Monday 20 June 2022

Hỗ trợ lãi suất có phải là nới lỏng tiền tệ? (Bài đăng trên KTSG, 17/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/ho-tro-lai-suat-co-phai-la-noi-long-tien-te/

Một số báo cáo, nhận định gần đây cho rằng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang  “lệch pha”, đi ngược hướng với thế giới. Trong khi nhiều nước trên thế giới đang theo chiều hướng nâng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát thì NHNN đang (chịu sức ép phải) nới lỏng chính sách tiền tệ bởi đang triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%. Ngoài ra, việc đẩy mạnh đầu tư công cũng được cho là biểu hiện của, dẫn đến nới lỏng chính sách tiền tệ.

Hai nhận định trên là không đúng hoặc chưa đủ cơ sở để kết luận như vậy.

Về nhận định rằng NHNN triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% cũng tức là nới lỏng chính sách tiền tệ, điều này chỉ đúng khi NHNN tăng (thêm) cung tiền. Việc tăng cung tiền để một phần đáp ứng nhu cầu chi trả phần trả lãi tính trên phần dư nợ cho vay doanh nghiệp mà ngân hàng thương mại cho vay doanh nghiệp tại mức lãi suất 2%. Một phần khác của cung tiền tăng thêm có thể dùng để tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại khi họ cho đã cho vay doanh nghiệp theo gói hỗ trợ lãi suất 2% này.

Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn chi trả tiền lãi trả cho mức hỗ trợ 2% lãi suất là từ ngân sách nhà nước, với tổng hạn mức là 40 ngàn tỷ đồng (1). Nói cách khác, NHNN sẽ không (phải) chi ra/in thêm 40 ngàn tỷ đồng bù lãi này, và cơ quan chức năng phải làm việc này là Kho bạc Nhà nước.

Do chi tiêu ngân sách, dù là chi tiêu công, không phải là tiền được cung ứng từ NHNN (điều này sẽ được nói thêm ở phần sau), nên rốt cuộc cung tiền của NHNN không thay đổi khi gói hỗ trợ lãi suất 2% được triển khai. Bởi vậy, việc NHNN (phải) tham gia vào gói hỗ trợ lãi suất 2% hoàn toàn không đồng nghĩa với việc NHNN (phải) nới lỏng chính sách tiền tệ.

Chuyển sang vấn đề NHNN tái cấp vốn để ngân hàng thương mại cho vay theo gói hỗ trợ lãi suất, điều này chỉ là một lựa chọn của NHNN chứ NHNN không nhất thiết phải làm vậy. Chẳng hạn, nếu thấy cung tiền đã ở mức đủ lớn, quá lớn trong năm nay, có thể tăng mạnh thêm áp lực lạm phát, NHNN sẽ không tái cấp vốn (cấp thêm, cấp lại vốn) cho ngân hàng thương mại mà buộc ngân hàng thương mại phải cắt giảm cho vay các doanh nghiệp và lĩnh vực khác không thuộc diện ưu tiên, không là đối tượng của gói hỗ trợ lãi suất. Lúc này, hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN cấp cho ngân hàng thương mại không (cần) thay đổi, và cung tiền của NHNN cũng không (cần) thay đổi. Nói cách khác, việc tham gia của NHNN vào gói hỗ trợ lãi suất cũng vẫn không phải là, không liên quan gì đến nới lỏng chính sách tiền tệ.

Về vấn đề tăng đầu tư công đã và đang được hiểu là nới lỏng chính sách tiền tệ. Như đã nói qua ở trên, nguồn tiền cho đầu tư công là từ ngân sách, có được phần lớn là do thu thuế phí và các khoản trích nộp của doanh nghiệp (nhà nước)... Ngân sách nhà nước nếu có liên quan đến NHNN chỉ là ở góc độ, trong những hoàn cảnh đặc biệt, NHNN cho vay trực tiếp ngân sách. Nhưng những hoàn cảnh dẫn đến cho vay kiểu này là rất hi hữu (và bị cấm ở nhiều nước). Thông thường, NHNN có muốn/bị phải hỗ trợ Ngân sách nhà nước thì chỉ có thể làm một cách gián tiếp, thông qua tăng cung tiền để ngân hàng thương mại mua vào trái phiếu Kho bạc (mà không làm tăng lợi suất trái phiếu). Hoặc hi hữu hơn thì là ngân hàng trung ương sẽ trực tiếp mua trái phiếu chính phủ, một hành động gọi là nới lỏng định lượng xảy ra ở Mỹ.

Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, nhất là trong gói hỗ trợ, kích thích kinh tế 300 ngàn tỷ hiện nay, việc NHNN có hưởng ứng bằng cách tăng cung tiền để hỗ trợ Ngân sách nhà nước hay không vẫn chỉ là một lựa chọn chính sách của NHNN. Nếu họ thấy việc tăng cung tiền này sẽ làm tăng áp lực lạm phát, và NHNN cũng chung đồng thuận với nhiều ngân hàng trung ương khác trên thế giới rằng chống lạm phát cần đến công cụ lãi suất (tăng lãi suất) thì NHNN sẽ không tăng cung tiền. Như vậy thì dù có tăng đầu tư công, chi tiêu công thì cũng không đồng nghĩa với nới lỏng chính sách tiền tệ.

Lưu ý thêm rằng sai lầm được chỉ ra ở trên (về quan hệ giữa tăng đầu tư/chi tiêu công và nới lỏng chính sách tiền tệ) đã xảy ra không chỉ đối với Việt Nam mà còn ngay cả đối với Mỹ. Chẳng hạn, đã có nhiều người ở Việt Nam chỉ trích sự “ngu ngốc” của Bộ trưởng Tài chính Mỹ khi bà này cho rằng gói chi tiêu 1,75 ngàn tỷ đô la của Tổng thống Biden giúp giảm lạm phát hồi tháng 10/2021. Lập luận của những người chỉ trích là lạm phát là do chính phủ tăng chi tiêu nên thực ra gói chi tiêu 1,75 ngàn tỷ đô la lại “đổ thêm dầu vào lửa” chứ không giúp giảm lạm phát.

Như đã nói ở trên, chi tiêu công là một chuyện, ngân hàng trung ương có tăng cung tiền hay không lại là chuyện khác, do đó tăng chi tiêu công có làm tăng lạm phát hay không lại là một chuyện khác nữa. Ngay ở Mỹ, dù chi tiêu công đã tăng mạnh như vậy nhưng mặt khác, Fed lại thắt chặt chính sách tiền tệ, nâng lãi suất, thu hẹp nới lỏng định lượng. Do đó, cho dù chi tiêu công đã tăng mạnh nhưng với chiều hướng thắt ngày càng chặt của chính sách tiền tệ của Fed thì lạm phát ở Mỹ không thể không quay trở lại mức bình thường được. Và Việt Nam cũng (sẽ) vậy!

 ---

(1) https://plo.vn/cap-toc-dua-goi-ho-tro-lai-suat-2-den-doanh-nghiep-post683080.html#:~:text=Ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20(NHNN,h%E1%BA%BFt%2031%2D12%2D2023.

Monday 13 June 2022

Sao lại cấm công ty bảo hiểm kinh doanh bất động sản? (Bài đăng trên KTSG, 10/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/sao-lai-cam-cong-ty-bao-hiem-kinh-doanh-bat-dong-san/

Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XV, Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) được đưa ra thảo luận tại hội trường. Theo dự thảo, doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm... không được kinh doanh bất động sản, với một số ngoại trừ như mua để làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoặc cho thuê trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết...

Trước đó, theo Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 thì các doanh nghiệp bảo hiểm được phép kinh doanh bất động sản. Lý do của việc nghiêm cấm theo dự thảo luật sửa đổi nói trên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, là bởi Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã. Do đó, để đảm bảo thống nhất giữa luật về bảo hiểm và kinh doanh bất động sản, dự thảo luật sửa đổi đã bỏ quy định về cho phép doanh nghiệp bảo hiểm được dùng vốn nhàn rỗi để kinh doanh bất động sản.

Lý do không cho phép doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản như trên là rất khập khiễng.

Không nói đến chuyện Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đòi hỏi tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản (tức gồm doanh nghiệp bảo hiểm) phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã để được phép làm việc này – kinh doanh bất động sản liệu có là hợp lý hay không, nhưng cần khẳng định, về mặt câu chữ, Luật Kinh doanh bất động sản không có điều khoản nào cấm doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản. Bản thân doanh nghiệp bảo hiểm đã là một doanh nghiệp nên họ không phải là đối tượng bị cấm kinh doanh bất động sản theo quy định liên quan này của Luật Kinh doanh bất động sản.

Nếu vẫn cứ “băn khoăn” về chuyện doanh nghiệp bảo hiểm lại “nhảy” sang kinh doanh “trái ngành nghề” là bất động sản thì cần lưu ý rằng Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện tại cho phép doanh nghiệp bảo hiểm mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp khác. Trong khi đó, dự thảo luật sửa đổi không đề cập gì đến cấm doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào các lĩnh vực này nên từ đó suy ra doanh nghiệp bảo hiểm vẫn sẽ tiếp tục được phép đầu tư (gián tiếp) vào các lĩnh vực này (gồm cả việc cho một cá nhân nào đó tiến hành lập một doanh nghiệp bất động sản rồi tiến hành mua lại hoặc nắm sở hữu chi phối doanh nghiệp này). Do đó, dù có bị cấm nhưng bằng cách này hay cách khác thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn có cácch kinh doanh bất động sản một cách hợp pháp.  

Điều quan trọng hơn là, ngoài lý do pháp lý khập khiễng nói trên, việc cấm doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản là việc vô lý, thậm chí rất có hại cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng.    

Thông thường, chiến lược đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm có bốn nguyên tắc. Thứ nhất, các kỳ hạn phải tương ứng với nhau. Tài sản đầu tư phải có kỳ hạn tương ứng với tài sản nợ của doanh nghiệp bảo hiểm, tức có nghĩa là dài hạn, 10 năm hoặc hơn trong tương lai. Thứ hai, tài sản đầu tư phải có rủi ro tín dụng thấp. Doanh nghiệp bảo hiểm không thể mạo hiểm đầu tư vào các tài sản rủi ro cao để rồi lâm vào cảnh mất khả năng chi trả các nghĩa vụ bảo hiểm trong tương lai. Thứ ba, đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phải đa dạng, từ loại hình tài sản đến tính thanh khoản và lĩnh vực đầu tư để luôn đảm bảo dòng tiền ổn định trong mọi hoàn cảnh thị trường. Và thứ tư, doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng yêu cầu vốn an toàn tối thiểu đối với mỗi loại tài sản mà họ đầu tư. Rủi ro của tài sản đầu tư càng cao thì doanh nghiệp bảo hiểm càng phải có dự phòng vốn cao để bù đắp mất mát vốn trong tương lai (1).

Dựa trên các nguyên tắc trên, doanh nghiệp bảo hiểm (nhân thọ), cụ thể là ở Mỹ trong bài này, đầu tư mạnh vào lĩnh vực bất động sản. Bất động sản đối với doanh nghiệp bảo hiểm (ở Mỹ) là kênh đầu tư chủ yếu bởi (họ coi) đầu tư bất động sản là đầu tư dài hạn và có rủi ro tín dụng thấp. Bất động sản cũng mang lại cơ hội cho doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào cả tài sản có thanh khoản cao và kém thanh khoản.

Doanh nghiệp bảo hiểm có ba cách thức đầu tư vào bất động sản: thông qua cho vay trả góp bất động sản thương mại, trực tiếp nắm giữ và kinh doanh bất động sản, và nắm giữ chứng khoán bảo đảm bằng các khoản vay trả góp bất động sản (MBS). Đây là những tài sản đầu tư mang lại cho doanh nghiệp bảo hiểm nguồn thu nhập có thể tiên lượng để đối ứng với các nghĩa vụ chi trả có thể tiên lượng được của họ. Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ đầu tư ít vào các tài sản có tính thanh khoản cao hơn như trái phiếu Kho bạc Mỹ, cổ phiếu công ty niêm yết và tiền mặt. Tổng các tài sản có thanh khoản cao này chỉ chiếm chưa đầy 10% tổng danh mục đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.

Trong lĩnh vực cho vay trả góp bất động sản thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ chiếm khoảng 16% tổng dư nợ trong lĩnh vực này năm 2017 (1). Các khoản cho vay này mang lại nguồn thu nhập ổn định, đa dạng hóa và có chất lượng (rủi ro thấp) cho doanh nghiệp bảo hiểm.

Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ cũng trực tiếp đầu tư vào bất động sản thông qua mua lại, tân trang, và điều hành các tòa nhà thương mại hoặc chung cư. Ngoài nguồn thu nhập ổn định từ tiền cho thuê bất động sản thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm còn được lợi từ sự lên giá của bất động sản trong dài hạn. Riêng trong lĩnh vực này, các nhà kinh tế ước tính cứ mỗi một đô la chi tiêu của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ mang lại 2,64 đô la cho nền kinh tế thực ở Mỹ.

Với kênh đầu tư bất động sản thông qua nắm giữ MBS, đây cũng là một kênh đầu tư mang lại nguồn thu nhập ổn định trong thời gian dài, với rủi ro hạn chế. Thường thì các loại chứng khoán này không có lợi tức cao nhưng chúng giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm đa dạng hóa danh mục đầu tư.

Trở lại với trường hợp của Việt Nam. Hiệp hội bất động sản (HoREA) cho rằng, việc không cho doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản là đúng nhưng nên cho phép đầu tư bất động sản (2). Đây là một nhận định rất... đáng tiếc! Bởi, một mặt, họ đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của (việc khuyến khích) doanh nghiệp bất động sản sử dụng nguồn vốn (nhàn rỗi) của mình đầu tư trở lại nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực bất động sản. Mặt khác, họ lại “cắc cớ” phân biệt “kinh doanh bất động sản” với “đầu tư bất động sản”, như thể họ e ngại dùng hoặc cho rằng “kinh doanh” có ý nghĩa không mấy tích cực, mang tính trục lợi hơn là “đầu tư”, có ý nghĩa đóng góp, làm lợi cho nền kinh tế.  

Thực ra, như với trường hợp của Mỹ nêu trên, các hành động đầu tư đó đều có thể coi là việc kinh doanh (bất động sản). Chẳng hạn, trong việc mua lại và tân trang tòa nhà, chung cư, doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải xem xét nhiều yếu tố để tối đa hóa dòng tiền và lợi nhuận cho họ trong tương lai, kể cả việc lên giá của tòa nhà và hạn chế thấp nhất chi phí tân trang và điều hành (cho thuê) tòa nhà, cũng như tối đa hóa nguồn tiền cho thuê... Đây không phải là kinh doanh (bất động sản) thì gọi là gì?

Họ cũng hoàn toàn có thể bán lại tòa nhà này khi có lãi và khi cần. Theo cách hiểu của HoREA, phải chăng việc bán thu lợi nhuận (trong tương lai) này sẽ không được gọi là đầu tư?

Tóm lại, về mặt ngữ nghĩa, logic, không thể chỉ vì Luật Kinh doanh bất động sản có một quy định hầu như không có gì liên quan đến doanh nghiệp bảo hiểm (dù cố tình gò ép) mà lại đi cấm doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bất động sản. Còn về mặt kinh tế thì càng không có lý do gì để cấm, bởi ngành bảo hiểm cũng có các nguyên tắc và quy định hoạt động an toàn riêng để hạn chế rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán, trong khi làm lợi lớn cho nền kinh tế.

Cái cần quản lý, nếu có, chỉ có thể là giám sát và kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chuẩn hoạt động an toàn này mà thôi. Chứ không phải là cấm họ kinh doanh bất động sản.

----

(1) https://www.centerforcapitalmarkets.com/wp-content/uploads/2019/03/CCMC_InsurancePaper_v2.pdf

(2) https://vneconomy.vn/nghiem-cam-cong-ty-bao-hiem-dau-tu-bat-dong-san.htm

Wednesday 8 June 2022

Để hoạt động kiểm toán, định giá, xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp (Bài đăng trên KTSG, 9/6/2022)

https://thesaigontimes.vn/de-hoat-dong-kiem-toan-dinh-gia-xep-hang-tin-nhiem-chuyen-nghiep/

Câu chuyện về tính chuyên nghiệp, độc lập và đạo đức nghề nghiệp của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực “nhạy cảm” gồm kiểm toán, định giá, và xếp hạng tín nhiệm một lần nữa lại trở nên bức bối sau nhiều vụ lùm xùm trên thị trường chứng khoán, trái phiếu gần đây.

Tình cờ là trong các công việc của mình đã trải qua tại các ngân hàng và tổ chức tài chính tại Singapore, người viết đã từng trực tiếp và gián tiếp làm hoặc có “va vấp” với các lĩnh vực nói trên. Bởi vậy, người viết có một số kinh nghiệm và nhận xét rút ra từ các công việc này.

Trước hết, việc xác định và đảm bảo một vị trí làm việc độc lập, không bị chi phối bởi lợi ích có liên quan đến đối tác mà mình đang làm việc là điều trọng yếu. Chẳng hạn, trong công việc kiểm toán nội bộ, dù các đối tác đều là “người nhà”, tức cùng trong một ngân hàng, tuy ở các chi nhánh khác nhau ở các nước khác nhau, nhưng cán bộ kiểm toán vẫn (phải) coi các đối tác này là các đối tác xa lạ, và mục tiêu của đợt kiểm toán là phải tìm cho ra những vấn đề tồn tại, sai sót của chi nhánh trong việc cấp tín dụng cho khách hàng. Việc đánh giá thành tích của đợt kiểm toán cũng hầu như chỉ dựa vào các phát hiện này (với sự “tâm khục khẩu phục” của chi nhánh bị kiểm toán).

Suy rộng ra, tất cả các doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên cần tuân thủ và đảm bảo nguyên tắc độc lập về lợi ích với doanh nghiệp mà mình đang cung cấp dịch vụ. Nhưng đến đây, một vấn đề khác lại nảy sinh, là nếu cứ độc lập, làm đúng theo chức trách, nhiệm vụ và đạo đức nghề nghiệp mà không “chịu” bị doanh nghiệp khách hàng chi phối, điều khiển thì lại không được khách hàng... thuê!

Lời giải cho vấn đề này đến từ cả nhiều phía. Phía khách hàng sử dụng dịch vụ, nhất là các doanh nghiệp lớn, mà chỉ đi thuê các doanh nghiệp kiểm toán “làng nhàng”, chưa/không có uy tín thì đã tự đặt mình vào tầm ngắm của dư luận và nhà chức trách. Không phải ngẫu nhiên mà các ngân hàng lớn lại đòi hỏi khách hàng vay vốn phải có báo cáo tài chính kiểm toán bởi các doanh nghiệp kiểm toán tên tuổi, quốc tế.    

Vể phía doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, nếu coi việc “đi đêm” với doanh nghiệp khách hàng làm lẽ sống, để giành được hợp đồng, để chung chi với nhau thì hãy tự xác định tương lai của mình là rất may rủi và ngắn ngủi.

Về phía nhà chức trách, họ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phá vỡ cái xu hướng, cái kiểu liên kết ma quỷ này, thông qua công tác thanh tra và xử phạt thích đáng các hành vi phạm pháp liên quan. Chỉ có (tăng cường) làm vậy thì các doanh nghiệp có nhu cầu dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mới có thể chùn tay liên kết với nhau làm bậy để hướng đến hoạt động chuyên nghiệp hơn, đạo đức hơn.

Thực tế của nhiều vụ lùm xùm râm ran từ lâu trong dư luận và chỉ được phát hiện khi đã quá muộn, khi có vấn đề “tình cờ” liên quan nảy sinh cho thấy nhà chức trách đã buông lỏng hoặc yếu kém, thậm chí có cả lợi ích nhóm, trong việc thanh tra, kiểm toán để các liên kết ma quỷ càng có động lực hình thành và hoành hành cho đến nay.

Về phía khách hàng của các doanh nghiệp thuê dịch vụ, chẳng hạn nhà đầu tư mua cổ phiếu hay ngân hàng cho vay, cũng cần nâng cao trình độ và tinh thần cảnh giác với các doanh nghiệp đối tác. Một ví dụ là người viết trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn của một doanh nghiệp thép lớn ở Sài Gòn đã phát hiện việc nhào nặn số liệu trong báo cáo kiểm toán do doanh nghiệp cung cấp, và kết cục là doanh nghiệp này đã bị ngân hàng từ chối cho vay. Hậu quả có thể sẽ còn lớn hơn nếu doanh nghiệp này và doanh nghiệp kiểm toán cho họ bị tố cáo và Việt Nam có cơ chế tiếp nhận và xử lý các tố cáo kiểu này một cách hữu hiệu.

Nhà đầu tư cũng cần thận trọng với các doanh nghiệp có báo cáo tài chính tuy có kiểm toán nhưng lại quá sơ sài, vắn tắt, xem đến thì chỉ cảm nhận được thái độ che giấu, lấp liếm sự thực của doanh nghiệp và cả kiểm toán viên.

Nhận xét thứ hai của người viết là việc tuân thủ quy trình làm việc và các chuẩn mực của nghề nghiệp cũng rất quan trọng. Ví dụ, khi thực hiện kiểm toán nội bộ, người viết phát hiện một số hành vi không tuân thủ đúng quy trình nội bộ (có thể là không cố ý) của một số chi nhánh ngân hàng tại nước ngoài, dẫn đến việc đánh giá không đúng độ tín nhiệm và rủi ro tín dụng của khách hàng. Gạt chuyện đạo đức nghề nghiệp sang bên thì đây chính là tính chuyên nghiệp, lành nghề của cán bộ phân tích, xếp hạng tín nhiệm, đánh giá rủi ro. Khuyến nghị sau kiểm toán cho chi nhánh trong trường hợp này là phải tăng cường đào tạo cho nhân viên về các quy trình, chuẩn mực và kỹ năng liên quan.

Từ chuyện trên suy rộng ra việc xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, vốn đang được coi là lời giải hiệu nghiệm cho, ví dụ, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cần phải được xem xét một cách cẩn trọng hơn. Bởi cùng một doanh nghiệp phát hành, cùng một bộ số liệu, nhưng vào tay các doanh nghiệp xếp hạn tín nhiệm, cán bộ xếp hạng tín nhiệm khác nhau lại cho ra các kết quả xếp hạng khác nhau, kể cả khi không có vấn đề về đạo đức nghề nghiệp hay xung đột lợi ích.

Do đó, trừ khi có một quy trình và chuẩn mực chung thống nhất cho tất cả doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và việc tuân thủ mọi quy trình và chuẩn mực đều như nhau, sự chuyên nghiệp và lành nghề của cán bộ xếp hạng tín nhiệm là như nhau (điều không thể có trên thực tế), kết quả xếp hạng tín nhiệm sẽ luôn khác nhau cho cùng một doanh nghiệp được xếp hạng, dẫn đến việc xếp hạng tín nhiệm chỉ mang tính tương đối, không nhất thiết là cơ sở để nhà đầu tư định giá trái phiếu một cách hợp lý dựa trên rủi ro tín dụng đi kèm của nó.

Điều cuối cùng mà người viết muốn nêu từ kinh nghiệm của mình là về định giá tài sản, doanh nghiệp. Định giá của các doanh nghiệp luôn phải dựa trên các giả định và dự phóng, bên cạnh việc áp dụng phương pháp định giá cụ thể nào trong số các phương pháp định giá có thể áp dụng. Bởi vậy, điều bình thường là các kết quả định giá sẽ khác nhau, thậm chí ở mức độ rất lớn.

Sẽ là bất thường nếu chỉ căn cứ vào kết quả định giá để kết luận doanh nghiệp định giá nào đó là “bất thường”. Sự bất thường này cần phải được phản ánh qua tính hợp lý, khách quan của các giả định và dự phóng, cũng như mức độ chính xác, trung thực của các dữ liệu sử dụng làm cơ sở cho các giả định và dự phóng đó. Nên hầu như chỉ có thể phân biệt và đánh giá doanh nghiệp định giá nào chuyên nghiệp, độc lập và ngay thẳng với những doanh nghiệp còn lại qua những yếu tố này.

Vì chi tiết quy trình định giá thường là không công khai nên đương nhiên là chỉ có cơ quan chức năng, qua các đợt thanh tra, mới có thể biết được doanh nghiệp định giá nào là chuyên nghiệp, độc lập và trung thực. Do đó, cũng chỉ có cơ quan chức năng với các biện pháp xử phạt thích đáng mới có thể buộc các doanh nghiệp định giá phải tự mình tăng cường tính chuyên nghiệp và cẩn thận hơn về đạo đức nghề nghiệp.

Cũng xin được nhắc lại về tầm quan trọng không thể bỏ qua của “tai mắt nhân dân” và cơ chế tiếp nhận và xử lý tố cáo tiêu cực trong tất cả các lĩnh vực nói trên để buộc các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ luôn phải trong tâm thế “băn khoăn”, dè chừng khi không muốn... độc lập!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).