Tuesday 30 August 2022

Một góc nhìn khác về tình hình nợ công (Bài đăng trên KTSG, 25/8/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/mot-goc-nhin-khac-ve-tinh-hinh-no-cong/ 

Bản tin nợ công số 14 của Bộ Tài chính cho thấy một bức tranh rất khả quan về tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay (1). Theo đó, nợ công của Việt Nam giai đoạn 2017-2021 đã giảm rất mạnh, từ mức 61,4% GDP năm 2017 xuống còn 43,1% GDP năm 2021.

Song song với đó là nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng giảm mạnh. Cụ thể, nợ Chính phủ giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống 39,1% năm 2021. Nợ Chính phủ bảo lãnh giảm tương ứng từ 9,1% GDP xuống 3,8% GDP, và nợ chính quyền địa phương từ 1,1% GDP xuống còn 0,6% GDP.

Thực tế có thật sự “đẹp” như những con số thống kê trên cho thấy không?

Tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2021 thực tế có thể đã không giảm nhanh và mạnh như vậy  

Sự giảm mạnh về nợ công chủ yếu diễn ra trong năm 2021. Cụ thể hơn, nợ công giảm từ 61,4% GDP năm 2017 lần lượt xuống còn 58,3%, 55%, 55,9% và 43,1% GDP trong các năm sau đó cho đến năm 2021. Có thể thấy, nợ công trong các năm 2018, 2019, 2020 chỉ giảm độ 1 đến 3 điểm phần trăm mỗi năm, nhưng lại lao dốc, giảm tới gần 13 điểm phần trăm riêng trong năm 2021 so với năm trước đó (2020) và lên đến 18,3 điểm phần trăm nếu so với năm đầu kỳ (2017).    

Điều “thần kỳ” gì đã xảy ra năm 2021 để kéo tụt nợ công nhanh và mạnh đến như vậy?

Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này, hãy bắt đầu từ giá trị tuyệt đối của nợ công. Dư nợ của nợ công bằng tiền đồng đã tăng từ 2,587 triệu tỷ đồng năm 2017 lên 3,283 triệu tỷ đồng.

Trong cùng kỳ, theo số liệu GDP theo giá thực tế (đã điều chỉnh mạnh, làm tăng GDP hàng năm từ 2010 lên trên 25% so với trước khi điều chỉnh) của Tổng cục Thống kê thì GDP của Việt Nam năm 2017 là 6,294 triệu tỷ đồng, tăng lên đến 8,480 triệu tỷ đồng năm 2021. Từ đây suy ra tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam theo giá thực tế là 41,1% năm 2017 và giảm nhẹ xuống còn 38,7% năm 2021.

Ngoài chuyện GDP theo giá thực tế tăng lên giúp làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, một nhân tố khác góp phần kéo giảm tỷ lệ này trong năm 2021 là sự chững lại của dư nợ nước ngoài, được duy trì hầu như không đổi ở mức trên 46 tỷ đô la Mỹ một chút vào năm 2021 so với năm 2017.

Do vậy, dù có sử dụng GDP thực tế thì cũng không thể cho ra được con số phản ánh mức sụt giảm mạnh đến mức thần kỳ về nợ công như báo cáo của Bộ Tài chính. Nói cách khác, nợ công năm 2021 giảm nhanh và mạnh như báo cáo của Bộ Tài chính rất có thể chỉ là kết quả của sự tính toán không chính xác (đã từng xảy ra trước đây và đã được tác giả chỉ ra), chứ không có chuyện nợ công đã giảm một cách thần kỳ trong năm 2021 như đã nêu.

Quan trọng hơn là khả năng trả nợ   

Nợ công tuy được cho là đã giảm mạnh nhưng sự giảm này chính xác là sự giảm của nợ công so với GDP. Chứ còn nếu so với các chỉ số phản ánh khả năng trả nợ như kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và đặc biệt là thu ngân sách nhà nước thì nợ công lại không hề giảm, thậm chí còn tăng lên trong cùng giai đoạn.

Cụ thể hơn, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia (bao gồm nợ công) so với kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2017-2021 lần lượt là 6,1%, 7,0%, 5,9%, 5,7% và 6,2%. Như vậy, nếu so với kim ngạch xuất khẩu thì nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gồm nợ công) đã tăng nhẹ từ 6,1% năm 2017 lên 6,2% năm 2021.

Trong cùng giai đoạn, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách qua các năm lần lượt là 19,7%, 17,1%, 17,4%, 21,2% và 21,8%. Nên cũng có thể thấy rõ rằng gánh nặng nợ công thực sự đã tăng lên đáng kể nếu so với quy mô của thu ngân sách nhà nước, với tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách tăng từ 19,7% năm 2017 lên 21,8% năm 2021.

Từ hai chỉ tiêu phản ánh quy mô thực sự của nợ công nói trên, càng thấy rõ sự bất ổn của con số thống kê về GDP đã điều chỉnh được dùng để phản ánh quy mô nợ công của Việt Nam so với thế giới. Dù biện minh kiểu gì chăng nữa, và dù GDP có “vươn mình” chỉ qua một đêm nhờ việc “điều chỉnh” thì thực tế vẫn là thu ngân sách hàng năm, là con số không thể “điều chỉnh” như GDP, và là nguồn để chi trả gốc và lãi của nợ công, đã không tăng lên kịp với đà tăng của nợ công để rồi Chính phủ ngày càng phải phụ thuộc vào vay nợ mới để trả nợ và lãi vay cũ.

Hàm ý

Tình hình nợ công của Việt Nam trong các năm qua có được cải thiện hay không là tùy vào góc nhìn và số liệu thống kê dùng làm cơ sở. Tuy nhiên, theo cách tính lạc quan nhất, sử dụng chỉ tiêu so sánh là GDP đã bị điều chỉnh mạnh ở Việt Nam, vốn vẫn còn nhiều tồn tại gây tranh cãi, thì nợ công của Việt Nam cũng chỉ được cải thiện một cách khá khiêm tốn trong thời gian qua (từ 41,1% năm 2017 xuống 38,7% năm 2021), chứ không có chuyện giảm “sốc” đến mức thần kỳ như báo cáo của Bộ Tài chính.

Còn theo cách tính toán có tính thuyết phục hơn, đặc biệt khi lấy nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với thu ngân sách, thì sẽ thấy được một bức tranh khá ảm đạm về tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay, chỉ ra sự phụ thuộc ngày càng tăng của Chính phủ  vào vay nợ mới để trả nợ hiện tại (nghĩa vụ trả nợ Chính phủ/thu ngân sách tăng từ 19,7% năm 2017 lên 21,8% năm 2021).    

Từ hiện thực này, điều rút ra là cần tuyệt đối không được chủ quan với ý niệm rằng nợ công của Việt Nam đã giảm mạnh để rồi thoải mái vay nợ trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy đầu tư vào và chi tiêu nhằm đạt được mục đích này kia như khuyến cáo của một số chuyên gia và giới chức hiện nay.

------

https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM241517 

Monday 8 August 2022

Một cái nhìn khác về Nghị định 24 (Bài đăng trên KTSG, 5/8/2022)

https://thesaigontimes.vn/mot-cai-nhin-khac-ve-nghi-dinh-24/

Tại cuộc họp giữa một số doanh nghiệp kinh doanh vàng với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã có vài ý kiến biện hộ cho việc duy trì các nội dung cơ bản của Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (1).

Đại diện công ty SJC cho biết, Nghị định 24 “hiện nay vẫn có tác dụng làm cho thị trường ổn định và ổn định kinh tế vĩ mô. Cùng với đó, Nghị định 24 ban hành cũng làm cho các hoạt động về nữ trang đi vào ổn định, không còn chuyện làm, kinh doanh những nữ trang thấp tuổi”.

Không thấy đại diện công ty SJC đưa ra bằng chứng gì để hậu thuẫn cho nhận định trên nên kiểu nói này chỉ càng làm tăng thêm sự ngộ nhận và rối rắm về thị trường vàng nói chung và tác động của Nghị định 24 nói riêng.

Trước hết, trong việc quy kết rằng Nghị định 24 “vẫn có tác dụng làm cho thị trường ổn định”, cần phải làm rõ “thị trường ổn định” là thị trường nào, và ổn định ở cái nghĩa nào? Nếu đó là thị trường (kinh doanh) vàng thì, trên thực tế, thị trường vàng không hề ổn định kể từ khi Nghị định 24 ra đời năm 2012.  

Bằng chứng là giá vàng SJC, thương hiệu vàng độc quyền của NHNN, vẫn “một mình một chợ”, tăng giảm thất thường với biên độ/mức chênh lệch ngày càng tăng mạnh so với giá vàng thế giới, từ vài trăm nghìn đồng/lượng hồi năm 2012 (là mức “chuẩn” để đánh giá việc vàng trong nước có bị đầu cơ hay không, theo phát biểu của Thống đốc NHNN đương thời) lên đến trên 20 triệu đồng/lượng gần đây.

Thậm chí, giá vàng SJC và vàng miếng trong nước nói chung không hiếm khi còn tăng giảm ngược chiều với giá vàng thế giới. Nên nếu lấy thị trường/giá vàng thế giới làm tham chiếu thì không quá lời khi nói rằng Nghị định 24 không giúp làm thị trường vàng trong nước ổn định hơn so với trước đó, nếu không muốn nói ngược lại.

Về cung cầu, do NHNN được độc quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu trong khi họ đã không nhập vàng miếng từ lâu nay nên, cũng như đã thừa nhận, đã tạo ra sự khan hiếm vàng nguyên liệu trong nước, thậm chí buộc doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức đôi khi phải dùng nguyên liệu là vàng miếng SJC. Điều này càng gây sự bất ổn cho thị trường vàng miếng, vàng nguyên liệu, cũng như giá vàng trong nước.

Tiếp đó là ý của đại diện SJC cho rằng Nghị định 24 có tác dụng làm cho “ổn định kinh tế vĩ mô”. Cũng không rõ ý của họ “ổn định kinh tế vĩ mô” thì cụ thể là ổn định cái gì. Nhưng vì lạm phát là một trong những biến số chính phản ánh ổn định kinh tế vĩ mô, nên ở đây ta có thể “phiên dịch” ý này thành ra là nhờ có Nghị định nên lạm phát của Việt Nam đã được ổn định.

Nếu đại diện SJC lập luận đúng như thế thì lập luận này là “vơ vào”, bởi hiện thực rõ ràng ở Việt Nam là lạm phát được kiềm chế kể từ những năm đầu thập kỷ này trước hoàn toàn nhờ vào sự thay đổi trong lập trường chính sách tiền tệ của NHNN. Theo đó, trong các năm sau này từ khi ban hành Nghị định 24, điều trùng hợp là NHNN đã thận trọng hơn trong việc bơm tiền để thúc đẩy tăng trưởng như họ đã thực hiện một cách bất cẩn trong các năm trước đó, thể hiện ở tăng trưởng tín dụng đã có lúc vọt lên tới trên 30%/năm.

Nói cách khác, ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát được kiềm chế) đạt được trong thời gian qua hoàn toàn là nhờ việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã hợp lý, đúng đắn hơn, chứ không phải đến từ việc thị trường vàng đã “ổn định” nhờ “công lao” của Nghị định 24!

Ý kiến của đại diện SJC nếu có điểm nào đó đôi phần hợp lý thì chỉ là ở điểm cho rằng Nghị định 24 dẫn đến “không còn làm, kinh doanh những nữ trang thấp tuổi”. Với những quy định về điều kiện và kỹ thuật mang tính ràng buộc, đương nhiên việc làm, kinh doanh vàng nữ trang sẽ bị chi phối bởi ý chí của cơ quan chức năng, trong đó có việc kinh doanh vàng nữ trang thấp tuổi. Nên nếu muốn thì điểm liên quan này trong Nghị định 24 là điểm có thể cân nhắc để tiếp tục duy trì, dù vẫn cần phải xem xét sửa đổi bởi chắc chắn nó vẫn còn một số nội dung mang tính hình thức, gây khó khăn không đáng có cho doanh nghiệp một cách không thật sự cần thiết.

Trong buổi gặp gỡ trên, đại diện công ty DOJI cũng cho rằng “trước thời điểm 2012, giá vàng thay đổi liên tục, tác động rất xấu đối với nền kinh tế. Với Nghị quyết 24, NHNN đã quyết định việc sản xuất vàng miếng và sử dụng thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước duy nhất là SJC để trở thành thương hiệu vàng miếng quốc gia. Nếu không thực hiện như vậy thì vàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế, thị trường vàng không chỉ tác động đối với người dân mà còn gây phản ứng dây chuyền cho nền kinh tế”.

Nếu nói về sự “thay đổi liên tục” của giá vàng “tác động rất xấu với nền kinh tế” trước thời điểm 2012 như ý kiến trên thì cũng có thể thấy rõ đây cũng là một ý kiến “vơ vào” khác. Bởi, như trên đã nói, rõ ràng là sự thay đổi của giá vàng còn liên tục và mạnh hơn rất nhiều kể từ sau thời điểm 2012. Nên cũng thật khó mà hiểu được tại sao đại diện công ty DOJI lại cứ cố gán ghép tác dụng của Nghị định 24 với giá vàng một cách phi thực tế như thế.

Tương tự là ý cho rằng nếu không có Nghị định 24 thì “vàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế...”. Điều này là vô lý, bởi trước hết nó dựa vào tiền đề rằng giá/thị trường vàng đã ổn định kể từ khi ban hành Nghị định 24 hồi năm 2012, trong khi trên thực tế thì hoàn toàn không phải vậy, và nền kinh tế có ổn định thì đó là nhờ chính sách tiền tệ thận trọng của NHNN, như đã nói ở trên.

Nói cách khác, ý kiến của đại diện công ty DOJI cũng chỉ là một phát biểu chủ quan, xa rời thực tế để cố gắng gán ghép một cách vô lý với tác động của Nghị định 24.

Bản thân đại diện của NHNN (Vụ Chính sách tiền tệ) trong cuộc gặp trên cũng chưa hợp lý khi nói rằng: “Với sự ra đời của Nghị định 24 đã tháo gỡ được tình trạng trên. Đến nay, các giao dịch trong nền kinh tế đều được thực hiện bằng VND, không còn được thực hiện bằng vàng, nền kinh tế không bị vàng hóa, không bị đô la hóa. Đây là thành tựu quan trọng nhất mà NHNN đã triển khai thực hiện theo quy định của Nghị định 24 và cần được duy trì, bảo vệ”.

Thực tế cần thừa nhận là tình trạng vàng hóa đã giảm, cũng như với tình trạng đô la hóa, và các giao dịch đều được thực hiện bằng VND chủ yếu là nhờ lòng tin vào VND đã được cải thiện, bắt nguồn từ chuyện lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian trước đây đã được khống chế tương đối thành công. Mà để có được thành công này thì chính lại là nhờ chính sách tiền tệ thận trọng hơn của NHNN.

Cách nói trên của đại diện NHNN, vô hình trung, đã phần nào phủ nhận công lao của chính  việc điều hành chính sách tiền tệ đúng đắn hơn của NHNN, và, thay vào đó, lại quy kết một cách không hợp lý cho “công lao” của Nghị định 24.

Tóm lại, Nghị định 24 chắc chắn không có tác động tích cực lên thị trường/giá vàng nói riêng và nền kinh tế nói chung như đại diện các doanh nghiệp và NHNN lập luận. Với chất lượng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN được nâng cao, Nghị định 24 nhìn chung đã trở nên bất cập, cần sửa đổi, thay thế.

----

(1) https://www.anninhthudo.vn/sua-nghi-dinh-24-bo-doc-quyen-vang-mieng-doanh-nghiep-do-du-co-quan-quan-ly-se-can-nhac-ky-post512400.antd

Wednesday 3 August 2022

Để dập được lửa lạm phát… (Bài đăng trên KTSG, 2/8/2022)

https://thesaigontimes.vn/de-dap-duoc-lua-lam-phat/

Hiện nay, nhiều chuyên gia đang cho rằng lạm phát tại Việt Nam xuất phát từ chi phí đẩy nên biện pháp hữu hiệu nhất để chống lạm phát là giảm thuế, đặc biệt là thuế liên quan đến xăng dầu. Việc tăng lãi suất điều hành chưa chắc đã phát huy tác dụng kiềm chế lạm phát.

Nhận định trên đã bỏ sót một số khía cạnh nên hoàn toàn có thể dẫn đến hậu quả còn nghiêm trọng hơn.

Giảm thuế chỉ là một tác nhân

Trước hết, giá năng lượng, xăng, dầu liên tục tăng cao đúng là đã khiến giá cả của tất cả các mặt hàng đều tăng. Tuy nhiên, từ đây suy ra lạm phát của Việt Nam chủ yếu là do chi phí đẩy, và, tiếp theo, để chống lạm phát thì phải cắt giảm thuế xăng dầu để giảm (áp lực) lạm phát thì vẫn chưa hợp lý.

Giảm thuế xăng dầu đúng là sẽ giảm giá giá xăng dầu, giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, doanh nghiệp có giảm giá bán sản phẩm lại hoàn toàn là chuyện khác. Họ sẽ không (tội gì) giảm giá bán nếu không ai, không có áp lực nào bắt họ phải giảm giá tương ứng với mức giảm giá nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào. Họ sẽ chỉ giảm giá nếu nguồn cung sản phẩm cùng loại tăng lên và/hoặc nhu cầu cho sản phẩm đó giảm đi (sẽ nói thêm ở đoạn dưới). Diễn biến của cả hai yếu tố cung và cầu của sản phẩm nào đó không chỉ bị chi phối duy nhất bởi giá nhiên liệu, và quan trọng hơn, theo hướng như tư duy thông thường rằng giá đầu vào giảm thì giá đầu ra (giá bán) cũng giảm tương ứng, hoặc ngược lại...

Cách đây không lâu, KTSG cũng có bài viết trích dẫn kết quả khảo sát cho thấy đến 54% mức tăng giá (ở Mỹ) là do doanh nghiệp chủ động tăng giá chứ không phải do chi phí đầu vào tăng. Cũng trong bài viết có ý kiến của chuyên gia cho rằng một khi mặt bằng giá mới được người tiêu dùng chấp nhận thì doanh nghiệp sẽ không chịu giảm giá dù giá nguyên liệu đầu vào đã nguội đi (1).

Thực tế ở trong nước báo chí cũng đưa tin dù giá xăng đã giảm mạnh nhưng giá cả vẫn chưa hạ nhiệt (2) (3).

Nói cách khác, không có gì đảm bảo rằng ở Việt Nam, khi giá năng lượng, xăng dầu giảm đi thì lạm phát sẽ tự khắc hạ nhiệt. Để điều này xảy ra, cần thêm điều kiện tiên quyết là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải siết chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất điều hành, như nói thêm ở phần dưới.

Nâng lãi suất luôn là một giải pháp căn bản

Chuyển sang ý kiến cho rằng ở Việt Nam rằng nâng lãi suất điều hành chưa chắc đã phát huy tác dụng kiềm chế lạm phát. Có thể vẫn có nhiều người chưa biết hoặc vẫn bán tín bán nghi với câu đúc kết của một giáo sư kinh tế Mỹ rằng lạm phát mọi nơi và mọi lúc chỉ là một hiện tượng tiền tệ. Vận dụng câu này vào trường hợp của Việt Nam hoàn toàn có thể thích đáng.

Cho dù lạm phát của Việt Nam chủ yếu bị chi phối bởi chi phí đẩy, nhưng một khi NHNN đã tăng lãi suất điều hành thì tổng cầu trong nước sẽ suy giảm, đơn giản bởi cầu tín dụng bởi doanh nghiệp và người dân giảm đi, kéo theo nhu cầu đầu tư, tiêu dùng giảm tương ứng. Tại mức cung hiện tại, không thay đổi, cầu giảm sẽ làm giảm giá cả, tức giảm lạm phát. Lấy ví dụ minh họa đơn giản là thị trường bất động sản hiện tại. Với chủ trương siết tín dụng bất động sản, lãi suất cho vay bất động sản tăng lên, giá bất động sản đã có xu hướng chững lại hoặc quay đầu giảm ở nhiều nơi. Giá vật liệu xây dựng, sắt thép cũng bị ảnh hưởng theo đó.  

Như vậy, dù giá năng lượng, xăng dầu tăng lên hoặc đứng ở mức cao, khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chính sách thì lạm phát sẽ bị kiềm chế và sớm hay muộn sẽ phải giảm đi. Nói cách khác, lạm phát luôn là hiện tượng tiền tệ trên khía cạnh là tiền trong nền kinh tế đang có nhiều hơn tương đối so với hàng hóa và dịch vụ tại một mức giá nhất định, và giải pháp tiền tệ luôn là giải pháp căn cơ để trị lạm phát.  

Cần biết thêm rằng Singapore là một nước nhập khẩu hầu như toàn bộ mọi thứ hàng hóa nên nước này hiển nhiên là có lạm phát loại chi phí đẩy. Thế nhưng, họ chẳng cần bận tâm tranh cãi mà thi hành không chậm chễ chính sách tiền tệ thắt chặt (thông qua củng cố tỷ giá nội tệ) ngay khi có dấu hiệu lạm phát bắt đầu tăng tốc.

Trở lại với trường hợp Việt Nam. Ngược lại, việc giảm thuế xăng dầu nói trên diễn ra trong bối cảnh NHNN không siết lại chính sách tiền tệ sẽ càng kích thích tổng cầu, như điều xảy ra với mọi chính sách cắt giảm thuế nói chung từ đông sang tây. Lưu ý là chính sách giảm thuế chỉ có tác dụng, chỉ nên dùng trong trường hợp cần kích cầu do nền kinh tế đang suy thoái và lạm phát ở mức thấp.

Ngoài ra, những người hoài nghi tác dụng của việc nâng lãi suất điều hành cần lưu ý rằng nâng lãi suất sẽ củng cố tỷ giá tiền đồng và, do đó, giảm áp lực lạm phát. Nếu họ ủng hộ và tán dương một đồng bản tệ giữ giá tốt (tiền đồng ít mất giá) so với các đồng bản tệ khác trên thế giới thì họ cũng nên ủng hộ một chính sách tiền tệ thắt chặt hơn ở Việt Nam.

Hỗ trợ có chọn lọc để giảm thiểu tác dụng phụ

Hiển nhiên là khi NHNN nâng lãi suất hoặc Bộ Tài chính không giảm (hoặc thậm chí còn tăng) thuế thì sẽ có nhiều người bị ảnh hưởng. Nhưng điều chỉ đáng và nên quan tâm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu, không có vị thế thị trường lớn để có thể chi phối giá cả. Họ sẽ càng trở nên khó tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng và/hoặc không có đủ nguồn lực để chịu áp lực giá cả đầu vào tiếp tục đứng ở mức cao trong một thời gian (cho đến khi chính sách tiền tệ siết chặt phát huy tác dụng) trong khi không thể tăng giá bán do vị thế thị trường yếu.  

Các chính sách hỗ trợ mang tính chọn lọc trong trường hợp này nên được xem xét và thực thi. Chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay 2% là một trong những chính sách khá hợp lý, với điều kiện làm đúng và làm tốt để không xảy ra tình trạng “dê đi lạc chuồng vào nhà giàu”.

Tóm lại, dù vì lý do gì chăng nữa thì chính sách tiền tệ luôn là công cụ căn bản và hữu hiệu để kiềm chế lạm phát. Giảm thuế xăng dầu mà không kèm với siết chặt chính sách tiền tệ sẽ không bao giờ hạ nhiệt được lạm phát.   

----

(1)    https://thesaigontimes.vn/lam-phat-doanh-nghiep-va-nguoi-giau/ 

(2)    http://www.haiduongtv.com.vn/xem-tin-tuc/gia-xang-dau-giam-gia-ca-hang-hoa-van-chua-ha-nhiet-136686.html

http://www.baodongnai.com.vn/kinhte/202207/gia-hang-hoa-dich-vu-van-chua-ha-nhiet-3126702/

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).