Tuesday 30 April 2019

Xây hệ sinh thái thanh toán điện tử (Bài đăng trên TBKTSG, 1/5/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/288004/xay-he-sinh-thai-thanh-toan-dien-tu.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39 về hướng dẫn dịch vụ trung gian thanh toán. 

Dự thảo này có một số nội dung chính về ví điện tử (VĐT) như: khống chế tổng hạn mức giao dịch (20 triệu đồng/ngày, 100 triệu đồng/tháng với ví cá nhân); nạp tiền vào VĐT phải thông qua thẻ ngân hàng, tài khoản thanh toán hay nhận tiền từ VĐT khác; tổ chức cung ứng dịch vụ VĐT phải áp dụng các biện pháp phù hợp để xác thực các giao dịch; phải hoàn thành liên kết VĐT với tài khoản ngân hàng mới được kích hoạt sử dụng; đơn vị cung ứng dịch vụ không được cấp tín dụng hay trả lãi trên số dư VĐT; và các tổ chức cung ứng dịch vụ phải có công cụ để NHNN giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ...

Trong bối cảnh các loại VĐT đua nhau nở rộ và/hoặc đổ bộ vào Việt Nam nhưng khuôn khổ pháp luật quản lý hoạt động của VĐT vẫn còn rất thiếu, yếu và không theo kịp trào lưu phổ biến VĐT thì việc xây dựng một văn bản pháp luật như dự thảo thông tư nói trên của NHNN là cần thiết. Tuy nhiên, cách thức tiếp cận như trong dự thảo có một số điều nên xem xét lại nếu đặt trong bối cảnh của thanh toán điện tử nói chung, đặc biệt khi tham khảo kinh nghiệm một số nước.
Xây dựng hệ sinh thái thanh toán điện tử ở Singapore
Nhiều nước trên thế giới, gồm cả những nước có sự phổ cập rộng rãi thanh toán điện tử như Trung Quốc và Ấn Độ, thường để cho hệ sinh thái thanh toán điện tử tự hình thành, phát triển nhanh chóng và hoàn toàn được dẫn dắt bởi các chủ thể thương mại, chứ không phải dưới sự “đạo diễn” của nhà nước.
Ngược lại, một số ít nước khác, như Singapore, đã khôn khéo áp dụng một phương thức tiếp cận chắc chắn và chủ động hơn. Theo đó, chính phủ nước này thiết kế một hệ sinh thái bao quanh hệ thống tài chính hiện hữu. Hệ sinh thái này có đầy đủ cơ sở hạ tầng và đặc tính cho phép các chủ thể, các dịch vụ trong đó vừa cạnh tranh vừa bổ sung cho nhau.
Hệ sinh thái nói trên ở Singapore bắt đầu hình thành với việc ngành ngân hàng nước này từ năm 2014 đưa vào áp dụng FAST, một hệ thống thanh toán tức thời 24x7. Đây có thể coi là xương sống của hệ thống thanh toán, cho phép thực hiện thanh toán không chỉ giữa các tài khoản ngân hàng với nhau mà còn giữa người tiêu dùng và các doanh nghiệp.
Từ chiếc xương sống này, Singapore xây dựng các nhánh thanh toán tận dụng thế mạnh của điện thoại di động mà hầu như người Singapore nào cũng có. Tuy nhiên, việc xây dựng cũng theo từng bước, đầu tiên là cho phép thanh toán giữa người sử dụng với người sử dụng (C2C), tiếp đó là doanh nghiệp với người sử dụng (B2C), rồi doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và cuối cùng là người sử dụng với doanh nghiệp (C2B).
Với hình thức C2C thông qua công cụ gọi là PayNow, Singapore cho phép người sử dụng có thể kết nối tài khoản ngân hàng của họ với một số định danh cá nhân (ID) hay số điện thoại di động, qua đó có thể gửi tiền cho người khác.
Ở giai đoạn phát triển tiếp theo là B2C, Singapore cho phép doanh nghiệp tiếp cận PayNow để chi trả cho cá nhân, như trả lương, thưởng, bảo hiểm...
Tiếp đó, doanh nghiệp được phép chi trả cho nhau (B2B) thông qua PayNow phiên bản doanh nghiệp (PayNow Corporate) sử dụng định danh bằng mã số doanh nghiệp riêng có (UEN) và các hậu tố của mã số doanh nghiệp này nếu muốn chi trả cho hàng loạt đối tượng thụ hưởng trong doanh nghiệp này.

Và cuối cùng là việc cho phép thực hiện C2B, là phần khó nhất, bởi người sử dụng khó mà trả tiền cho một cửa hàng nào đó bằng cách tìm và nhập mã UEN của nó. Thay vào đó, mã định danh này của cửa hàng và chi tiết thanh toán sẽ được hiển thị dưới dạng mã vạch QR code để người tiêu dùng quét bằng điện thoại di động và thực hiện thanh toán. Tuy nhiên, có một vấn đề nảy sinh là như vậy sẽ có quá nhiều QR code mà người tiêu dùng không biết là nên quét cái nào (mỗi phương thức thanh toán như VĐT và PayNow lại đưa ra một QR code riêng).
Đó là lý do vì sao hồi tháng 9-2018, Singapore xây dựng và tung ra một QR code tiêu chuẩn và duy nhất dùng cho thanh toán điện tử, gọi là SGQR. Mã duy nhất này cho phép các cửa hàng hiển thị các phương thức thanh toán khác nhau dưới một QR code duy nhất. Đây là một giải pháp đầu tiên trên thế giới.
Bên cạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cho thanh toán điện tử, Singapore còn thực hiện thành công một nhiệm vụ quan trọng nữa là cho phép các tổ chức phi ngân hàng, ví dụ như FinTech (công ty công nghệ tài chính), tham gia vào hệ thống này. Một điểm yếu của VĐT là không phải ngân hàng nào cũng cho phép nạp tiền vào bất cứ loại VĐT nào từ tài khoản ngân hàng. Hơn nữa, trước đây, hai người tiêu dùng phải sử dụng cùng một VĐT thì mới chuyển tiền cho người kia được.
Mọi việc sẽ khác khi các tổ chức cung ứng dịch vụ VĐT tiếp cận được với FAST. Khi đó, người tiêu dùng có thể nạp tiền từ bất cứ tài khoản ngân hàng nào thông qua việc chuyển tiền trên hệ thống FAST, và ngược lại, chuyển tiền từ VĐT trở lại tài khoản ngân hàng. Đồng thời, họ cũng có thể chuyển tiền cho người khác từ bất cứ một VĐT nào miễn là có kết nối với FAST. Lưu ý rằng sự tiếp cận tương tự như thế này của các tổ chức phi ngân hàng vào hệ thống thanh toán tức thời cũng đã được thực hiện ở Ấn Độ, Anh, Hồng Kông và Malaysia.
Quy chế riêng về VĐT
Singapore quản VĐT trong một khuôn khổ pháp luật đơn giản hơn nhiều so với các ngân hàng vì VĐT chỉ được dùng cho thanh toán, và do đó chỉ phải đối mặt với các rủi ro phát sinh từ đó. Cũng bởi vậy, Singapore cấm các nhà cung cấp dịch vụ VĐT được huy động tiền gửi và cho vay. Tuy nhiên, tương lai thanh toán điện tử sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ với nhiều phương thức mới sẽ ra đời và phổ biến, nên các chủ thể tham gia cần được quản chặt chẽ. Dự luật Dịch vụ thanh toán sắp ra đời của Singapore đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu như phải cho người sử dụng được chuyển tiền hai chiều giữa VĐT và tài khoản ngân hàng, cũng như có chất lượng dịch vụ khách hàng tốt. Cho phép tổ chức phi ngân hàng tiếp cận FAST cũng có nghĩa là cả ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng phải cạnh tranh lẫn nhau hơn nữa, nên phải đổi mới và tung ra các dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng cho khách hàng để vươn lên trước đối thủ.
Nhưng tất cả những nỗ lực trên sẽ vô ích nếu khách hàng cảm thấy thanh toán điện tử không an toàn. Nên miếng ghép cuối cùng cần thiết trong bức tranh thanh toán điện tử là quy chế minh bạch, dễ hiểu và làm an tâm tất cả các bên. Sự an toàn của thanh toán điện tử được thể hiện trên ba khía cạnh: (i) an ninh mạng - nhà cung cấp dịch vụ phải có các biện pháp an ninh mạng để người dùng yên tâm sử dụng; (ii) bảo vệ người tiêu dùng - Singapore đưa ra hướng dẫn về xử lý trách nhiệm của các bên khi xảy ra sự cố; và (iii) phải sử dụng thêm mã xác thực đối với các giao dịch lớn.   
Việt Nam cần chủ động hơn
Trong tương lai gần, Việt Nam cần phát triển hệ sinh thái thanh toán điện tử ít nhiều tương đồng như của Singapore, trong đó VĐT ở giai đoạn đơn giản như hiện tại chỉ là một mảnh ghép. Bởi vậy, thay vì quản lý theo tình huống, có tính thụ động, chạy theo thị trường như dự thảo thông tư nói trên (theo kiểu thị trường phát triển đến đâu thì ban hành quy chế đến đó để lấp các lỗ hổng pháp lý mới tạo ra), NHNN cần xây dựng những quy chế có tính bao quát, dài hơi hơn, tạo khuôn khổ pháp lý để sẵn sàng nghênh đón các phương thức thanh toán điện tử mới phát triển xung quanh nền tảng thanh toán của hệ thống ngân hàng, gồm VĐT với các giai đoạn phát triển như của Singapore, và thậm chí là cả phương thức thanh toán qua tài khoản viễn thông mà thực chất nên/phải được coi là một hình thức của VĐT được cung cấp bởi các tổ chức phi ngân hàng - các công ty viễn thông.
Một điều cũng quan trọng, là quy chế về VĐT hay thanh toán qua tài khoản viễn thông hay những phương thức thanh toán điện tử mới sau này tuy không nên quá ràng buộc, phức tạp như với các tổ chức tín dụng, nhưng tối thiểu cần bao gồm những quy định về kết nối với hệ thống thanh toán hiện hữu (và sẽ có) của các ngân hàng, kết nối và chuyển tiền đa chiều giữa các chủ thể (doanh nghiệp, cá nhân, ngân hàng, tổ chức phi ngân hàng), và trách nhiệm từng bên (trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phòng ngừa và xử lý rủi ro, bảo vệ người tiêu dùng, bồi thường thiệt hại...).
Cuối cùng, không chỉ là xây dựng quy chế đón đầu, NHNN còn cần phối hợp với một số cơ quan chức năng khác để nhanh chóng lập ra lộ trình chấp nhận và phổ biến các giai đoạn và phương thức thanh toán điện tử nói chung và VĐT nói riêng, chứ không thụ động ngồi đợi cho đến lúc tự các tổ chức cung ứng dịch vụ tung ra các dịch vụ của mình, như kinh nghiệm của Singapore cho thấy. 

Sunday 28 April 2019

Tự ăn đuôi mình (Bài đăng trên TBKTSG, 28/4/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/288025/tu-an-duoi-minh-.html


Từ mấy năm nay đã phổ biến tình trạng vốn trái phiếu Chính phủ được Kho bạc Nhà nước (KBNN) huy động xong nhưng không giải ngân hết được cho đầu tư công, dẫn đến tình trạng “thừa” vốn, buộc KBNN phải gửi tạm thời vào hệ thống ngân hàng lấy chút lãi tiền gửi trong khi ngân sách vẫn buộc phải trả lãi cao hơn cho nhà đầu tư mua trái phiếu KBNN – một việc được ví von như hình ảnh một con rắn tự ăn đuôi mình.  

Theo giải thích của các bên liên đới thì nguyên nhân “thừa” vốn tại KBNN là do giải ngân đầu tư công chậm. Chẳng hạn, mới đây Bộ Tài chính cho biết tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công quý I/2019 chỉ đạt khoảng 11% dự toán. Có 4 bộ, ngành và 21 địa phương có số giải ngân đạt hơn 20%, có 27 bộ, ngành và 1 địa phương gần như chưa giải ngân được kế hoạch vốn (tỷ lệ giải ngân đạt dưới 1%). Lưu ý thêm rằng năm nào cũng một vài lần hết Thủ tướng rồi đến Phó Thủ tướng thay nhau đôn đốc, nhắc nhở, thúc giục và thậm chí cả đe sẽ kỷ luật các địa phương và cơ quan liên đới giải ngân đầu tư công chậm mà tình hình vẫn không chuyển biến đáng kể.

Thực ra, giải thích như trên là không trúng vấn đề. Cứ cho là giải ngân đầu tư công chậm là căn bệnh trầm kha, không thể khắc phục được trong cơ chế quản lý hiện hành. Lẽ ra như vậy thì KBNN cần phải “thích nghi” với hiện trạng này để chỉ huy động một số vốn trái phiếu tương đương với số vốn đầu tư công dự kiến chắc chắn sẽ được giải ngân trong một khoảng thời gian nhất định.

Nguyên tắc trên nghe thì đơn giản nhưng là nguyên tắc xương sống trong quản lý tài chính công của nhiều quốc gia. Chẳng hạn, Hiệp hội Viên chức Tài chính Chính phủ (GFOA), hiệp hội quy tụ các hội viên là các viên chức trong ngành tài chính công của Mỹ và Canada với sứ mệnh thúc đẩy trình độ quản lý tài chính công của Chính phủ trung ương và địa phương, đã có những khuyến nghị rõ ràng về việc phát hành trái phiếu tài trợ cho chi tiêu công, trong đó có các dự án đầu tư công.

Cụ thể, theo GFOA, cơ quan phát hành trái phiếu cần phải xác định và phối hợp tốt với những người/bên có trách nhiệm giám sát và quản lý các công việc như chi tiêu, dự báo dòng tiền, tiến độ đầu tư và tuân thủ có liên quan đến dự án đầu tư công (1). GFOA đặc biệt lưu ý phải có các lựa chọn về giai đoạn phát hành trong thời gian xây dựng dự án để giảm thiểu thiệt hại tài chính cho ngân khố do tiền lãi ngân khố phải trả cho trái chủ lớn hơn lãi cho vay lại (ví dụ, gửi tại ngân hàng thương mại).

Như vậy, với trường hợp của Việt Nam, tiền đọng tại KBNN buộc phải đem gửi ngân hàng, trước hết cần chỉ ra rằng KBNN với tư cách là cơ quan phát hành trái phiếu đã không phối hợp tốt với các cơ quan chức năng ở các bộ, ngành và địa phương có dự án đầu tư công để đánh giá tình hình triển khai dự án đầu tư công và xác định được tiến độ phát hành cũng như số vốn trái phiếu phát hành cần thiết tương ứng, dẫn đến tình trạng lượng trái phiếu phát hành thường xuyên không khớp và lớn hơn tiến độ giải ngân các dự án đầu tư công tại các bộ, ngành và địa phương.

Có thể sẽ có ý kiến bào chữa rằng KBNN chỉ là nơi thực hiện nhiệm vụ huy động vốn (phát hành trái phiếu) đại diện cho Chính phủ, mà cụ thể là Bộ Tài chính. Bộ này mới là nơi có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để lập kế hoạch thu xếp vốn, trong đó có phát hành trái phiếu, khi nào và bao nhiêu, để KBNN thực hiện.

Dù thực tế đúng như vậy thì bản chất sự việc không thay đổi. Rõ ràng, đã tồn tại từ lâu chuyện cơ quan nào cũng chỉ lo việc của mình mà không (cần) bận tâm đến việc phối hợp với các cơ quan khác có liên quan trong lĩnh vực mình phụ trách. Nếu đây là lỗ hổng trong các luật liên quan về nhiệm vụ và quy chế làm việc của Bộ Tài chính, KBNN và các bộ, ngành, địa phương khác thì cần phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc và phối hợp của các đơn vị này, buộc họ phải có sự hợp tác, phối hợp nhịp nhàng, kịp thời. Kết quả của sự tuân thủ pháp luật sẽ được thể hiện và đánh giá bởi chính tỷ lệ đọng vốn trái phiếu trên tổng số lượng trái phiếu phát hành. Theo đó, chừng nào còn tiếp diễn tình trạng thừa đọng vốn trái phiếu KBNN vượt trên một tỷ lệ trần ấn định nào đó thì Bộ Tài chính sẽ phải chịu trách nhiệm đầu tiên mà không thể đổ lỗi do những lý do khách quan hoặc cho một bên thứ ba nào đó.

Ngược lại, nếu pháp luật hiện hành đã có đầy đủ các quy định và quy chế phối hợp liên quan đến phát hành, giải ngân vốn trái phiếu KBNN cho các dự án đầu tư công thì xem ra căn bệnh không giải ngân được vốn trái phiếu là vô phương cứu chữa, bởi, cũng như vô vàn căn bệnh hiện tại khác trong cơ chế hiện thời, nguyên nhân sẽ được quy về lỗi... hệ thống!

(1)    https://www.gfoa.org/investment-and-management-bond-proceeds

Thursday 25 April 2019

Thấy gì từ quy định 'siết' ví điện tử? (Bài đăng trên NDH, 25/4/2019)

http://ndh.vn/thay-gi-tu-quy-dinh-siet-vi-dien-tu--20190424015132816p4c149.news


Từ nhiều năm nay Chính phủ đã có chủ trương nhất quán là thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Chủ trương đúng đắn này nhằm mục đích tạo thuận lợi cho các chủ thể trong nền kinh tế khi các giao dịch thanh toán được thực hiện mà không dùng tiền mặt, trong khi vẫn phải đảm bảo an ninh, an toàn và phòng chống rửa tiền.

Chủ trương trên đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình thanh toán không dùng tiền mặt, mà gần đây hơn là thanh toán qua tài khoản viễn thông và qua ví điện tử. Một trong những khác biệt chủ yếu của hai loại hình thành toán này là ở việc cần hoặc không cần có liên kết với ngân hàng.

Cụ thể, với thanh toán qua tài khoản viễn thông, việc nạp tiền dường như là không cần phải có tài khoản ngân hàng, thông qua các dịch vụ của hệ thống ngân hàng, và/hoặc có Internet. Khi nói về hình thức thanh toán này, một số quan chức liên đới và đại diện một số hãng viễn thông cho rằng hình thức thanh toán này sẽ phát triển và rất có ý nghĩa ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi hệ thống ngân hàng khó vươn tới và bao phủ, nơi người dân ít tiếp cận được với các dịch vụ ngân hàng hoặc tỷ lệ người có tài khoản ngân hàng thấp, và/hoặc không có Internet.

Trong khi đó, với kênh thanh toán qua ví điện tử, việc nạp tiền vào ví điện tử chỉ được thực hiện theo 2 cách: thông qua tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách. Quy định này mới được Ngân hàng Nhà nước (NHNN ) đề xuất trong  dự thảo Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (sau đây gọi tắt là Thông tư).

Quy định trong dự thảo Thông tư trên của NHNN là phù hợp với thông lệ quốc tế, tại những nước đã phát triển và kể cả đang phát triển, nơi có sự phổ biến rộng rãi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Ví dụ, tại Singapore hay Ấn Độ, mọi hình thức thanh toán điện tử đều phải nối kết với ngân hàng. Ngược lại, tại những nước này, hoặc là không có/không được phép sử dụng thanh toán qua tài khoản viễn thông, hoặc là phải nối kết với ngân hàng nếu muốn dùng các dịch vụ thanh toán trên điện thoại (xem thêm về vấn đề này  tại https://www.thesaigontimes.vn/285172/them-mot-con-en-thi-van-chua-co-mua-xuan.html).

Xét về độ tiện lợi, rõ ràng hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông là tiện lợi hơn hầu hết các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác do có sự linh hoạt trong việc nạp tiền vào tài khoản viễn thông dùng để thanh toán – hoặc bằng tiền mặt (thẻ cào), hoặc bằng chuyển khoản, thẻ ngân hàng v.v... Trong khi đó, như đã thấy trong dự thảo Thông tư, việc nạp tiền vào ví điện tử chỉ được thực hiện qua ngân hàng, dùng sản phẩm của ngân hàng (tài khoản, thẻ ghi nợ), mà thiếu đi kênh tiền mặt (thẻ cào).

Nhưng xét đến mục tiêu đầy đủ của thanh toán không dùng tiền mặt, không chỉ phải đảm bảo sự tiện lợi, mà còn phải đảm bảo những yêu cầu về an ninh, an toàn, và phòng chống rửa tiền thì rõ ràng hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông vừa không thực sự là một kênh thanh toán không dùng tiền mặt, vừa không đảm bảo được các yêu cầu này.

Cụ thể hơn, việc cho phép nạp tiền mặt (bằng thẻ cào) vào tài khoản viễn thông, dù ở những nơi không có dịch vụ ngân hàng và/hoặc không có Internet, trước hết là đã vi phạm nguyên tắc thanh toán không dùng tiền mặt. Người sử dụng vẫn phải dùng tiền mặt để mua thẻ cào rồi nạp tiền vào tài khoản viễn thông, hoặc nạp tiền tại các chi nhánh, đại lý của công ty viễn thông. Sự tiện lợi kỳ vọng ở việc thanh toán không dùng tiền mặt như vậy đã giảm đi nhiều.

Quan trọng hơn, với việc chấp thuận nạp tiền vào tài khoản bằng tiền mặt thì dù công ty viễn thông có muốn/bị yêu cầu kiểm soát tài khoản của người sử dụng (như cách ngân hàng kiểm soát tài khoản của chủ tài khoản) họ cũng không thể có đầy đủ và rõ ràng các thông tin cần thiết để thực hiện các yêu cầu về phòng chống rửa tiền (ví dụ, nguồn tiền từ đâu, ai chuyển, bao nhiêu, khi nào v.v...).

Còn với kênh thanh toán qua ví điện tử, việc phải có liên kết, gắn liền với ngân hàng và dịch vụ ngân hàng như dự thảo Thông tư tuy sẽ hạn chế phần nào phạm vi phủ sóng của nó trong dân chúng, nhưng đây vẫn là một giải pháp thanh toán phi tiền mặt dung hòa tốt hơn giữa mức độ tiện lợi và phòng chống rửa tiền, vốn không thể xem nhẹ hoặc bỏ qua.

Sẽ có nhiều người lập luận, bênh vực cho hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông rằng kênh này chỉ dùng để thanh toán những khoản nhỏ như mua vé máy bay, đi chợ, đi du lịch v.v... nên dù có vi phạm nguyên tắc phòng chống rửa tiền thì hậu quả cũng không nghiêm trọng!

Nhưng việc không quy định một mức trần giá trị giao dịch theo ngày và theo tháng tương tự như với quy định trong dự thảo Thông tư về ví điện tử (không quá 20 triệu đồng/ngày, 100 triệu/tháng), thì dù chỉ là những giao dịch “nhỏ” gồm mua vé máy bay, mua tour du lịch, đi chợ v.v... tổng giá trị giao dịch thanh toán qua tài khoản viễn thông nếu được dùng thường xuyên, đặc biệt với mục đích rửa tiền, sẽ không còn là “nhỏ” chút nào nữa, dễ dàng lên đến tiền tỷ.  

Tóm lại, qua phân tích bên trên, có thể thấy rằng quy định như trong dự thảo Thông tư về hình thức nạp tiền vào ví điện tử là hợp lý và xác đáng, xét từ góc độ an ninh, phòng chống rửa tiền. Kể cả việc áp đặt hạn mức chi tiêu theo ngay, theo tháng trong dự thảo cũng là hợp lý bởi hiện tại việc thanh toán qua ví điện tử vẫn còn nhiều rủi ro, dễ gây thiệt hại cho chủ ví (ví dụ, khi đánh mất điện thoại hoặc bị hack tài khoản), do đó, cần phải có quy định hạn mức để giảm thiểu thiệt hại từ những rủi ro này. Tương tự như vậy là các quy định khác trong dự thảo Thông tư, gồm việc NHNN sẽ giám sát tổng số ví điện tử, tổng số dư của tất cả khách hàng, và tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải nắm được thông tin và xác minh thân nhân người sử dụng.

Tương ứng với nhận định trên, có thể thấy rằng hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông chưa đảm bảo được các yêu cầu của thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó, nếu muốn cấp phép phổ biến hình thức này thì trước mắt cần đặt ra một số quy định tối thiểu, gồm (i) không được phép nạp tiền mặt vào tài khoản viễn thông dùng để thanh toán; (ii) đặt hạn mức giao dịch theo ngày và theo tháng (tham khảo quy định của NHNN); (iii) công ty viễn thông phải nắm được thông tin và xác minh thân nhân người sử dụng, phục vụ cho công tác thanh tra, giám sát ngành khi cần; và (iv) công ty viễn thông phải báo cáo định kỳ và bất thường cho NHNN số lượng, số dư tài khoản viễn thông dùng để thanh toán.

Trên hết, cần lưu ý một điều rằng việc thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam cần phải được cấp phép và chịu sự theo dõi, giám sát, chế tài của cơ quan chức năng về tiền tệ, trong trường hợp này chính là NHNN. Để cho không phải là một sự “lách luật”, mọi “sáng kiến” thanh toán cần phải bị loại bỏ chừng nào vẫn có khía cạnh nào đó vi phạm nguyên tắc này.

Tuesday 23 April 2019

Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: Giảm thuế thế nào, và rồi còn gì nữa? (Bài đăng trên TBKTSG, 23/4/2019, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/td/287626/ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-giam-thue-the-nao-va-roi-con-gi-nua.html


Bộ Tài chính vừa công bố dự thảo tờ trình Chính phủ về việc xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) xuống còn 15-17% (từ mức 25% áp dụng trước 1/7/2013, và 20% từ 1/7/2013).

Theo Bộ Tài chính, một trong những mục tiêu, yêu cầu mà dự thảo nhắm đến là hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh chuyển đổi hoạt động sang mô hình doanh nghiệp; tiếp tục thúc đẩy DNNVV phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, phù hợp với xu hướng phát triển, phù hợp với các cam kết quốc tế cũng như thông lệ quốc tế, qua đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và tăng việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, việc giảm thuế suất thuế TNDN cho DNNVV như trên trước hết xem ra là chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo điều 10 của luật này thì DNNVV “được áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp” (tác giả nhấn mạnh). Như vậy, dường như dự thảo đã có thiếu sót khi không có quy định cụ thể thêm về thời hạn mà DNNVV được áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi 15-17%. Điều này không chỉ là trái với tinh thần của Luật Hỗ trợ DNNVV mà còn sẽ tạo ra thất thoát thu ngân sách đáng kể do DNNVV được ưu đãi quá mức.

Tiếp đó, về cơ sở việc đề xuất thuế suất TNDN 15-17%, Bộ Tài chính nêu kinh nghiệm cụ thể ở sáu nước gồm Brazil, Hà Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc. Đáng chú ý là trong số sáu nước này, chỉ có duy nhất Trung Quốc là áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi đồng mức cho mọi DNNVV (20%, so với thuế suất phổ thông 25%), trừ một số giai đoạn ngắn trong khoảng thời gian từ 2015 đến 2017 có áp dụng thuế suất thuế TNDN khác nhau tùy theo mức thu nhập chịu thuế TNDN (nhỏ hơn 200.000 NDT và từ 200.000 đến 300.000 NDT).

Năm nước còn lại hoặc là không có ưu đãi cho DNNVV mà chỉ có biểu thuế TNDN lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế (Brazil, Hà Lan, và Hàn Quốc), hoặc có thuế suất thuế TNDN lũy tiến áp dụng riêng cho doanh nghiệp có vốn góp nhỏ hơn mức cụ thể nào đó (thay vì thuế suất phổ thông 24%, Malaysia áp dụng thuế suất 19% cho 500.000 ringgit thu nhập chịu thuế đầu tiên đối với doanh nghiệp thường trú có vốn góp từ 2,5 triệu ringgit trở xuống; trên mức này thì chịu thuế suất phổ thông 24%), hoặc nếu có ưu đãi cho DNNVV thì chỉ được áp dụng trong một số giai đoạn ngắn (Thái Lan có một mức thuế TNDN 20% nhưng DNNVV được miễn hoặc giảm thuế TNDN từng năm trong giai đoạn 2016-2017).

Như vậy, điều có thể rút ra từ kinh nghiệm của sáu nước trên là, nhìn chung, trên thế giới việc áp dụng thuế suất ưu đãi đồng mức cho DNNVV chỉ là hãn hữu. Việc giảm, miễn thuế cho DNNVV, nếu có, thì chỉ diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn (thường là một năm) như là một giải pháp chính sách lâm thời. Và thay vì áp dụng đồng mức thuế suất ưu đãi cho DNNVV, xu hướng chung thường là áp dụng thuế suất lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế.     

Do đó, việc Bộ Tài chính dùng kinh nghiệm của sáu nước nói trên để làm cơ sở cho việc đề xuất áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi đồng mức 15-17% cho DNNVV ở Việt Nam là không mấy thuyết phục.  Thay cho mức thuế suất đồng mức này, có lẽ Bộ Tài chính nên đề xuất thuế suất lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế/doanh thu của DNNVV thì xác đáng và thuyết phục hơn. Và đương nhiên là theo hướng này thì khả năng thất thu ngân sách cũng sẽ giảm thiểu đi do chỉ thực sự những doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế thấp (và thường gắn liền với quy mô nhỏ và rất nhỏ - là đối tượng cần được hỗ trợ nhất) mới được hưởng ưu đãi thuế.

Việc đánh thuế lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế cũng nhất quán, đúng với giải trình của Bộ Tài chính rằng: “Từ thực tế đa số doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó các doanh nghiệp càng có quy mô nhỏ thì càng dễ bị tổn thương trước những biến động của nền kinh tế, môi trường kinh doanh, trước sự cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế” (người viết nhấn mạnh). Nói cách khác, việc đánh thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên ít nhiều tương tự như việc đánh thuế thu nhập cá nhân, cần dựa trên nguyên tắc càng nhỏ (về quy mô, về thu nhập) thì càng có mức thuế thấp, và ngược lại, dù số lượng thuế suất có thể ít hơn.

Cuối cùng, với mục tiêu là hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh chuyển đổi hoạt động sang mô hình doanh nghiệp, Bộ Tài chính kỳ vọng việc ưu đãi thuế TNDN và miễn thuế TNDN (trong hai năm) sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ trong khuyến khích nhiều hộ, cá nhân kinh doanh chuyển lên mô hình doanh nghiệp, hướng tới mục tiêu đạt một triệu doanh nghiệp vào năm 2020. 

Tuy vậy, cần lưu ý rằng, như đã nêu ở trên, việc miễn giảm thuế nhanh và mạnh cho DNNVV từ năm 2013, kết hợp với hàng loạt giải pháp “đồng bộ và quyết liệt” khác, dường như vẫn không có nhiều tác dụng trong việc theo đuổi mục tiêu này, mà bằng chứng sống động nhất là cho đến nay cả nước mới chỉ có hơn 600.000 doanh nghiệp đủ mọi thành phần và quy mô đang hoạt động, thấp xa so với mục tiêu một triệu doanh nghiệp vào năm sau, 2020.

Hơn nữa, việc chuyển đổi từ cá nhân, hộ kinh doanh lên doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào lợi ích mang lại từ việc chuyển đổi này. Nếu lợi ích từ ưu đãi thuế, miễn thuế (trong hai năm) khi chuyển thành doanh nghiệp không bằng lợi ích khi giữ nguyên là cá nhân, hộ kinh doanh (để dễ trốn thuế, khai thấp thuế, ít bị nhũng nhiễu, ít phải “bôi trơn” cơ quan công quyền do phải “xin” đủ thứ nếu là doanh nghiệp...) thì sẽ không mấy ai muốn sự “nâng cấp” này. 

Do đó, điều mà Bộ Tài chính cần và nên làm trước khi đề xuất ưu đãi, miễn thuế TNDN là tiến hành một cuộc khảo sát, đánh giá thực tế và toàn diện về tác động của các giải pháp chính sách ưu đãi và hỗ trợ từ trước đến nay đối với DNNVV, từ đó có cơ sở để quyết định có tiếp tục ưu đãi nữa không và nên ưu đãi thế nào cho phù hợp nhất, nhằm vừa khuyến khích được DNNVV một cách có hiệu quả, vừa không làm tăng gánh nặng thâm hụt ngân sách.

Trong trường hợp giải pháp giảm, miễn thuế TNDN thực sự phát huy tác dụng thì vẫn cần coi đó chỉ là một trong những giải pháp và công cụ cần thiết để khuyến khích và hỗ trợ DNNVV. Nhưng do đã được nêu rõ trong Luật Hỗ trợ DNNVV, nên điều mà các cơ quan chức năng cần làm không phải là tìm thêm, đề xuất những giải pháp hỗ trợ mới.

Thay vào đó, việc trước mắt cần làm là khẩn trương ban hành ngay các văn bản luật cụ thể để hiện thực hóa các giải pháp hỗ trợ nêu trong Luật Hỗ trợ DNNVV. Lưu ý rằng việc này vẫn chưa được làm tốt, minh chứng là dù luật này được ban hành từ tháng 6/2017 nhưng cho đến nay giải pháp về thuế nói trong bài này mới chỉ được đưa ra xem xét dưới dạng dự thảo tờ trình Chính phủ và sẽ còn phải trải qua một quá trình dài nhiều tháng nữa trước khi được Quốc hội thông qua.

Và cũng như với mọi văn bản pháp luật khác ở Việt Nam, từ văn bản đến hiện thực là một khoảng cách lớn nên điều cần làm tiếp theo là tổ chức thực hiện nghiêm túc các giải pháp được luật hóa để hỗ trợ DNNVV, dù đây được nhình nhận trước sẽ là một quá trình chông gai. Điều này là có cơ sở vì chỉ cần nhìn vào, ví dụ, kết quả thực tế của quyết tâm của Chính phủ xóa bỏ rào cản, cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp diễn ra từ nhiều năm nay (mà, theo khảo sát mới nhất, có đến 58% doanh nghiệp trong nước vẫn còn bị nhũng nhiễu, 54% doanh nghiệp vẫn phải trả chi phí bôi trơn...).       

Monday 22 April 2019

Basel II: Hoãn rồi sẽ hoãn mãi! (Bài đăng trên CafeF, 22/4/2019)

http://cafef.vn/basel-ii-hoan-roi-se-hoan-mai-20190422212756025.chn


Nhằm nâng cao tín an toàn và sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ năm 2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai lộ trình thực hiện chuẩn mực an toàn vốn theo Basel II. Theo đó, NHNN đặt ra mục tiêu có 10 ngân hàng thương mại (NHTM) cụ thể được chọn thí điểm để triển khai áp dụng thành công các chuẩn mực Basel II vào đầu năm 2020. Tiếp đó, vào đầu năm nay, NHNN cho biết đang tiếp tục thẩm định và xác nhận thêm 7 thành viên mới triển khai thành công Basel II ngay trong năm 2019, trước thời hạn quy định 2020 (1).

Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại, mới chỉ có tổng cộng 6 ngân hàng là Vietcombank, VIB, OCB, MB, VPBank, và TPBank được NHNN công nhận, cho phép áp dụng trước thời hạn các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN (được xây dựng dựa theo Basel II). Đáng lưu ý là OCB, VPBank và TPBank không phải là ngân hàng nằm trong số 10 ngân hàng ban đầu mà NHNN chọn thí điểm thực thi Basel II. Như vậy, còn ít nhất là 7 ngân hàng được chọn thí điểm nhưng vẫn chưa đạt chuẩn Basel II, trong khi từ nay đến thời hạn đầu năm 2020 thời gian không còn nhiều.

Trước khả năng “vỡ kế hoạch” cán đích thực hiện chuẩn mực Basel II, NHNN có xu hướng mở rộng thêm đối tượng chưa phải áp dụng Thông tư 41 là một số ngân hàng chưa đáp ứng quy định CAR, ngoài các ngân hàng được đặt vào diện kiểm soát đặc biệt. 

Việc “đặc cách” lùi thời hạn áp dụng Basel II được coi là phù hợp và tất yếu trước đòi hỏi thực tế, chủ yếu trên cái nghĩa là không lùi thì nếu “xử” mạnh tay sẽ gây tình trạng ngưng trệ hoạt động, gây bất lợi cho hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

Cách tư duy trên đã xem nhẹ rủi ro “nhờn” chính sách của các ngân hàng. Rõ ràng là người ta hy vọng rằng nếu được cho thêm thời gian thì các ngân hàng hiện chưa đạt chuẩn mực Basel II sẽ (phải) đạt trong một thời hạn trong tương lai. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu các ngân hàng “dưới chuẩn” này tin rằng NHNN sẽ không dám làm mạnh tay với họ khi họ tiếp tục “nhỡ” đích một lần nữa trong tương lai, đặc biệt với những ngân hàng “quá to để cho phá sản”, chủ yếu là những NHTM có vốn nhà nước?   

Cần lưu ý rằng các NHTM được chọn thí điểm áp dụng Basel II thường là những NHTM mà NHNN cho rằng có nhiều cơ hội thực hiện thành công hơn các NHTM khác. Họ cũng đã có cả một lộ trình dài nhiều năm để chuẩn bị. Vậy mà vẫn thất bại.

Trong khi đó, một số các NHTM khác có hoặc không có trong danh sách 10 ngân hàng thí điểm vẫn thành công trước hạn. Điều này cho thấy vấn đề nằm phần lớn ở sự quyết tâm, tự nguyện, tự giác, coi việc đạt chuẩn Basel II là vấn đề không phải chỉ là để lấy “số má” với thiên hạ, mà là vấn đề sát sườn, sống còn với hoạt động kinh doanh của những ngân hàng đã thành công với Basel II. Chắc chắn họ không có cái rủi ro đạo đức là không làm được thì NHNN cũng không dám làm gì mình.

Do đó, với những ngân hàng (có khả năng) không đạt mốc đầu năm 2020 và những cái mốc sau đó, cần được mạnh tay xử lý như hạn chế tăng trưởng tín dụng tối đa, kỷ luật ban lãnh đạo ngân hàng, đặt dưới diện kiểm soát đặc biệt với lộ trình nghiêm ngặt và nghiêm khắc thực hiện cho bằng được chuẩn mực Basel II. Làm được như vậy sẽ vừa không những bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và sự an toàn, phát triển của hệ thống, mà còn bảo đảm được sự công bằng với những NHTM đã cố gắng và thành công trước/đúng hạn.

Động thái xử lý quyết liệt, nghiêm khắc như đề xuất bên trên của NHNN sẽ còn có tác dụng rất quan trọng là thu hẹp khoảng cách quá lớn trong chuẩn mực hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam với khu vực và thế giới, xóa đi hình ảnh lạc lõng, tụt hậu của ngân hàng Việt Nam trong con mắt bên ngoài. Bởi, trong khi Việt Nam vẫn còn đang loay hoay với Basel II thì các nước khu vực và thế giới đã tích cực thực thi tiêu chuẩn Basel III kể từ những năm đầu thập kỷ này và được dự kiến hoàn thành vào đầu năm 2022. Chuẩn mực Basell III cao hơn nhiều so với Bassel II, thể hiện ở tiêu chí vốn cấp 1 khắt khe hơn, phải có các biện pháp đối phó với các biến động chu kỳ (ví dụ, phải để nhiều vốn dự trữ hơn khi ngân hàng mở rộng tín dụng), và tuân thủ các hạn mức về tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản.

Cho đến tháng 3/2018, đã có 27 nước thành viên của Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel (BCBS) đã thực thi quy định về vốn an toàn tối thiểu theo mức độ rủi ro của tài sản, về tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản, và tỷ lệ vốn dự trữ chống đỡ các cú sốc chu kỳ theo chuẩn mực Basel III (2). Lưu ý thêm là trong số 27 nước này có cả những thành viên đang phát triển của ASEAN như Indonesia và các nước đang phát triển trong khu vực như Ấn Độ và Trung Quốc, bên cạnh các nước đã phát triển như Hong Kong, Singapore, Nhật và Hàn Quốc.

Ngoài ra, còn có đến hơn 100 nước phi thành viên của BCBS đã có chiến lược thực thi Basel III trên 5 chỉ tiêu cơ bản của nó, gồm cơ chế vốn tối thiểu theo rủi ro, tỷ lệ đòn bẩy, những khoản cho vay lớn, tỷ lệ thanh khoản, và tỷ lệ cấp vốn ổn định ròng (NSRF) (3).

Tóm lại, trước thực trạng khá thất vọng về việc thực thi Basel II ở Việt Nam, NHNN nên lấy đây làm lý do và động lực để thực hiện một cuộc cải cách toàn diện và cơ bản trong hệ thống ngân hàng nhằm phát triển và tiệm cận với chuẩn mực của khu vực và thế giới.

(1) http://ndh.vn/tham-dinh-them-7-ngan-hang-chuan-bi-ap-dung-basel-ii-20190110084253720p149c165.news

(2) https://www.bis.org/bcbs/publ/d440.pdf

(3) https://www.bis.org/fsi/publ/insights11.pdf

Sunday 21 April 2019

Siết cho vay trên 3 tỉ đồng để mua nhà? (Bài đăng trên TBKTSG, 22/4/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/287608/siet-cho-vay-tren-3-ti-dong-de-mua-nha-.html


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đưa ra lấy ý kiến cho dự thảo Thông tư tư về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Một trong những điểm mới, quan trọng của dự thảo là sự điều chỉnh tăng gấp 3 lần về hệ số rủi ro cho vay của ngân hàng lên 150% với những khoản cho vay cá nhân phục vụ nhu cầu đời sống có số dư nợ gốc từ 3 tỷ đồng trở lên. Với khoản dư nợ gốc dưới 1,5 tỷ đồng thì hệ số rủi ro vẫn là 50%.

Câu hỏi đầu tiên liên quan đến quy định trên là tại sao mốc 3 tỷ đồng lại được chọn, và điều này có ý nghĩa gì?

Có thể nói là mốc 3 tỷ đồng là mốc để phân loại bất động sản mà người mua muốn nhắm đến. Vì ngân hàng chỉ cho vay đến một tỷ lệ nhất định trong giá trị/giá bán bất động sản mà người vay muốn mua, chẳng hạn tối đa là 70%, nên suy ra tiếp là giá trị bất động sản mà người vay tiềm năng của ngân hàng nhắm đến là trên 4 tỷ đồng. Như vậy, bất động sản này có thể được xếp vào loại trung cao cấp.

Nói cách khác, đối tượng mua và phân khúc bất động sản này không thuộc dạng được ưu tiên, vì, trước hết, không phải là... đại trà, là số đông ở Việt Nam. Thay vào đó, phân khúc bất động sản tầm độ 2 tỷ đồng trở xuống mới là phổ biến, phục vụ nhu cầu nhà ở cho số đông gia đình. Hơn nữa, với phân khúc trung cao cấp, người mua được coi là tầng lớp trung lưu trở lên nên họ vẫn, về nguyên tắc, dễ “xoay sở” hơn về mặt tài chính mà không nhất thiết phải quá phụ thuộc vào vay ngân hàng, cũng như quá nhạy cảm với lãi suất ngân hàng được điều chỉnh  tăng do ảnh hưởng của dự thảo Thông tư.

Như vậy, dự thảo Thông tư xem ra muốn “một mũi tên trung hai đích”, vừa siết lại tín dụng cho phân khúc nhu cầu không được hoan nghênh, vừa vẫn tiếp tục mở đường cho tín dụng ngân hàng chảy đến phân khúc bất động sản bình dân, đáp ứng nhu cầu để ở chính đáng của người dân thu nhập trung bình và thấp. Bởi vậy, nếu nhìn từ thị trường bất động sản thì chỉ có phân khúc trung cao cấp là bị ảnh hưởng mà thôi. Ngược lại, có thể nói thêm là do tín dụng ngân hàng sẽ dồn cho phân khúc bình dân, ngân hàng sẽ không còn quá “kén cá chọn canh” như trước (giữa cho vay phân khúc bình dân hay trung cao cấp), nên phân khúc bình dân sẽ được hưởng lợi hơn so với trước.

Dù mục đích của dự thảo Thông tư, nếu đúng như phân tích ở trên, tỏ ra rất chính đáng nhưng dù muốn hay không, nếu được thực thi, nó cũng sẽ “vô tình” tước bỏ/hạn chế quyền lợi chính đáng của một bộ phận dân chúng có nhu cầu chính đáng sở hữu bất động sản trung, cao cấp để ở phù hợp với mức thu nhập và lối sống của mình, đặc biệt với những người sở hữu lần đầu (và duy nhất) bất động sản loại này.

Đồng thời, cách làm trên cũng thúc đẩy ngân hàng tìm cách đồn thêm tín dụng vào phân khúc bình dân, kể cả cho vay dưới chuẩn vì họ phải tìm kiếm thị phần và cơ hội để bù đắp cho sự sụt giảm từ phân khúc trung cao cấp. Điều này không chỉ tạo rủi ro lớn hơn cho hệ thống ngân hàng mà còn không đóng góp gì mấy cho chủ trương hướng tín dụng ngân hàng đến những khu vực ưu tiên của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành (và từng ngân hàng) đang dần bị siết lại hàng năm theo hướng giảm tỷ trọng tổng dư nợ tín dụng trên GDP đang ở mức quá cao xuống gần với mức của khu vực và thế giới.

Vì cách làm chính sách “giết nhầm còn hơn bỏ sót” là điều cần được hạn chế nên có lẽ NHNN nên phối hợp với các cơ quan chức năng khác đưa ra những chính sách phù hợp và có tính chọn lọc hơn, vừa chống được động cơ đầu cơ bất động sản, vừa vẫn tạo điều kiện cho người dân sở hữu và ở trong bất động sản phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình.

Những chính sách theo hướng trên có thể gồm: (i) ngân hàng sẽ giảm tỷ lệ vốn vay tối đa trên giá trị bất động sản cho những bất động sản thứ hai trở lên mà người vay (sẽ) sở hữu; (ii) giá trị khoản cho vay mua bất động sản sẽ được quyết định trên cơ sở tổng dư nợ người vay có với hệ thống ngân hàng, tài chính (càng nợ nhiều, càng được vay ít); (iii) chính sách thuế bất động sản được sửa đổi để đánh thuế nặng vào bất động sản thứ hai trở lên; (iv) đặt ra tỷ lệ trần tín dụng cho bất động sản (và/hoặc cho vay tiêu dùng) nói chung trên tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng; (v) từ bất động sản thứ hai được mua bằng vốn vay ngân hàng  trở lên, việc chuyển nhượng quyền sở hữu chỉ được thực hiện sau, ví dụ, ba năm...

Monday 15 April 2019

Câu chuyện thành công của ngành tài chính Singapore (Bài đăng trên TBKTSG, 16/4/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/286958/tang-gia-dien-co-an-toan-va-sach-hon-.html

Dù là một quốc gia nhỏ bé, từ nhiều năm nay Singapore đã trở thành trung tâm tài chính của khu vực và quốc tế.
Vị thế này của Singapore được thể hiện qua hàng loạt xếp hạng là: (1) thị trường ngoại hối lớn thứ ba thế giới về giá trị giao dịch, chỉ sau Anh và Mỹ; (2) trung tâm phái sinh lãi suất OTC lớn nhất châu Á; (3) sở giao dịch chứng khoán quốc tế hóa lớn nhất châu Á, đồng thời là thị trường ủy thác đầu tư bất động sản (REIT) lớn nhất châu Á trừ Nhật; (4) thị trường trao đổi nhân dân tệ hải ngoại lớn nhất ngoài Trung Quốc và Hồng Kông; (5) trung tâm quốc tế lớn về thu xếp phát hành nợ quốc tế, trung tâm quản lý tài sản và bảo hiểm châu Á.
Tổng tài sản ngân hàng của Singapore đạt 2.000 tỉ đô la Singapore vào năm 2014 (1 đô la Mỹ = 1,35 đô la Singapore). Hiện có đến 200 ngân hàng (gồm cả văn phòng đại diện) đang hoạt động ở đây. Trong số này chỉ có năm ngân hàng nội địa. Singapore còn là trung tâm quản lý tài sản và nghiệp vụ ngân hàng tư nhân hàng đầu chuyên phục vụ giới thu nhập cao khắp thế giới.
Điều làm nên thành công
Trước tiên phải kể đến vai trò của một khuôn khổ pháp lý về tài chính nhất quán tiêu chuẩn cao, giúp tạo dựng được vị thế là trung tâm tài chính quốc tế uy tín. MAS (Ngân hàng Trung ương Singapore) giám sát các tập đoàn tài chính đa ngành theo hướng tiếp cận “toàn bộ tập đoàn”, tập trung vào giám sát rủi ro trong tất cả hoạt động nghiệp vụ đa dạng của chúng. Việc MAS theo đuổi áp dụng các chuẩn mực quốc tế và các thông lệ tốt nhất như quy định về vốn theo Basel và hoạt động phòng chống rửa tiền đã đem lại uy tín cao, tạo sự ổn định cho hệ thống tài chính, kể cả trong những giai đoạn khủng hoảng tài chính.
Đồng thời, MAS thường tích cực tham vấn ngành trước khi ban hành chính sách và sáng kiến mới nhằm tạo dựng một hệ thống tài chính có tính đáp ứng và luôn tiến bộ. Ngoài ra, từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, MAS đã tiến hành cải cách thể chế mạnh mẽ, gồm, ví dụ, chuyển từ cách tiếp cận “một cỡ chung cho tất cả” sang “giám sát dựa trên mức rủi ro”, theo đó, ví dụ, các tổ chức tài chính sẽ chịu sự giám sát và trừng phạt tùy mức độ rủi ro và khả năng xử lý rủi ro của chúng.
Yếu tố chính tiếp theo tạo nên câu chuyện thành công của Singapore là chiến lược phát triển tài chính hướng ngoại, do nền kinh tế nội địa nhỏ không mang lại nhiều cơ hội. Để hướng ngoại mà không bị tác động, giữ được tự chủ chính sách, Singapore đã sớm phát triển hệ thống ngân hàng hai lớp từ năm 1968, theo đó tách biệt các giao dịch bằng ngoại tệ khỏi các giao dịch bằng nội tệ bằng cách dùng tài khoản hạch toán riêng. Sự tách biệt này cho phép các dòng tiền quốc tế chảy vào Singapore không làm ảnh hưởng chính sách tiền tệ của Singapore, cũng như bảo vệ các ngân hàng nội địa trước các ngân hàng quốc tế lớn.
MAS quản chặt giao dịch nội tệ với các tiêu chí khắt khe để bảo vệ an toàn hệ thống, trong khi lại nới lỏng chế tài với giao dịch ngoại tệ, thậm chí còn cho miễn thuế. Bởi vậy, giá trị giao dịch ngoại tệ đã tăng trưởng vượt xa so với hoạt động nội địa, với số dư tài khoản từ 33 triệu đô la Mỹ năm 1968 vọt lên 2.000 tỉ đô la Mỹ năm 2013.
Chiến lược hướng ngoại còn thể hiện rõ ở lĩnh vực ngoại hối. Nhờ có múi thời gian thuận lợi nối kết thời điểm đóng cửa của thị trường Mỹ với thời điểm mở cửa lại thị trường châu Âu nên Singapore là một cấu thành của thị trường kinh doanh ngoại hối toàn cầu hoạt động suốt 24 giờ. Với việc tách biệt hoạt động ngân hàng hải ngoại cùng với cho phép kinh doanh các hợp đồng tiền tệ tương lai, thị trường ngoại hối của Singapore hiện lớn thứ ba toàn cầu, vượt Thụy Sỹ năm 1992 và Tokyo năm 2013.
Sự phát triển của thị trường ngoại hối và các hoạt động ngân hàng hải ngoại sẽ kích thích sự phát triển của ngành ngân hàng. Năm 1973, MAS cấp phép cùng với những khuyến khích chính sách cho loại hình ngân hàng hải ngoại để thu hút các ngân hàng quốc tế lớn hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng hải ngoại, ngoại hối, và ngân hàng bán buôn với người không cư trú. Kết quả là tỷ trọng đóng góp của ngành tài chính vào GDP của Singapore đã tăng lên 12% năm 1997.
Để phát triển ngành quản lý tài sản thì cần phải thu hút nhiều công ty quản lý quỹ thế giới, biến Singapore thành trung tâm đầu tư vào châu Á cũng như cho phép nhà đầu tư châu Á thông qua Singapore đa dạng hóa đầu tư ra châu Á. Nhưng muốn thu hút công ty quản lý quỹ thì phải có thị trường vốn phát triển sâu rộng, phong phú về sản phẩm. Vì vậy, MAS sửa đổi quy chế tạo điều kiện cho các công ty quản lý quỹ thâm nhập thị trường nội địa dễ dàng hơn. Tập đoàn Đầu tư Chính phủ (GIC) và MAS lần lượt đầu tư 35 tỉ đô la Mỹ và 10 triệu đô la Mỹ vốn “mồi” vào các công ty quản lý quỹ tốt và có cam kết phát triển ngành quản lý tài sản trong nước. Quy chế về Quỹ Bảo hiểm xã hội (CPF) được nới lỏng để người đóng bảo hiểm xã hội được thuê nhà quản lý tài sản chuyên nghiệp đầu tư phần bảo hiểm xã hội được phép đầu tư của mình.
Những biện pháp trên, bên cạnh ưu đãi về thuế, đã biến Singapore thành trung tâm quản lý tài sản thế giới, với quy mô tài sản được quản lý bởi các công ty quản lý quỹ tại Singapore tăng vọt từ 274 tỉ đô la Mỹ năm 1999 lên 2.600 tỉ đô la Mỹ năm 2015.
Sự thành công của thị trường vốn/chứng khoán Singapore có sự góp mặt của nhận thức và hành động sáng suốt của MAS rằng để ổn định tài chính thì cần phải có sự phát triển sâu rộng của thị trường chứng khoán với vai trò cung cấp vốn cho nhu cầu vay vốn dài hạn để đầu tư nhằm giảm áp lực và rủi ro cho ngân hàng. Theo đó, MAS phát hành Chứng khoán Chính phủ (SGS) (mặc dù Singapore luôn đạt thặng dư ngân sách),nhằm tạo đường cong lãi suất đô la Singapore chuẩn làm cơ sở cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng khác như Ban Phát triển Nhà ở và Bộ Giao thông cũng được khuyến khích phát hành trái phiếu để mở rộng khối lượng trái phiếu bằng đô la Singapore.
MAS còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước ngoài phát hành trái phiếu nội tệ thông qua việc nới lỏng dần chính sách không quốc tế hóa đô la Singapore được áp dụng trước đó để hạn chế đầu cơ. Ngân hàng được phép cho người không cư trú vay với số lượng không hạn chế miễn là tiền vay sẽ được đầu tư vào tài sản Singapore.
Thị trường vốn/chứng khoán phát triển còn nhờ sự khuyến khích của chính phủ biến Singapore thành trung tâm thu xếp phát hành và kinh doanh chứng khoán nợ. Chính sách thuế ưu đãi cũng khuyến khích sự phát triển của đội ngũ nhân lực lành nghề về phát hành, bán và kinh doanh nợ.
Việc hợp nhất Sở Giao dịch chứng khoán và Sở Giao dịch tiền tệ quốc tế thành Sở Giao dịch (SGX) đã tạo ra sự tương tác tích cực giữa chứng khoán và phái sinh, làm tăng năng lực tài chính để thực hiện các sáng tạo về tài chính và huy động vốn lớn. Ngoài cải thiện hạ tầng kỹ thuật, SGX còn nới lỏng niêm yết cho doanh nghiệp nước ngoài và liên kết với các sở giao dịch khác trên thế giới. Còn MAS thì tự do hóa phí môi giới, mở cửa tiếp cận cho nhà môi giới cổ phiếu nước ngoài, và mở rộng phạm vi sản phẩm thông qua khuyến khích tạo và bảo hiểm các sản phẩm tài chính cơ cấu, và sử dụng chứng khoán hóa.
Về hệ thống ngân hàng, sự lớn mạnh bắt đầu chủ yếu từ việc tự do hóa ngành ngân hàng nội địa từ năm 1999 rồi tiến hành sáp nhập, hợp nhất hàng chục ngân hàng trong nước thành ba ngân hàng nội địa chính gồm DBS, OCBC và UOB nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tiến ra thị trường hải ngoại. MAS cũng củng cố chất lượng quản trị doanh nghiệp và nâng tiêu chuẩn kế toán theo mức quốc tế, hướng dẫn tách biệt hoạt động phi tài chính với hoạt động tài chính của các tập đoàn ngân hàng, cũng như hạn chế sở hữu chéo.
Cách tiếp cận với các thách thức phía trước
Dù gặt hái nhiều thành công nhưng hiện tại ngành tài chính Singapore đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Đầu tiên là thách thức từ cách mạng số và công nghệ tài chính (FinTech) đang định hình lại toàn bộ ngành tài chính. Để theo kịp thời đại, MAS đang xây dựng hệ sinh thái cần thiết thu hút tất cả các bên liên quan trong và ngoài nước, gồm doanh nghiệp công nghệ, tài chính và startup. MAS đưa ra các quy chế mới thúc đẩy sáng tạo trong ngành và hỗ trợ FinTech như giới thiệu “sandbox thể chế” cho phép doanh nghiệp FinTech tự tin thí nghiệm và tung ra các sản phẩm sáng tạo trong khuôn khổ được kiểm soát; tiến hành đào tạo nhân lực giỏi công nghệ; phát triển việc lưu trữ dữ liệu đám mây hiệu quả và an toàn; và khuyến khích sử dụng các nền tảng công nghệ chung và giao diện chương trình ứng dụng (API).
Thách thức lớn khác là phòng chống rửa tiền ngày càng tăng về quy mô và độ tinh vi. Giải pháp của MAS gồm bốn cấu thành: quy chế nghiêm, giám sát chặt, thực thi cứng rắn, và hợp tác quốc tế hiệu quả.
Phát triển nhân tài cũng luôn là một thách thức. MAS thành lập Ủy ban ba bên ngành tài chính (FSTC) quy tập các hiệp hội ngành, cơ quan chính phủ và công đoàn, với nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực tài chính cho Singapore.
Và cuối cùng là thách thức bị cạnh tranh bởi các thị trường tài chính khác trong khu vực. Giải pháp được đưa ra là tăng cường các liên kết tài chính và thúc đẩy quan hệ hợp tác (đặc biệt là với ASEAN và Trung Quốc) để luôn tạo ra và duy trì các thị trường ngách và cơ sở khách hàng. 

Sunday 14 April 2019

Tăng vốn ngân hàng, đừng thấy 'sóng cả' mà 'ngã tay chèo' (Bài đăng trên NDH, 14/4/2019, tiêu đề do báo đặt lại)

http://ndh.vn/tang-von-ngan-hang-dung-thay-song-ca-ma-nga-tay-cheo--20190414080332817p4c149.news

Một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nay với hầu hết ngân hàng và nhà quản lý là việc tăng vốn chủ sở hữu để vừa đáp ứng được yêu cầu về hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) cao hơn theo tiêu chuẩn Basel II, vừa nhằm mở rộng cho vay tín dụng với khách hàng.

5 cách tăng vốn thường thấy ở các doanh nghiệp, ngân hàng

Về nguyên tắc, khi muốn tăng vốn chủ sở hữu thì các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần nói riêng có thể thực hiện mấy cách sau.

Đầu tiên là tăng vốn góp cổ đông. Bất cứ cổ đông nào cũng có thể đóng góp vốn dưới dạng tiền hoặc tài sản vào doanh nghiệp. Mặc dù sự đóng góp này không làm tăng tổng số lượng cổ phiếu đã phát hành nhưng lại làm tăng giá trị khoản đầu tư của cổ đông đóng góp này và giá trị mỗi cổ phiếu đã phát hành của doanh nghiệp.

Phần vốn góp vượt quá mệnh giá cổ phiếu sẽ được ghi nhận ở mục góp vốn trong phần kê khai về vốn chủ sở hữu của bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.


Cách khác được dùng là giảm tài sản nợ. Vốn chủ sở hữu của một doanh nghiệp, về mặt kế toán, là chênh lệch giữa tổng tài sản có và tổng tài sản nợ của doanh nghiệp đó. Bởi vậy, nếu giá trị tổng tài sản nợ - tổng nợ của doanh nghiệp với các đối tác - giảm đi trong khi mọi thứ khác không đổi thì vốn chủ sở hữu sẽ tăng lên tương ứng.

Cách tăng vốn tiếp theo là tăng lợi nhuận ròng. Lợi nhuận ròng của một doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Lợi nhuận ròng sau khi đã trừ đi cổ tức phân phối (nếu có) sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu hoặc giá trị ròng. Do đó, nếu làm tăng được lợi nhuận ròng và giảm hoặc không chia cổ tức thì vốn chủ sở hữu sẽ tăng tương ứng.

Tăng lượng cổ phiếu phát hành hay tăng lợi nhuận giữ lại cũng giúp tăng vốn. Cổ phiếu phổ thông được ghi nhận trong phần kê khai vốn chủ sở hữu của Bảng cân đối kế toán. Khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới làm tăng cả số lượng cổ phiếu lưu hành lẫn vốn góp cổ đông tương ứng (trừ đi chi phí phát hành và các loại phí liên quan).

Doanh thu tăng lên có thể làm tăng lợi nhuận ròng. Lợi nhuận ròng còn lại sau khi chia cổ tức bằng tiền là lợi nhuận giữ lại. Nếu lợi nhuận giữ lại tăng thì vốn chủ sở hữu tăng tương ứng. Nên để tăng lợi nhuận giữ lại thì phải tìm cách tăng lợi nhuận ròng (tăng doanh thu, giảm chi phí), đồng thời giảm hoặc không chia cổ tức tiền mặt.

Vì sao ngân hàng khó tăng vốn?

Thực thi một số trong những cách tăng vốn nói trên đã và đang gặp phải trở ngại ở một số NHTM cổ phần.

Với cách thức tăng vốn góp cổ đông, ở một số NHTM cổ phần có vốn nhà nước, việc Chính phủ góp thêm vốn (tăng thêm cổ phần) là điều hầu như không xảy ra trong thời điểm hiện nay, nếu xét đến chủ trương (cổ phần hóa) thoái vốn Nhà nước cũng như căng thẳng về ngân sách.

Điều này có lẽ là đúng ngay cả với Agribank, NHTM 100% vốn Nhà nước. Và do hạn mức sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (nói thêm dưới đây) nên Chính phủ cũng không muốn nhà đầu tư nước ngoài tăng giá trị phần vốn góp. Điều này cũng đúng ngay cả với trường hợp nhà đầu tư trong nước trong các ngân hàng này do Chính phủ không muốn làm giảm cổ phần của mình từ việc tăng vốn góp của các cổ đông khác.

Đối với NHTM cổ phần tư nhân, giải pháp tăng vốn góp này ít bị ràng buộc hơn nhưng lại phụ thuộc vào ý chí của cổ đông. Nếu không ai “hứng thú” đóng góp tăng vốn thì giải pháp này là bất khả thi.

Giải pháp giảm tài sản nợ đối với NHTM gián tiếp có nghĩa là NHTM buộc phải giảm sự phục thuộc về doanh thu và lợi nhuận vào lãi từ hoạt động tín dụng, tức là giảm phụ thuộc vào tài sản nợ là các nguồn vốn huy động (từ tiền gửi của dân, vay các ngân hàng khác, vay từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, phát hành giấy tờ có giá v.v...). Thay vào đó, NHTM phải tích cực phát triển các dịch vụ ngân hàng, kinh doanh và đầu tư khác.

Vấn đề với giải pháp này là chi phí dịch vụ vẫn còn cao và có xu hướng tăng lên, không hấp dẫn người dùng nên dư địa tăng trưởng cũng bó hẹp. Mảng nghiệp vụ kinh doanh và đầu tư khác thì vướng ở sự kém phát triển của thị trường vốn, trái phiếu, nghèo nàn về sản phẩm và cơ hội.

Giải pháp tăng lợi nhuận ròng thì có liên quan mật thiết với giải pháp tăng thu từ mảng dịch vụ nói trên, cũng như phụ thuộc vào việc cắt giảm chi phí vốn, chi phí kinh doanh của ngân hàng.

Hiện ở tại nhiều ngân hàng, tỷ lệ chi phí trên doanh thu còn cao so với mức trung bình của Việt Nam và khu vực. Tăng lợi nhuận ròng cũng lại phụ thuộc một phần vào việc ngân hàng có được mở rộng tăng trưởng tín dụng hay không, mà điều này thị lại phụ thuộc chính vào khả năng tăng vốn đáp ứng yêu cầu để được mở rộng tín dụng. Nói cách khác, đây là một vòng luẩn quẩn, nên càng buộc NHTM phải ngày càng giảm phụ thuộc vào hoạt động tín dụng.

Mặt khác, lợi nhuận ròng còn liên quan đến nợ xấu và xử lý nợ xấu. Do nợ xấu vẫn có xu hướng gia tăng ở nhiều ngân hàng dẫn đến tăng trích lập dự phòng và làm giảm lợi nhuận ròng. Đồng thời, xử lý nợ xấu dù đã được hỗ trợ bởi Nghị quyết 42 của Quốc hội cũng như VAMC nhưng vẫn còn chậm và gặp nhiều trở ngại về pháp lý.

Với giải pháp tăng cổ phiếu phát hành, việc phát hành cổ phiếu mới cho nhà đầu tư trong nước nhìn chung phải đối mặt với áp lực cạnh tranh thu hút nhà đầu tư khi nhiều ngân hàng có thể cùng lúc ồ ạt phát hành cổ phiếu trong cùng một giai đoạn, thời điểm, với tổng giá trị quá lớn so với sự quan tâm và khả năng hấp thụ của thị trường trong nước. Điều này dẫn đến việc phát hành cổ phiếu tăng vốn cho nhà đầu tư trong nước đối với một số ngân hàng sẽ không mấy thành công.

Để khắc phục một phần tình trạng trên, giải pháp là phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc này bị hạn chế bởi quy định một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được sở hữu quá 20% vốn điều lệ của NHTM và tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 30%. Một số NHTM hiện có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài khá lớn nên việc tăng vốn chủ sở hữu qua kênh này không còn nhiều dư địa, trừ khi Chính phủ nâng hạn mức sở hữu.

Lưu ý thêm là Chính phủ cũng đã nêu ý định cho nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn của NHTM nhưng đây mới chỉ là ý định và NHTM loại này là những ngân hàng yếu kém, đang phải tái cơ cấu và giám sát đặc biệt.

Cuối cùng là về giải pháp tăng lợi nhuận giữ lại, mà chủ yếu là giảm hoặc không chia cổ tức bằng tiền mặt, trở ngại đối với giải pháp này có thể thấy rõ ở trường hợp của các NHTM cổ phần có vốn Nhà nước. Chính phủ một mặt không những không muốn góp thêm vốn chủ sở hữu, mặt khác lại muốn các ngân hàng này phải chia cổ tức để cổ đông là Nhà nước có thêm nguồn thu đáng kể cho ngân sách vẫn đang căng thẳng.
Làm cách nào?

Trong bối cảnh giải pháp tăng vốn tuy không ít nhưng đều ít nhiều bị hạn chế, Chính phủ và NHTM cần thực thi một loạt các biện pháp.

Những giải pháp được kể đến có thể là nâng hạn mức sở hữu nước ngoài được phép tại NHTM từng bước theo lộ trình, tăng cường tốc độ thoái vốn Nhà nước tại các NHTM cổ phần.

Bên cạnh đó, việc tự do hóa các dịch vụ ngân hàng để tăng cường cạnh tranh làm giảm chi phí cho ngân hàng và phí sử dụng cho khách hàng; phát triển thị trường trái phiếu, thị trường vốn để giúp ngân hàng đa dạng hóa kênh kinh doanh cũng cần được đặt ra.

Các giải pháp khác là khẩn trương giải quyết các trở ngại pháp lý để thúc đẩy xử lý nợ xấu. Ngoài ra, việc cho phép NHTM cổ phần có vốn Nhà nước không chia cổ tức bằng tiền mặt cũng có thể được tính đến.

Sáp nhập hoặc cho giải thể ngân hàng cũng là một hướng đi cần thiết khi một số ngân hàng (yếu kém) không thể tăng vốn đáp ứng được chuẩn mực an toàn cao hơn đặt ra. Liên quan đến điều này, Ngân hàng Nhà nước không nên trì hoãn tiến độ và mốc tăng CAR (vào đầu năm 2020), ít nhất vì tiêu chuẩn này đã được thực hiện từ lâu ở khu vực và thế giới, Việt Nam đã quá lạc hậu trong ví dụ này. Hơn nữa, sự trì hoãn nếu có sẽ là tiền lệ để lại có sự tiếp tục trì hoãn trong tương lai.

Tất cả biện pháp có thể làm đề cập bên trên không thể diễn ra ngày một ngày hai nên mục tiêu cán mốc tăng vốn vào đầu năm 2020 là việc khó. Tuy nhiên, không vì thế Chính phủ/Ngân hàng Nhà nước nên có những dấu hiệu nhân nhượng và giảm bớt quyết tâm thực thi.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).