi đường sắt tốc độ cao?

Ngay chuyện đơn giản hơn như thu phí không dừng - giải pháp đổi mới sáng tạo của hàng chục năm trước trên thế giới - mà mãi đến nay áp dụng... chưa xong! Tương tự, biến đổi khí hậu đang trực tiếp đe dọa và tác hại đến Việt Nam nên một trong những mục tiêu của chiến lược đổi mới sáng tạo quốc gia phải có ngày càng nhiều các giải pháp đổi mới sáng tạo phòng chống biến đổi khí hậu như là kết quả của sự đặt hàng của Chính phủ.

Tiếp đó, như nói ở trên, phần đề cập đến kinh nghiệm của Singapore, đơn đặt hàng của Chính phủ sẽ được thanh toán bằng các gói, các giải pháp hỗ trợ về tài chính và thể chế được thiết kế với các lĩnh vực trọng tâm, với các yêu cầu cụ thể để làm căn cứ cho việc phát hiện, tuyển chọn, xét duyệt, phê chuẩn và/hoặc tiếp tục tài trợ các giải pháp sáng tạo, đổi mới đem lại kết quả như yêu cầu.

Liên quan đến việc này, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam cần phải có một “thinktank” có nhiệm vụ phát hiện ra các nhu cầu thực tiễn cho đổi mới sáng tạo. Ngoài việc xây dựng lực lượng chuyên gia cơ hữu, thinktank này cần có cơ chế thu hút, lắng nghe, tập hợp ý kiến đóng góp của tất cả các chủ thể có liên quan để thiết kế ra các đơn đặt hàng mang tính thực tiễn, có ý nghĩa và hiệu quả lớn cho quốc gia.

Tất cả những công việc này phải được tổng kết, đo lường cụ thể bằng những giải pháp đổi mới sáng tạo đã được sàng lọc, lựa chọn, phê chuẩn và triển khai có kết quả được phản ánh qua doanh thu và các thước đo kinh tế khác. Điều này là để tránh con đường mòn hiện nay, đó là dù đã có quá nhiều ban, ủy ban tư vấn, cố vấn các loại được thành lập ở cả cấp cao nhất, nhưng công luận cả năm hầu như chẳng nghe thấy tin tức gì về hoạt động của những ban bệ này cả. 

(1) https://www.thesaigontimes.vn/282502/thuc-day-khoi-nghiep--cach-lam-cua-singapore-.html

(2) https://vneconomy.vn/thu-tuong-khong-dau-tu-doi-moi-sang-tao-viet-nam-se-mac-ket-bay-thu-nhap-trung-binh-20210109134555778.htm


Monday 4 January 2021

Ngân hàng Nhà nước kinh doanh ngoại tệ trong nước – tại sao không? (Bài đăng CafeF, 4/1/2021)

https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-kinh-doanh-ngoai-te-trong-nuoc-tai-sao-khong-20210104104639282.chn

Như đã được đề cập, gần đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ngừng công bố tỷ giá mua USD giao ngay, chỉ tiếp tục công bố tỷ giá bán USD giao ngay, hiện ở mức 23.775 VND/USD. Trước đó, tỷ giá mua USD giao ngay hồi tháng 11/2020 là 23.125 VND/USD.

Với tỷ giá giao ngay 2 chiều mua bán nói trên, có lẽ chỉ đến thời gian gần đây chúng mới được NHNN áp dụng, chủ yếu là chiều mua vào (tức ngân hàng thương mại bán USD cho NHNN) khi mà nguồn cung USD trên thị trường dồi dào làm cho tỷ giá liên/trong ngân hàng và thị trường tự do sụt giảm (VND mạnh lên). Còn với tỷ giá bán ra đến 23.775 VND/USD, xem ra nó tiếp tục sẽ không có cơ hội được sử dụng trong giai đoạn tới, đơn giản bởi nó sẽ là quá cao so với mức mà ngân hàng thương mại và thị trường có thể chấp nhận để mua vào, đặc biệt trong xu hướng tiếp tục suy yếu của USD trên thị trường thế giới như hiện nay.

Trong bài trước, chúng ta đã phân tích ẩn ý đằng sau động thái ngừng công bố tỷ giá mua USD giao ngay. Một trong những hàm ý có thể rút ra là NHNN vẫn có thể tiếp tục mua USD giao ngay với tỷ giá thỏa thuận không công bố. Điều đáng nói ở đây là tỷ giá mua giao ngay thỏa thuận này, cũng như tỷ giá bán giao ngay, cần phải/sẽ được xác định trên cơ sở nào.

Nếu như trước đây thì tỷ giá mua hay bán của NHNN phần lớn là nhằm đến mục tiêu can thiệp, ổn định thị trường ngoại tệ – một trong những chức năng chính của ngân hàng trung ương. Do đã từng trải qua một quá khứ dài với tình trạng khan hiếm kinh niên cung USD trong nước cộng với dự trữ ngoại hối mỏng, buộc NHNN phải ưu tiên bảo vệ, tăng cường dự trữ ngoại hối, nên có thể nói không quá rằng tỷ giá bán USD giao ngay của NHNN công bố đa phần chỉ để cho có, bởi nó quá đắt để ngân hàng thương mại có thể mua vào thay vì mua trên thị trường.

Về tỷ giá mua giao ngay của NHNN, nó có phần “dễ thở” hơn đối với ngân hàng thương mại ở cái nghĩa là nó sát với tỷ giá trên thị trường hơn, nhất là khi nguồn cung USD dồi dào, NHNN “tranh thủ” mua vào bổ sung dự trữ ngoại hối. Dẫu vậy, do đầu ra gần như bị bịt bởi tỷ giá bán giao ngay quá cao so với thị trường nên tỷ giá mua giao ngay của NHNN đến một lúc nào đó sẽ phải trở nên phi thị trường như với tỷ giá bán giao ngay (tức sẽ thấp hơn tỷ giá mua trên thị trường), để hạn chế việc mua vào của NHNN bởi những lý do như bị cáo buộc thao túng tiền tệ (gồm chỉ mua mà không bán USD) bởi các đối tác thương mại của Việt Nam như đang chứng kiến hiện nay.

Nói cách khác, cơ sở xác định tỷ giá mua, bán USD giao ngay của NHNN cho đến gần đây chủ yếu là những cân nhắc vĩ mô, về chính sách, chứ không có tính thương mại, không vì mục đích kinh doanh (kinh doanh ngoại tệ).

Sẽ có người lập luận rằng chức năng của NHNN – một ngân hàng trung ương đương nhiên không phải là kinh doanh, dù là kinh doanh ngoại tệ. Điều này có thể đúng... một phần! Cần nhớ rằng NHNN, cũng như các ngân hàng trung ương khác, đã, đang và sẽ tiếp tục “quản lý” quỹ dự trữ ngoại hối của mình để tối ưu/tối đa hóa tính thanh khoản cũng như giá trị của nó. Việc này cần thiết phải thiết lập và cho hoạt động bộ phận kinh doanh ngoại hối cũng như quản lý tài sản với các đối tác nước ngoài, là cái cũng đang tồn tại ở NHNN. Đã có bộ phận chức năng như vậy kinh doanh với đối tác nước ngoài thì cũng chẳng có gì ngăn cản việc mở rộng kinh doanh này ra với các đối tác trong nước, tức các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trong nước.

Cũng có thể còn ai đó vẫn “lăn tăn” đôi chút với chuyện lồng ghép chức năng quản lý vĩ mô và chức năng kinh doanh của NHNN trong chuyện này. Thực ra, nếu đã kinh doanh với các đối tác nước ngoài dựa trên các nội quy và nguyên tắc đặt ra để đáp ứng được các yêu cầu an toàn và bảo tồn, phát triển quỹ dự trữ ngoại hối thì cũng hoàn toàn có thể áp dụng các nội quy và nguyên tắc này cho các giao dịch với các đối tác trong nước mà không phải e ngại ảnh hưởng đến chức năng quản lý vĩ mô của NHNN.

Nếu đã đồng ý về chuyện NHNN kinh doanh ngoại tệ với các đối tác trong nước rồi thì việc cần làm tiếp theo là NHNN cần ngừng công bố cả tỷ giá bán USD giao ngay. Tỷ giá mua, bán giao ngay của NHNN lúc này sẽ linh hoạt, trên cơ sở thỏa thuận song phương với từng ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, nhưng phải khai thác được lợi thế (và cũng là trách nhiệm) của NHNN là người mua, bán cuối cùng trên thị trường mà theo đó thì chiều mua có thể rẻ hơn và chiều bán thì có thể đắt hơn thị trường ở một biên độ nào đó có thể chấp nhận được. Một khi đã đạt đến các ngưỡng an toàn và các cân nhắc vĩ mô tổng thể thì việc mua hay bán cần thiết phải dừng lại hoặc đảo chiều một cách cũng linh hoạt, thông qua điều chỉnh tỷ giá mua, bán tương ứng.

Với cung cách “kinh doanh” như vậy, rõ ràng NHNN vừa đảm bảo được chức năng quản lý vĩ mô thị trường ngoại tệ trong nước của mình, đồng thời vẫn đảm bảo xây dựng và củng cố dự trữ ngoại hối quốc gia một cách hiệu quả và an toàn.


Saturday 2 January 2021

Hàm ý gì đằng sau việc điều chỉnh phương án mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước? (Bài đăng trên CafeF, 2/1/2021)

https://cafef.vn/ham-y-gi-dang-sau-viec-dieu-chinh-phuong-an-mua-ngoai-te-cua-ngan-hang-nha-nuoc-20210102090808235.chn

Từ ngày 31/12/2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ngừng niêm yết tỷ giá giao ngay tại Sở Giao dịch và ngừng mua ngoại tệ giao ngay. Bên cạnh đó, từ ngày 4/1/2021, NHNN sẽ thực hiện mua ngoại tệ kỳ hạn 6 tháng (thay vì kỳ hạn 3 tháng như trước) có hủy ngang với tỷ giá mua kỳ hạn là 23.125 VND/USD. Mỗi tổ chức tín dụng chỉ được hủy ngang một lần và toàn bộ giá trị giao dịch đối với mỗi bán ngoại tệ cho NHNN theo phương án này.

Một số ý kiến cho rằng, động thái trên của NHNN là muốn rải nguồn VND mua ngoại tệ đối ứng ra thị trường thay vì dồn cung VND tại một thời điểm nếu thực hiện mua giao ngay.

Nhưng theo TS. Phan Minh Ngọc, nếu chỉ vì mục đích tránh dồn cung VND từ các giao dịch mua giao ngay thì việc duy trì mua kỳ hạn 3 tháng như trước là quá đủ cho mục đích này, và, do đó, NHNN không cần phải thay đổi (kéo dài) kỳ hạn mua ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn, hoặc phải bỏ trống hạng mục tỷ giá (mua USD) giao ngay như trong động thái mới nhất này của NHNN. Việc tránh dồn cung VND tại thời điểm giao ngay cũng không có ý nghĩa bởi vào thời điểm giao trong tương lai (6 tháng sau) thì nguồn cung VND cũng tăng vọt đột ngột, gây hậu quả không khác gì so với hiện tại.

PV: Vậy theo ông, hàm ý gì đằng sau động thái điều chỉnh phương án mua ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước?

TS. Phan Minh Ngọc: Liên hệ với các diễn biến mới gần đây, chúng ta có thể hình dung ra một ẩn ý chính đằng sau động thái trên của NHNN.

Cụ thể, lời cáo buộc trong năm 2020 của Bộ Tài chính Mỹ về việc Việt Nam thao túng tiền tệ (làm VND yếu hơn so với giá trị thực cần có của nó) trực tiếp nhằm vào hành động mua USD để can thiệp vào tỷ giá USD/VND của NHNN. Trong khi có nhiều ý kiến đã và đang lên tiếng phủ nhận, bào chữa cho việc này thì một trong những động thái nên làm, như tôi đã từng khuyến nghị trước đây, là đừng để cho phía Mỹ thấy NHNN trực tiếp mua USD nữa.

Như vậy, việc NHNN không công bố tỷ giá mua giao ngay USD kể từ ngày 31/12/2020 ít nhất cũng tạo ra một suy nghĩ, hay bằng chứng, rằng NHNN sẽ không còn mua giao ngay USD nữa.

PV: Khi không công bố tỷ giá mua giao ngay như vậy liệu có ảnh hưởng đến việc can thiệp vào tỷ giá giao ngay của NHNN?

TS. Phan Minh Ngọc: Việc không công bố tỷ giá mua giao ngay không có nghĩa là NHNN tự tước đi quyền/nghĩa vụ can thiệp tỷ giá giao ngay của họ, bởi nếu có được tiến hành thì việc mua giao ngay USD rất có thể chỉ diễn ra trên cơ sở với từng ngân hàng thương mại, theo tỷ giá thỏa thuận song phương không công bố ra bên ngoài (để không cho thấy NHNN đang mua vào USD với giá đủ để tiếp tục làm VND yếu so với USD).

PV: Việc mở rộng kỳ hạn mua USD lên 6 tháng kèm điều kiện không được huỷ ngang 1 lần sẽ tác động thế nào tới việc quản lý ngoại tệ của các ngân hàng thương mại thưa ông?

TS. Phan Minh Ngọc: Việc mở rộng kỳ hạn mua USD lên 6 tháng thay vì 3 tháng, và với điều kiện ngân hàng thương mại chỉ được hủy ngang một lần, cho thấy việc bán USD có kỳ hạn cho NHNN đã trở nên khó khăn hơn nhiều. Ngân hàng thương mại càng khó có thể biết chắc trạng thái ngoại tệ của mình sẽ ra sao trong thời gian 6 tháng tiếp theo, thay vì 3 tháng như trước, nên rủi ro cao là họ bán USD tại thời điểm hiện tại nhưng vì nhiều lý do không lường trước nào đó sẽ muốn phải hủy ngang hợp đồng bán kỳ hạn này. Nhưng cái khó cho họ (và là sự "cao tay" của NHNN) là họ chỉ được hủy ngang hợp đồng bán kỳ hạn này một lần (nếu không, chắc sẽ bị phạt như cấm được bán ngoại tệ cho NHNN?). Như vậy, chỉ có ngân hàng thương mại nào cực kỳ chắc chắn rằng họ cần phải bán một lượng USD 6 tháng sau tại mức tỷ giá theo quy định hiện tại thì mới muốn tiến hành mua bán kiểu này với NHNN – một điều mà xác suất xảy ra có lẽ không cao.

Do vậy, NHNN hoàn toàn có thể sử dụng sự khó khăn trong bán ngoại tệ của ngân hàng thương mại cho NHNN để làm bằng chứng cho thấy NHNN đã và sẽ không còn tích cực can thiệp vào thị trường ngoại tệ, vào tỷ giá như trước đây nữa, mà để cho chúng tự vận động nhiều hơn theo tín hiệu thị trường.

PV: Nói như vậy thì tới đây NHNN sẽ khó hơn trong việc can thiệp tỷ giá trong trường hợp cần thiết?

TS. Phan Minh Ngọc: Việc tạo ra khó khăn nói trên sẽ không tước đi của NHNN quyền/nghĩa vụ can thiệp tỷ giá khi cần. Việc NHNN vẫn mua USD kỳ hạn (dù dài hơn) thực ra lại đặt trách nhiệm can thiệp tỷ giá của NHNN một cách gián tiếp lên vai ngân hàng thương mại khi các ngân hàng thương mại cần phải tính toán để đảm bảo vẫn phải bán USD cho NHNN khi nguồn cung USD quá dư thừa (sẽ làm cho VND lên giá), mà nếu không bán cho NHNN thì sẽ bị phạt vì vi phạm về quy định trạng thái ngoại tệ của NHNN.

Cộng với hình phạt nếu hủy ngang hơn một lần hợp đồng bán kỳ hạn thì có lẽ ngân hàng thương mại sẽ phải "thà bán nhầm còn hơn bị phạt". Và như vậy thì NHNN một mặt vẫn có cái để trình ra cho thế giới thấy rằng NHNN đã hạn chế can thiệp trực tiếp vào tỷ giá, mặt khác vẫn có trong tay cái van an toàn cho tỷ giá nhằm giữ không cho VND lên giá và/hoặc kịp thời bổ sung USD vào quỹ dự trữ ngoại hối v.v... khi nguồn cung USD trở nên quá dồi dào.

Xin cảm ơn ý kiến của ông!

Tùng Lâm (thực hiện)

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).