Saturday 31 July 2021

Hầu hết điện than sẽ bị lỗ, sao vẫn cứ phát triển? (Bài đăng trên KTSG, số ra ngày 22/7)

https://www.thesaigontimes.vn/318624/ktsg-so-30-2021-chung-tay-day-lui-covid.html

Ngày 2/6/2020, Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) cho ra mắt báo cáo “Chi phí phát điện từ năng lượng tái tạo 2019”, cho thấy các dự án phát điện từ năng lượng tái tạo hiện càng ngày càng rẻ hơn các dự án điện than hiện hữu. Có đến hơn một nửa công suất phát điện từ năng lượng tái tạo gia tăng trong năm 2019 đã đạt mức chi phí rẻ hơn kể cả của các nhà máy điện than có chi phí thấp nhất.

Theo đó, việc thay thế 500 GW điện than có chi phí cao nhất bằng pin mặt trời và điện gió vào năm 2021 sẽ tiết kiệm cho hệ thống phát điện thế giới 23 tỷ USD/năm và giảm được phát thải tới 1,8 tỷ tấn CO2, tương đương 5% tổng lượng phát thải thế giới năm 2019(1).  

Tương tự, ngày 1/7/2021, tờ Financial Times có bài viết trích dẫn kết quả nghiên cứu của Carbon Tracker cho thấy phần lớn các dự án điện than mới dự kiến được xây dựng sẽ phải vật lộn để không bị thua lỗ(2). Nghiên cứu này cho thấy khoảng 92% các dự án điện than đang được đề xuất hay đang được triển khai xây dựng sẽ có chi phí xây dựng lớn hơn luồng tiền chúng tạo ra trong tương lai, kể cả trong hoàn cảnh “vẫn kinh doanh như thường”, có nghĩa là kể cả ở những nước hạ thấp tiêu chí chống phát thải và không đạt được mục tiêu giảm phát thải theo thỏa thuận khí hậu Paris.

Carbon Tracker cho biết phần lớn các dự án điện than có thể được thay thế bởi năng lượng tái tạo và sẽ tiết kiệm được ngay chi phí. Vào năm 2026, phần lớn các dự án điện than sẽ có chi phí đắt hơn là xây dựng và vận hành dự án phát điện từ năng lượng  tái tạo có cùng công suất. Tính toán này dựa trên chiều hướng giảm đi về chi phí của năng lượng tái tạo và chiều hướng tăng lên về chi phí vay nợ.

Việt Nam được nêu tên là một trong năm nước châu Á gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam và Nhật Bản chiếm đến 80% trong tổng số dự án điện than mới được lên kế hoạch xây dựng trên toàn thế giới (620 dự án, với tổng công suất 300 GW). Trung Quốc đi đầu trong số này, với 187 GW, theo sau là Ấn Độ với 60 GW.

Mới đây, Việt Nam công bố Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn 2045 (Quy hoạch Điện VIII). Đáng chú ý là trong khi công suất phát điện tăng mạnh theo thời gian thì tỷ trọng điện than giảm với tốc độ chậm hơn nhiều, lần lượt là 29% năm 2025 (so với 29% năm 2020), 27% năm 2030, 23% năm 2035...

Lý giải việc vẫn phải phụ thuộc nặng nề vào điện than, Viện Năng lượng Việt Nam, đơn vị xây dựng Quy hoạch Điện VIII, cho biết điện than vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn điện là bởi “các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng. Đây là những dự án đã thực hiện, công tác xúc tiến đầu tư tốt, không thể loại bỏ”(3). Đồng thời, viện này cũng viện lý do vẫn cần điện than để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện với chi phí “không quá cao”.

Tuy nhiên, viện này cũng thêm rằng Quy hoạch Điện VIII cũng yêu cầu các nhà máy điện than mới phải áp dụng công nghệ tiên tiến (trên “siêu tới hạn”) như là một cách để làm an lòng dư luận.

Từ những lý do trên có thể thấy chúng chỉ là... lý do (cho có)! Trước hết, không thể vì chuyện các dự án đã thực hiện, xúc tiến đầu tư tốt mà cho rằng các dự án này không thể loại bỏ.

Như trên đã cho thấy, việc mạnh dạn chấm dứt sớm các dự án đang thực hiện, hủy bỏ các dự án được đưa vào quy hoạch (và chưa thực hiện) sẽ tránh cho nhà đầu tư thua lỗ sâu hơn trong tương lai sau khi dự án của họ được xây dựng và hoạt động và chắc chắn sẽ bị cạnh tranh bởi các dự án năng lượng tái tạo có chi phí thấp hơn, được dư luận đón nhận nồng nhiệt hơn. Nhà nước thì tránh được viễn cảnh phải tìm cách bù lỗ cho các dự án này nếu Nhà nước có cam kết đảm bảo lợi nhuận cho nhà đầu tư điện than qua bảo đảm giá mua điện, cũng như các chi phí gián tiếp và trực tiếp khắc phục, bảo vệ môi trường (từ đầu vào đến đầu ra của các dự án này). Quốc gia nói riêng và thế giới nói chung sẽ hưởng lợi hơn nhờ một môi trường trong sạch hơn, ít tro bụi, phát thải hơn.

Hơn nữa, như dư luận đã quan ngại lên tiếng, việc tài trợ cấp vốn cho các dự án này sẽ rất khó khăn bởi các ngân hàng, kể cả trong nước, theo triều hướng chung trên thế giới sẽ hầu như không cấp tín dụng cho chúng nữa. Không rõ lúc các dự án đã và đang được triển khai dở dang và thiếu vốn, Nhà nước có mang ngân sách ra để tài trợ cho chúng hoàn thành không, hoặc để “dọn dẹp” các công trình bỏ dở ngổn ngang không?

Về lý do duy trì điện than để đảm bảo chi phí phụ tải điện “không quá cao” của Viện Năng lượng, cũng có thể thấy nó khá gượng ép. Tuy cần phải duy trì điện than ở một tỷ lệ nhất định để đảm bảo an ninh năng lượng, nhưng tỷ lệ này không thể quá cao (thậm chí là không giảm đi vào năm 2025 so với năm 2020) như trong Quy hoạch Điện VIII, nhất là trong bối cảnh năng lượng tái tạo có chi phí càng ngày càng rẻ, và chính năng lượng tái tạo thực ra mới là yếu tố đảm bảo cho chi phí “không quá cao”. Ngoài ra, nhiều nước hiện cũng đã hoặc có kế hoạch loại bỏ hoàn toàn điện than, nên Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi được từ họ lý do tại sao họ không phải duy trì điện than để đảm bảo an ninh năng lượng.

Việc nói rằng đã yêu cầu các dự án điện than phải có công nghệ tiên tiến thì lại mâu thuẫn với nhu cầu phải đảm bảo chi phí phụ tải “không quá cao”, bởi công nghệ càng tiên tiến thì đương nhiên chi phí càng phải tăng hơn so với những công nghệ lạc hậu, phế thải từ các nước khác.

Tóm lại, xét trên cả phía cung và phía cầu trong thị trường năng lượng, chi phí tài chính và các lợi ích tổng thể của quốc gia, điều đáng tiếc là Quy hoạch Điện VIII đã không theo được các xu thế tất yếu liên quan, trở thành một quy hoạch xơ cứng, lạc hậu và có hại cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. 

------

(1) https://www.irena.org/newsroom/pressreleases/2020/Jun/Renewables-Increasingly-Beat-Even-Cheapest-Coal-Competitors-on-Cost

(2) https://www.ft.com/content/cf4399bb-bb6b-4465-95e6-6777bc0ab070

(3) https://vneconomy.vn/chua-the-doan-tuyet-nhiet-dien-than-tham-chi-can-xay-them-de-dam-bao-nang-luong.htm

Wednesday 28 July 2021

Thời của 'chuyên gia đầu tư' AI sắp đến? (Bài đăng trên KTSG, 28/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/318587/thoi-cua-chuyen-gia-dau-tu-ai-sap-den.html

Hãng Micron Technology, Mỹ, chuyên sản xuất chip nhớ mới đây tiết lộ rằng công cụ đầu tư ứng dụng trí thông minh nhân tạo (AI) do họ tự phát triển đã giúp họ kiếm được thêm hàng triệu đô la từ nguồn tiền mặt thặng dư hiện có của họ(1).

Ứng dụng AI này, được phát triển tập trung vào sự tự động hóa giữa các phòng ban trong Micron, đưa ra các khuyến nghị đầu tư (về sản phẩm và nơi đầu tư cụ thể) cho Micron để tối ưu hóa việc đầu tư các khoản tiền mặt của họ trong bối cảnh lãi suất siêu thấp làm đau đầu mọi giám đốc tài chính trên thế giới.

Theo đó, ứng dụng này sẽ xem xét các hạn mức do hãng đặt ra về lượng tiền mà nó có thể gửi vào một tổ chức cụ thể nào đó (ví dụ, vào các ngân hàng trên thế giới có mảng nghiệp vụ bán lẻ khiêm tốn nên chào lãi suất tiền gửi cao hơn là ngân hàng ở Mỹ) hay đầu tư vào một loại tài sản cụ thể nào đó (ví dụ, tiền gửi ngân hàng qua đêm, tiền gửi kỳ hạn, quỹ thị trường tiền tệ, và ngoại tệ...). Hiện Micron đang có quan hệ với khoảng 20 ngân hàng trên thế giới.

Với nền lãi suất thấp gần 0% ở Mỹ và nhiều nước khác, các doanh nghiệp trên thế giới đang chật vật tìm kiếm nơi sinh lãi tối đa cho các khoản tiền mặt mà họ tích trữ trước cú sốc kinh tế gây ra bởi đại dịch Covid-19. Các công ty trong danh sách S&P 500 có tới 3.780 tỉ đô la Mỹ tiền mặt và tương đương tiền vào cuối quí 1 năm nay, so với 3.030 tỉ đô la một năm trước và 2.070 tỉ đô la năm 2019.

Riêng Micron có 7,8 tỉ đô la Mỹ tiền mặt và tương đương tiền vào quí kết thúc vào ngày 3-6, tuy thấp hơn cùng kỳ năm trước nhưng cao hơn cùng kỳ năm 2019. Trong khi đó, thu nhập lãi từ việc gửi số tiền này vào ngân hàng là 8 triệu đô la, giảm từ mức 23 triệu đô la năm trước do lãi suất đã giảm mạnh trong năm nay. Với số tiền lớn này, nếu hãng này tăng được thêm dù chỉ một điểm cơ bản lãi suất tiền gửi của họ thì sẽ thu về được thêm hàng triệu đô la thu nhập phụ trội.

Theo Micron, công cụ ứng dụng AI không di chuyển tiền của hãng (mà chỉ đưa ra khuyến nghị đầu tư). Nhưng điều này sẽ sớm thay đổi, bởi mục đích cuối cùng mà Micron mong muốn là công cụ AI sẽ thực hiện luôn tất cả các giao dịch đầu tư này thay cho con người. Nhưng hãng cho rằng cần có thời gian để chuyện này xảy ra.Đây chính là bối cảnh Micron đã phát triển công cụ đầu tư ứng dụng AI để phân bổ tối ưu các khoản đầu tư từ số tiền mặt mà họ có một cách nhanh chóng nhất. Trước đó, việc đầu tư này được đảm trách bởi phòng ngân quỹ của hãng. Tuy nhiên, công cụ ứng dụng AI này không thay thế nhân viên trong phòng. Thay vào đó, các nhân viên này tập trung thời gian vào những công việc khác làm tăng giá trị dài hạn cho hãng.

Cũng theo Micron, từ khi sử dụng công cụ này trong quí 2 năm nay, hãng đã thu thêm được một vài triệu đô la thu nhập tiền gửi, so với mức không áp dụng công cụ này. Danh mục đầu tư của hãng đã dịch chuyển từ các quỹ đầu tư thị trường tiền tệ lãi suất thấp hơn sang tiền gửi kỳ hạn có lãi suất cao hơn, từ các khoản tiền gửi tại ngân hàng Mỹ sang các ngân hàng khác trên thế giới, nơi có lãi suất cao hơn.

Trên thế giới, công cụ ứng dụng AI để trợ giúp việc quản lý tiền mặt của các công ty là tương đối hiếm. Các công cụ này sẽ làm cho các ngân hàng đau đầu trong việc tiên đoán hành vi của khách hàng gửi tiền, như khách hàng sẽ giữ bao nhiêu tiền trong tài khoản của mình tại ngân hàng đó.

Tuy nhiên, trong tương lai không xa, công cụ đầu tư ứng dụng AI chắc chắn sẽ có khả năng mở rộng phạm vi xem xét và lựa chọn các cơ hội đầu tư, các sản phẩm, danh mục và kỳ hạn đầu tư. Hãy tưởng tượng, đến lúc đó, công việc cần làm của một “nhà đầu tư”, dù là cá nhân hay doanh nghiệp, sẽ trở nên thật nhàn nhã, chỉ bằng việc bấm nút khởi động công cụ AI.

Và cũng tương tự như việc các ngân hàng được Micron gửi tiền đang đau đầu tiên đoán về hành vi gửi tiền nhàn rỗi của Micron, từ nay về sau, các thị trường trong tương lai có khả năng phải chứng kiến những rối loạn, biến động mạnh khi các công cụ AI dựa trên cùng một nguyên lý, nền tảng và kho dữ liệu cho ra đời cùng một loại khuyến nghị và/hoặc thậm chí tự động thực hiện luôn các giao dịch hộ cho chủ nhân của chúng tại cùng một thời điểm.

Điều may mắn là việc “bấm nút khởi động” công cụ AI bởi các cá nhân và doanh nghiệp trên toàn thế giới sẽ không luôn diễn ra cùng một thời điểm, và bản thân các công cụ AI cũng không giống nhau, nên phần lớn kết quả đầu tư của AI sẽ khác nhau. Do vậy, dù có bị chi phối bởi các “chuyên gia đầu tư AI” chăng nữa thì thị trường rốt cuộc vẫn hoạt động theo các nguyên tắc riêng của nó, như cách mà chúng đang hoạt động hiện tại với các chủ thể tham gia là cá nhân và doanh nghiệp bằng xương bằng thịt. Đến lúc đó, sẽ có một cuộc rượt đuổi, thi thố tài năng giữa các “chuyên gia” này, để rồi chủ nhân của chúng vẫn sẽ chịu lỗ, lãi như thường.

(1) https://www.wsj.com/articles/micron-technology-puts-its-cash-to-work-using-artificial-intelligence-11625781002?mod=hp_lista_pos5

Friday 23 July 2021

Cách nào giảm thiểu đứt gãy chuỗi cung ứng? (Bài đăng trên KTSG, 23/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/td/318574/cach-nao-giam-thieu-dut-gay-chuoi-cung-ung.html

Diễn biến tiêu cực của dịch Covid-19 đã làm khó cho việc thực hiện “mục tiêu kép” – vừa chống dịch, vừa tiếp tục sản xuất ở một số địa phương áp dụng phong tỏa, giãn cách xã hội. Sự dùng dằng giữa một bên là rủi ro sức khỏe và nhân mạng của cả cộng đồng và một bên là hậu quả nhãn tiền của việc đình trệ sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng cũng như sự quyết tâm với “mục tiêu kép” đã làm nảy sinh ra một giải pháp thỏa hiệp mang tính khả thi nhất là cho phép doanh nghiệp tiếp tục sản xuất nếu thỏa mãn “ba tại chỗ” và “một cung đường hai địa điểm”.

Liệu đây có phải là một giải pháp hữu ích, có thể duy trì lâu dài (đến hàng tháng) không? Và nếu muốn thành công, nhân rộng thì các bên liên đới cần làm gì?

Để trả lời câu hỏi trên, trước hết hãy xem kinh nghiệm và cách làm gần đây nhất ở một số nước trong khu vực như Malaysia và Singapore.

Sản xuất trong phong tỏa ở Malaysia và Singapore

Tối hôm 28/5, Malaysia ra tuyên bố sẽ bắt đầu phong tỏa toàn quốc từ 1/6. Giai đoạn thứ nhất từ 1/6 đến 14/6. Trong giai đoạn này, chỉ có 5 dịch vụ thiết yếu và 12 ngành sản xuất mới được hoạt động. 5 ngành dịch vụ thiết yếu này là y tế, viễn thông và truyền thông, ngân hàng và tiện ích công cộng (điện, nước...). Đối với 12 ngành sản xuất như thực phẩm và đồ uống, thiết bị y tế, dệt để sản xuất trang thiết bị bảo vệ cá nhân và dầu khí..., doanh nghiệp trong các ngành này phải hoạt động với 60% công suất. 

Nếu giai đoạn 1 thành công thì Chính phủ sẽ thực thi giai đoạn 2 kéo dài bốn tuần, cho phép tái mở cửa các ngành kinh tế không có sự tụ tập đám đông. Ở giai đoạn 3, Chính phủ thực thi lệnh hạn chế đi lại (giống như trước phong tỏa toàn quốc đã thực hiện), theo đó các hoạt động xã hội không được phép, và gần như mọi ngành kinh tế đều được phép hoạt động nhưng phải hạn chế số người có mặt ở nơi làm việc.

Theo tuyên bố, việc chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác sẽ được dựa vào số ca nhiễm, năng lực điều trị bệnh nhân Covid-19 của các bệnh viện, cũng như đánh giá rủi ro của Bộ Y tế. Chính phủ cũng tăng cường việc tiêm chủng trong vài tuần để đảm bảo miễn dịch cộng đồng.

Chuyển sang trường hợp Singapore. Ngày 14/5, nước này tuyên bố từ 16/5 sẽ áp dụng các biện pháp hạn chế tụ tập đám đông nghiêm ngặt nhất kể từ đợt phong tỏa toàn quốc năm trước. Sự tụ tập nơi công cộng chỉ được phép đúng 2 người, kể cả là từ cùng một gia đình. Ăn ở nhà hàng bị cấm, chỉ được mang về. Các công ty phải bảo đảm làm việc từ ở nhà của nhân viên là hình thức mặc nhiên; nhân viên ai làm việc được từ ở nhà thì được làm ở nhà. Các công ty phải đảm bảo giờ vào làm việc khác nhau cho những nhân viên nào cần phải đến nơi làm việc (ít nhất một nửa nhân viên phải đến nơi làm việc sau 10h sáng), đồng thời thực hiện giờ làm việc và giờ nghỉ linh hoạt cũng như thu xếp mang tính hệ thống để giảm thiểu sự tụ tập, dồn đọng nhân viên tại bất cứ thời điểm nào. Tụ tập xã hội tại nơi làm việc bị cấm. Công ty phải tránh các sự kiện liên quan đến công việc. Mỗi nhân viên cần nghỉ để ăn riêng biệt tại nơi làm việc. Công ty không được chuyển nhân viên đến các địa điểm làm việc khác nhau. Mọi người luôn phải đeo khẩu trang và thực hành các biện pháp vệ sinh cá nhân và giãn cách phòng lây nhiễm tại nơi làm việc, cũng như luôn thực hiện việc khai báo truy dấu vết bằng thiết bị điện tử.

Ngoài ra, mỗi một ngành lại có các yêu cầu riêng cần đáp ứng liên quan đến phòng Covid-19. Ví dụ, trong những ngành sử dụng nhiều công nhân nhập cư như xây dựng và đóng tàu, sống tập trung trong các ký túc xá, có rất nhiều hạn chế, cấm đoán như công nhân không được ngồi ăn ở nhà ăn mà phải mang về phòng mình (chứa đến hơn chục người), không được tụ tập ở hành lang mỗi tầng ký túc xá, mà chỉ được đi ra phòng vệ sinh rồi quay về phòng. Cho nên việc mà công nhân có thể làm ở ký túc xá xoay quanh ăn, xem phim rồi ngủ, đến nỗi có người đã phàn nàn trên báo rằng cuộc sống như ở tù. Tình hình như vậy đã kéo dài mà không có mấy thay đổi suốt từ đợt phong tỏa tháng 4/2020. Cũng cần lưu ý rằng công nhân nhập cư trong các ký túc xá đều được tiêm vaccine đầy đủ, thậm chí trước cả nhiều người dân bản địa.

Tính hữu ích của giải pháp ở Việt Nam

Điểm chung của cách làm của Malaysia và Singapore trong giai đoạn phong tỏa, giãn cách xã hội là giảm thiểu tối đa các hoạt động kinh tế, xã hội, chỉ duy trì các hoạt động thiết yếu. Với những ngành và doanh nghiệp được phép hoạt động thì bắt buộc phải giảm mạnh số lượng nhân viên, giảm công suất. Việc nới lỏng sẽ theo từng giai đoạn, căn cứ vào số bệnh nhân Covid-19 có giảm theo mục tiêu hay không.

So sánh cách làm trên với cách làm “ba tại chỗ” và “một cung đường hai địa điểm” của Việt Nam, dường như Việt Nam để doanh nghiệp tự quyết định có tiếp tục sản xuất hay không nếu thấy đủ/đáp ứng được các điều kiện đặt ra. Nên điều Việt Nam cần làm trước tiên nếu muốn thực hiện các giải pháp này là phải lập danh sách các ngành được phép tiếp tục mở cửa, và ngành nào được phép mở cửa nhưng phải cắt giảm công suất và nhân viên. Nói cách khác, không phải doanh nghiệp nào thích và thuộc loại “nhà có điều kiện” thì cũng được tiếp tục mở cửa.

Đồng thời, trong mỗi doanh nghiệp tiếp tục mở cửa, chính quyền cần phải quy định chặt chẽ, thống nhất các điều kiện để duy trì sản xuất an toàn (như ở Singapore) và có sự kiểm tra chặt chẽ, thanh tra đột xuất của chính quyền như Singapore đã làm để tránh việc các doanh nghiệp tùy nghi muốn làm gì thì làm sau cánh cổng đóng chặt, có nguy cơ biến doanh nghiệp thành các ổ dịch khu trú. Doanh nghiệp cũng cần phải thường xuyên tiến hành xét nghiệm Covid-19 cho công nhân để kịp phát hiện những ổ dịch mới như đã phát hiện ở các ký túc xá của Singapore kể cả sau khi công nhân tại đó đã được tiêm chủng đầy đủ.

Ngoài ra, so với cách làm của Việt Nam, có lẽ chỉ có Singapore là có điểm chung, từ đặc thù của nước này như câu chuyện về công nhân nhập cư trong ký túc xá nói ở trên. Tuy nhiên, cũng từ lời than vãn về cuộc sống như ở tù trong câu chuyện đó ta sẽ thấy ngay một khiếm khuyết của cách làm ở Việt Nam. Cụ thể, công nhân nhập cư ở Singapore đúng là không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải sống trong ký túc xá, với thân phận... lao động nhập cư, nên phải cắn răng chịu đựng. Nhưng công nhân Việt Nam chắc chắn sẽ không chấp nhận/không thể sống trong cùng hoàn cảnh như ở tù đó kéo dài nhiều tuần, nhiều tháng, ít nhất vì họ còn có gia đình và các mối quan hệ xã hội bên ngoài cổng doanh nghiệp. Nhưng muốn giải tỏa một phần tâm lý cho họ thì tối thiểu cũng sẽ phải nới lỏng, bỏ qua các quy định giãn cách nghiêm ngặt tại nơi ở tạm để rồi đối mặt nguy cơ biến thành các ổ dịch.

Tóm lại, dù sẽ có một số doanh nghiệp có được phép, và muốn mở cửa tiếp tục sản xuất (theo kiểu ăn ngủ tại nơi làm việc hoặc nhà trọ tập trung) thì không phải doanh nghiệp nào cũng duy trì được sự mở cửa này nếu sự phong tỏa kéo dài. Như vậy, sẽ phải chấp nhận gián đoạn sản xuất, đứt gãy chuỗi cung ứng ở một mức độ nào đó mà không có giải pháp hữu hiệu nào khác ngoài cấp tập tiêm chủng trong doanh nghiệp và cả cộng đồng bên ngoài để sớm chấm dứt phong tỏa. 

Monday 19 July 2021

Chống tăng giá cước vận tải biển: 'hóng' Mỹ? (Bài đăn trên KTSG, 18/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/318317/chong-tang-gia-cuoc-van-tai-bien-hong-my.html

Ngày 9-7-2021, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã ký ban hành một sắc lệnh (Executive Order) nhằm tăng cường sự cạnh tranh, chống độc quyền, tăng giá cước quá mức trong ngành vận tải biển và một số ngành khác như đường sắt, y tế, nông nghiệp...(1)(2).

Sắc lệnh yêu cầu Ủy ban Hàng hải liên bang Mỹ (FMC) phối hợp với Bộ Tư pháp điều tra và đưa ra những biện pháp trừng phạt để ngăn chặn các hành vi chống cạnh tranh của các hãng tàu biển dẫn đến sự leo thang của các loại phí áp lên các nhà xuất khẩu Mỹ.

Sắc lệnh nêu rõ ngành vận tải biển đã nhanh chóng hợp nhất từ năm 2000 khi 10 hãng tàu biển lớn nhất chỉ kiểm soát 12% thị trường. Hiện nay, con số này đã tăng lên trên 80%, làm cho việc xuất khẩu hàng hóa của các nhà chế tạo nội địa Mỹ phụ thuộc hoàn toàn vào “lòng nhân từ” của các hãng biển lớn nhất này. Điều này cho phép các hãng tàu quyền lực áp mức phí quá cao lên các nhà xuất khẩu cho thời gian mà hàng hóa của họ nằm chờ để chất lên hoặc dỡ xuống.

Theo FMC, đại dịch Covid-19 và tác động của nó đã làm tăng chưa từng thấy nhu cầu vận tải biển, cũng như giá cước vận tải biển. Trong khi nhu cầu nhập khẩu mạnh sẽ chỉ dịu đi vào năm sau, nguồn cung năng lực vận tải biển đã không tăng đủ mạnh để thỏa mãn nhu cầu, dù hầu hết các con tàu có thể sử dụng được đã đưa vào phục vụ.Mặc dù phí phạt do giữ và bốc dỡ chậm mà nhà xuất khẩu Mỹ phải trả cho hãng là mục tiêu của sắc lệnh này, nó cũng có thể gây chú ý hơn đến việc giá cước vận tải biển mà nhà nhập khẩu Mỹ phải trả đang tăng mạnh, góp phần làm tăng lạm phát ở Mỹ.

Một số chuyên gia trong ngành cho rằng sắc lệnh trên có thể ngăn các hãng tăng giá cước thêm trong những tháng tới bất chấp nhu cầu mạnh mẽ, tương tự như việc giá cước xuyên Thái Bình Dương đã phần lớn ổn định từ tháng 1 đến tháng 4 năm nay sau khi Bộ Vận tải Trung Quốc xem xét vấn đề. Mặc dù sắc lệnh không trao cho FMC quyền điều tiết giá cước vận tải biển nhưng nó chắc chắn là một yếu tố phải cân nhắc khi các hãng tàu biển muốn tăng giá cước trong thời gian tới.

Tuy vậy, một số chuyên gia khác thì có cái nhìn dè dặt hơn về hiệu quả của sắc lệnh này. Theo họ, việc hợp nhất các hãng tàu diễn ra chủ yếu bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đúng lúc các hãng đặt đóng những con lớn. Nhu cầu sụp đổ làm các hãng đầu tư lớn vào năng lực vận chuyển mất vốn nên phải sáp nhập với các hãng khác.

Để tăng hiệu quả, các hãng tàu cũng liên minh với nhau để chia sẻ công suất vận chuyển, như cách các hãng hàng không liên minh chia sẻ ghế trống. Và cho đến năm 2019, hầu như chẳng ai phàn nàn chuyện liên minh này có quá nhiều quyền lực (làm giá) cả. Bởi vậy, chính nhu cầu quá lớn trong khi chuỗi cung ứng bị quá tải ở mọi nơi, chứ không phải các hãng tàu là nguyên nhân tăng đột biến giá cước phí vận tải biển. Vấn đề này có thể tự khắc phục, một khi nhu cầu lắng xuống và người lao động trở lại làm việc bình thường. Do đó, sắc lệnh của Tổng thống Biden về bản chất chỉ là “Hãy làm việc của mình đi”, khi trên thực tế thì họ (các cơ quan chức năng) đã (và sẽ) làm.

Liên hệ với tình hình ở Việt Nam. Báo chí trong nước phản ánh, giá cước và mức phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển container bằng đường biển của các hãng tàu nước ngoài tại Việt Nam đang là “vùng tối”, khó kiểm soát dẫn đến hiện tượng giá tăng “phi mã” thời gian qua(3).

Cục Hàng hải Việt Nam dường như “bó tay” trước hiện tượng giá cước phí tăng này, thừa nhận các quy định pháp luật hiện hành như quy định niêm yết giá cước và các loại phụ thu “…không mang lại nhiều ý nghĩa trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát giá. Giá cước niêm yết không phản ánh giá thực tế. Các loại phụ thu của hãng tàu không được đăng ký kê khai với cơ quan có thẩm quyền mà do hãng tàu tự quyết định nên không kiểm soát được mức giá và các loại phụ thu”.

Cục này cũng khẳng định kết quả kiểm tra cho thấy các hãng tàu hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam về Luật Cạnh tranh, các hãng có chính sách giá khác nhau, không chia sẻ giá cước trong cùng liên minh.

Như vậy, có thể nói hiện tại phía Việt Nam đã hết cách/từ bỏ ý định ngăn ngừa các hãng tàu ngoại tăng cước phí. Tuy vậy, như kinh nghiệm của Trung Quốc và có thể cả ở Mỹ lần này (thông qua sắc lệnh của ông Biden) cho thấy, một khi chính quyền sở tại can thiệp, các hãng tàu có thể sẽ phải tìm cách hạn chế việc tăng giá cước phí.

Không thể phủ nhận trường hợp ở Trung Quốc hay Mỹ có khả năng sẽ khác với của Việt Nam vì vị thế của những nước này. Nhưng ít ra, việc nghiên cứu các biện pháp cụ thể của họ và phản ứng của các hãng tàu sẽ cho Việt Nam thấy những việc mà Việt Nam có thể làm, những căn cứ có thể dựa vào đó để buộc các hãng tàu ngoại phải thận trọng hơn, nếu không muốn bị phạt, trong việc tăng giá cước phí tại Việt Nam trong tương lai.

(1) https://www.spglobal.com/platts/en/market-insights/latest-news/shipping/070921-biden-executive-order-could-bring-more-scrutiny-to-rising-container-shipping-costs

(2) https://thehill.com/homenews/administration/562032-biden-to-issue-executive-order-on-consolidation-in-railroads-ocean?rl=1

(3) https://www.vietnamplus.vn/cuoc-phi-hang-xuat-khau-vung-toi-cua-cac-hang-tau-bien-nuoc-ngoai/725574.vnp

Saturday 17 July 2021

Khoan sức dân - điều cần làm (Bài đăng trên KTSG, 15/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/318298/khoan-suc-dan--dieu-can-lam.html

Liên quan đến kết quả thu ngân sách từ thuế, Tổng cục Thuế mới đây cho biết các sắc thuế chính như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, và đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân đều đạt và vượt tiến độ thu so với dự toán, tăng mạnh so với cùng kỳ. Thông tin trên đến đúng vào thời điểm cả nước đang căng mình chống dịch, với các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội ngặt nghèo ở nhiều địa phương.

Người dân và doanh nghiệp đã khó thì nay càng thêm khó bội phần. Trong khi đó, các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, cho đến nay, khả năng đến được người dân và doanh nghiệp tới đâu thì vẫn còn là ẩn số.

Không thể phủ nhận rằng tin tốt lành của ngành thuế đã và đang tạo ra những phản ứng trái chiều, suy nghĩ tiêu cực trong một bộ phận dân chúng và doanh nghiệp ở cái nghĩa là Nhà nước vẫn quan tâm việc thu thuế của người dân và doanh nghiệp hơn mà ít nỗ lực “tận chi” để giúp những đối tượng cá nhân và tổ chức đang gặp khó khăn muôn trùng trong dịch bệnh.

Ngành thuế thì nói rằng sự tăng thu thuế nói trên là bởi đà tăng trưởng kinh tế từ cuối năm 2020 và các chính sách tài khóa và tiền tệ (nới lỏng) trong năm 2020 mà đối tượng hưởng lợi chủ yếu là một số ngành như chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, sản xuất và lắp ráp ô tô...Cũng từ đây, đã có nhiều tiếng nói muốn Nhà nước “khoan sức dân” bằng cách miễn, giảm thuế trực tiếp cho người dân và doanh nghiệp, như thuế giá trị gia tăng. Đây được coi là một hình thức hỗ trợ nhanh, thiết thực và dễ thực hiện.

Với cái nhìn khách quan, người viết cho rằng sự phàn nàn của người dân và doanh nghiệp về các biện pháp hỗ trợ nhỏ giọt, chậm trễ và khó tiếp cận của Nhà nước là thích đáng. Điều này chắc không cần phải chứng minh khi chỉ cần nhìn qua cái sự “ế” của các gói hỗ trợ cho đến nay.

Nhưng từ kết quả tăng thu thuế đến đề xuất giảm thuế trực tiếp, đại trà trên diện rộng lại là vấn đề phức tạp hơn, đòi hỏi nhiều cân nhắc, suy xét.Đồng thời, kết quả tăng thu thuế của Nhà nước cũng phần nhiều không phải là do tận thu, mà chủ yếu có được là nhờ “nắm kẻ có tóc”. Bởi rõ ràng là người dân và doanh nghiệp nào khó khăn thì đã không bị tính thuế (ngoại trừ thuế giá trị gia tăng, như nói thêm dưới đây). Còn những đối tượng nộp thuế tăng nhiều nhất chính là từ những ngành “ăn nên làm ra” nhất trong thời gian qua.

Trước tiên, xét về sự hỗ trợ của Nhà nước. Nếu so với các nước trong khu vực và trên thế giới về danh mục các biện pháp hỗ trợ thì thậm chí có thể nói các giải pháp hỗ trợ của Việt Nam gần như chẳng thiếu thứ gì, nếu không muốn nói là nhiều hơn. Cụ thể, trong Nghị quyết 42 của Chính phủ có các biện pháp hỗ trợ cho người lao động, người sử dụng lao động, hộ kinh doanh cá thể, người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo/cận nghèo.

Các chính sách được ban hành mới đây hơn của Chính phủ cũng gia hạn, bổ sung một số biện pháp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Các chính sách này gồm Nghị quyết 68 (hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp liên quan đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp), Nghị quyết 58 (thêm đối tượng được hưởng phụ cấp đặc thù chống dịch), Nghị quyết 55 (giảm giá điện, tiền điện đợt 3), Nghị quyết 48 (thêm đối tượng được hỗ trợ chi phí cách ly, xét nghiệm Covid-19), Nghị quyết 16 (chế độ phụ cấp cho người tham gia chống dịch Covid-19)..., bên cạnh một loạt nghị định, thông tư, quyết định, công văn có liên quan của các bộ và ủy ban nhân dân.

Riêng về thuế, phí, lệ phí, ngoài các chính sách đã ban hành trong năm 2020 về thuế như gia hạn thời hạn nộp thuế, giảm thuế (ví dụ, giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho tổ chức với doanh thu không quá 200 tỉ đồng năm 2020), Nghị quyết 63 ban hành cuối tháng trước cũng “giao Bộ Tài chính tiếp tục đề xuất” các giải pháp, chính sách về thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, và các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.

Tuy vậy, như đã nói, kết quả và hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ (mới/bổ sung) này là điều cần phải được kiểm chứng. Ngay như gói hỗ trợ 26.000 tỉ đồng mới công bố với các thủ tục đã được rút gọn còn từ 4-14 ngày để chi trả, điều đáng chú ý là việc xin, xét duyệt, trả lời và chi trả dường như vẫn chủ yếu dựa vào giấy tờ thủ công và tiếp xúc trực tiếp, vật lý, thay vì hầu hết được thực hiện trực tuyến và như ở nhiều nước khác. Đành rằng ở Việt Nam thì... phải vậy, nhưng điều này cũng có nghĩa là quy định thời gian rút ngắn như vậy có chăng thì cũng chủ yếu xảy ra... trên giấy!

Do đó, điều còn thiếu, yếu trong các chính sách hỗ trợ của Việt Nam không phải là loại hình hỗ trợ cụ thể (gồm miễn, giảm thuế), mà chính là chuyện thực thi. Chính quyền các địa phương cần làm ngay và tốt việc triển khai hỗ trợ chủ yếu qua trực tuyến, với các chứng từ được đơn giản hóa (và dưới dạng hình chụp) để tạo sự nhanh chóng, thuận tiện tối đa cho người dân và doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh phải cách ly, phong tỏa. Việc chi trả, thụ hưởng cũng nên chủ yếu được tiến hành qua chuyển khoản, séc, hoặc một hình thức ủy nhiệm chi nào đó đối với những đối tượng không có tài khoản ngân hàng.

Chuyển sang chuyện miễn, giảm thuế. Không rõ khi thực hiện Nghị quyết 63, Bộ Tài chính có đề xuất miễn, giảm thuế giá trị gia tăng hay không. Nhưng cần lưu ý rằng, trên thế giới, cho đến tháng 4-2020, theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ có chừng một chục nước là có cắt giảm và/hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng, nhưng cũng chủ yếu chỉ là cho một số sản phẩm/ngành(1). Tương tự, chỉ có một vài nước được báo cáo là có động thái liên quan đến thuế thu nhập doanh nghiệp như hoãn nộp, kéo dài thời gian khai báo thuế, kéo dài thời gian kiểm toán thuế, và (ít hơn nữa là) cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.

Như vậy, có thể nói, việc trực tiếp miễn, giảm thuế nói chung và thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân hay doanh nghiệp không nằm trong các hình thức hỗ trợ phổ biến trên thế giới. Nguyên nhân chính là bởi nhu cầu đảm bảo tài khóa bền vững trong bối cảnh thu ngân sách từ thuế sẽ sụt giảm mạnh trong đại dịch do các hoạt động kinh tế bị chững, chậm lại, ảnh hưởng đến khả năng tăng chi ngân sách cho y tế, kinh tế và xã hội trong và sau dịch(2). Ngoài ra, sự bất trắc về cuộc khủng hoảng do dịch Covid-19 gây ra - một sự việc chưa có tiền lệ - và ảnh hưởng của nó lên thu ngân sách càng làm tăng sự thận trọng liên quan đến cắt giảm thuế, phí ở nhiều quốc gia.

Ở Việt Nam, chắc hẳn rất nhiều người bất ngờ với thực tế thu thuế tăng mạnh nửa đầu năm nay so với năm 2020 được thúc đẩy chủ yếu bởi sự nóng sốt của các thị trường từ chứng khoán, bất động sản đến ô tô. Nhưng tình hình nửa năm còn lại sẽ tiếp tục xu hướng nửa đầu năm hay không là điều bỏ ngỏ. Ngược lại, điều chắc chắn là nhu cầu chi ngân sách hỗ trợ nền kinh tế nửa năm cuối cũng sẽ tăng mạnh bởi dịch bệnh đã bùng phát mạnh hơn, và tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại.

Trong hoàn cảnh này, việc (sẽ) không miễn, giảm (ngay) thuế, gồm thuế giá trị gia tăng, trên diện rộng là điều có thể hiểu được và cần cảm thông, nếu Chính phủ không thể/không muốn thực hiện.

-------------

(1) https://blogs.worldbank.org/developmenttalk/tax-relief-time-crisis-what-countries-are-doing-sustain-business-and-household

(2) https://www.oecd-ilibrary.org/sites/a06bffa0-n/index.html?itemId=/content/component/a06bffa0-en

Tuesday 13 July 2021

Kinh tế sáu tháng cuối năm 2021 có khả quan? (Bài đăng trên KTSG, 12/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/318049/kinh-te-sau-thang-cuoi-nam-2021-co-kha-quan.html

Theo công bố mới đây của Tổng cục Thống kê, GDP quí 2-2021 ước tính tăng 6,61% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 0,39% của quí 2-2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng 6,73% của quí 2 các năm 2018 và 2019. Do đó, GDP sáu tháng đầu năm tăng 5,64%, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của sáu tháng đầu năm 2020, nhưng cũng thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2018 và 2019.

Kết quả tăng trưởng trên có là khả quan hay không? Câu trả lời tùy thuộc vào việc chúng ta so sánh nó với cái gì. Nếu so sánh với kết quả trong cùng kỳ năm 2020 thì rõ ràng đây là một kết quả rất khả quan, rất ấn tượng, đặc biệt xét trong bối cảnh nhiều nước thậm chí vẫn còn tăng trưởng âm trong quí 1-2021 (lưu ý rằng ở thời điểm này chắc chỉ có mỗi Việt Nam đã công bố tăng trưởng GDP của quí 2-2021).

Nhưng nếu so sánh với mục tiêu tăng trưởng trong cả năm 2021 của Quốc hội đặt ra cho Chính phủ là 6%, và mục tiêu “phấn đấu” của Chính phủ là 6,5% như được đề ra trong Nghị quyết 01 của Chính phủ đầu năm nay, thì rõ ràng đây là một kết quả không khả quan, đặc biệt khi xét đến nền so sánh rất thấp là năm 2020. Cần lưu ý rằng ở nhiều nước/vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ..., sự tăng trưởng đã bứt phá mạnh mẽ trong năm nay, cao hơn đáng kể tốc độ tăng trưởng của Việt Nam, một phần cũng bởi cái nền so sánh thấp này.

Vậy tăng trưởng của Việt Nam trong nửa năm còn lại sẽ ra sao, có “khả quan” hay không?

Không xét đến phương pháp tính toán dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là chính xác, khoa học hay chỉ là định tính, “áng chừng”, kịch bản 2 đã chắc chắn không xảy ra, khi mà dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, lan rộng ở một số địa phương, vượt quá cái mốc tháng 6. Kịch bản này càng bất khả thi như phân tích thêm dưới đây.Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra hai kịch bản tăng trưởng cho nửa năm còn lại. Ở kịch bản 1, nếu dịch bệnh được khống chế về cơ bản trong tháng 7-2021 thì tăng trưởng quí 3 và quí 4 sẽ đạt lần lượt 6,2% và 6,5%, đưa tăng trưởng cả năm 2021 lên 6%, đạt mục tiêu do Quốc hội đề ra. Ở kịch bản 2, nếu dịch bệnh cơ bản được khống chế trong tháng 6 thì tăng trưởng cả năm 2021 sẽ đạt mục tiêu “phấn đấu” của Chính phủ là 6,5% (quí 3 và quí 4 tăng trưởng lần lượt là 7% và 7,5%).

Với kịch bản 1, việc khống chế về cơ bản dịch trong tháng 7 nếu có xảy ra thì cũng chủ yếu chỉ là trên giấy. Bởi yếu tố quyết định đến việc dịch Covid-19 có tiếp tục lây lan trên diện rộng hay không là việc tiêm chủng rộng rãi vaccin, tất nhiên kèm theo điều kiện tiên quyết là các loại vaccin đã và sẽ được đưa vào sử dụng có hiệu quả với các loại biến thể hiện tại và trong tương lai của virus. Nếu xét trên phương diện tiêm chủng và tính hiệu quả của vaccin này thì, như dự báo của cơ quan chức năng, thậm chí đến năm 2022 chúng ta may ra mới thực hiện được mục tiêu.

Trong khi Việt Nam chưa phổ cập vaccin và không có biện pháp gì khác khả dĩ để chống lại dịch Covid-19 thì các đợt bùng phát dịch mới sẽ luôn chực chờ. Nên nếu giả sử dịch bệnh có lắng xuống trong tháng 7 thì nó hoàn toàn có khả năng bùng phát lại trong các tháng tới mà chẳng có phép mầu nào cứu vớt chúng ta thoát khỏi phải sống chung với thảm họa này.

Vậy, không lẽ chúng ta không còn có cách thức, công cụ nào để tăng trưởng sáu tháng còn lại của năm trở nên “khả quan”? Câu trả lời là: Vẫn có.

Đó đơn giản chỉ là hạ thấp mục tiêu tăng trưởng năm nay. Đúng hơn, chúng ta đừng tự mình làm khó cho mình khi đặt ra một mục tiêu từ nhiều tháng trước trong khi diễn biến dịch bệnh và công tác tiêm phòng biến động từng ngày theo hướng không thể lường trước được.

Những biện pháp và công cụ kiểu như “kiên quyết thực hiện mục tiêu kép” có giúp ích gì được không? Rất tiếc, con virus vô hình không biết tuân theo mệnh lệnh, ý chí của con người. Nó đặt ra cho chúng ta chỉ có hai lựa chọn: hoặc là tiêu diệt/khống chế được nó (và các biến thể) bằng vaccin để rồi có tăng trưởng kinh tế (mạnh mẽ), hoặc là phải (tiếp tục) giãn cách, phong tỏa các hoạt động kinh tế để rồi tăng trưởng bị đình trệ, ảnh hưởng trong một số giai đoạn của năm. 

Chúng ta đã không tự chủ, không đảm bảo được nhanh chóng và chắc chắn nguồn cung vaccin. Thậm chí, khi có vaccin, chúng ta đã không biết cách tổ chức tiêm phòng thế nào cho vừa nhanh vừa đảm bảo không lây nhiễm chéo như được thể hiện qua hình ảnh những đám đông chen chúc trong các địa điểm tiêm chủng. Với những hạn chế, khiếm khuyết về năng lực cơ bản như vậy thì việc đặt ra những mục tiêu cao xa sẽ chỉ làm khả năng “bung” và “toang” xảy đến nhanh hơn, chắc chắn hơn mà thôi.

Tóm lại, có nhiều khả năng tăng trưởng trong sáu tháng còn lại và cả năm sẽ thấp hơn ít nhất là mục tiêu 6,5% nếu Việt Nam không tăng tốc và đảm bảo việc tiêm phòng vaccin hiệu quả.

Nhưng dù thế nào, mọi tốc độ tăng trưởng dương trong phần còn lại của năm cũng đều là điều khả quan và đáng hoan nghênh bởi sự hữu hạn của các nguồn lực và năng lực của hệ thống, cũng như sự chịu đựng hết mức và cố gắng đến kiệt sức của doanh nghiệp và người dân suốt từ năm ngoái, trong khi Chính phủ chưa/không giúp gì được nhiều, thậm chí còn “huy động” nguồn lực từ doanh nghiệp và người dân. 

Sunday 11 July 2021

Xử lý cứng rắn vấn nạn tin tặc (Bài đăng trên Đầu tư, 24/6/2021, bản gốc)

https://baodautu.vn/xu-ly-cung-ran-van-nan-tin-tac-d145674.html

Các vụ tin tặc tấn công doanh nghiệp bằng mã độc để đòi tiền chuộc đã tăng mạnh từ năm 2020 khi các doanh nghiệp tíc cực chuyển đổi mô hình kinh doanh ứng dụng số hóa trong bối cảnh đại dịch nổ ra, buộc các quốc gia và doanh nghiệp phải áp dụng phong tỏa, cách ly.

Không chỉ gây ra thiệt hại cho bản thân các doanh nghiệp bị tấn công, qua số tiền chuộc phải trả để đổi lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường, cũng như những tổn thất cho doanh nghiệp do gián đoạn sản xuất trong thời gian bị tấn công, các vụ tấn công này có thể còn là mối đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và an toàn kinh tế, xã hội.

Mối đe dọa an ninh lớn

Như vụ tấn công đòi tiền chuộc mới xảy ra gần đây đối với JBS, nhà chế biến thịt lớn nhất thế giới. Vụ này được cho là do nhóm tin tặc REvil có liên quan đến Nga gây ra, và nhóm này cũng là tác giả của khoảng 100 vụ tấn công đòi tiền chuộc có mục tiêu khác, trong số đó phải kể đến vụ tấn công trước đó vào công ty đường ống dẫn dầu Colonial của Mỹ.

Tuy là một ngành chế biến đơn giản, thâm dụng lao động nhưng JBS – công ty của Brazil có 230 nhà máy hoạt động ở 15 quốc gia, giết mổ và chế biến 75.000 con bò, 115.000 con lợn, và hàng triệu con gà mỗi ngày – đã phải tạm ngừng sản xuất nhiều nhà máy tại Mỹ, Úc, và Canada khi tin tặc tấn công, làm tê liệt các chương trình theo dấu và phân loại gia súc, gia cầm của họ.

Vấn đề là JBS là nhà chế biến thực phẩm lớn nhất thế giới nên sự buộc phải ngừng sản xuất của họ đã trở thành mối đe dọa cho an ninh lương thực, thực phẩm của các quốc gia có liên quan. Chẳng hạn, ở Mỹ, trong ngày cao điểm của vụ tấn công, chỉ có 94.000 con gia súc được giết mổ so với con số 121.000 con trong cùng ngày một tuần trước đó. Không chỉ dừng ở đó, do sự tập trung cao trong ngành chế biến thịt, nên khi một công ty bị gián đoạn sản xuất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến toàn bộ chuỗi cung ứng hạ nguồn trong ngành.

Phản ứng quốc gia

Dù JBS đã rất kín tiếng về vụ tấn công, hầu như chỉ tiết lộ một số thông tin bắt buộc theo yêu cầu với một doanh nghiệp niêm yết, nhưng vụ này đã trở thành vấn đề quốc gia, với việc chính quyền Tổng thống Biden cáo buộc một tổ chức tội phạm ở Nga, tương tự như vụ tấn công Colonial, và tuyên bố sẽ không bỏ qua một lựa chọn nào trong vụ này. Ông Biden được báo cáo là cũng sẽ kháng nghị vấn đề này với Tổng thống Nga Putin trong một cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai nhà lãnh đạo vào ngày 16/6 ở Geneva.

Duy trì áp lực chính trị liên tục để buộc Nga phải có trách nhiệm với các tin tặc là một phương cách tiếp cận mà các chuyên gia an ninh đều cho là đúng đắn. Bởi dù Nga không tài trợ cho tin tặc nhưng dường như họ đã bỏ mặc để tin tặc tự do hoành hành. Nếu chính quyền Nga cứng rắn hơn, tỏ thái độ không dung tha tội phạm mạng thì hoạt động tội phạm sẽ phải co hẹp lại.    

Bên cạnh giải pháp chính trị, ở trong nước, chính quyền ông Biden cũng đang chịu áp lực phải có một biện pháp đối phó hiệu quả. Một số chuyên gia an ninh đã kêu gọi quân đội Mỹ nhắm mục tiêu vào các nhóm tội phạm có tổ chức và thậm chí tiến hành tấn công ngược, gồm trưng lên mạng các chi tiết riêng tư về bọn tội phạm.

Ngoài ra, Chính phủ Mỹ cũng được khuyến nghị cần nâng cao nhận thức về chuyện tấn công mạng như một vấn đề an ninh quốc gia trong giới chính trị và doanh nghiệp và tạo dựng một khuôn khổ nhất quán để chống lại các cuộc tấn công mạng. Chỉ khi nào bọn tội phạm tống tiền phải đối mặt với tương lai chắc chắn sẽ bị truy tìm và lôi ra ánh sáng công lý bất kể chúng ẩn nấp ở đâu thì lúc đó mới có hy vọng chúng sẽ trùn tay.

Liên hệ với Việt Nam

Ở Việt Nam thời gian gần đây cũng đã chứng kiến nhiều vụ tấn công, lừa đảo qua mạng, xảy ra không chỉ với cá nhân và doanh nghiệp, mà còn với cả các cơ quan nhà nước. Dù rằng cho đến nay vẫn chưa có báo cáo nào cho thấy đã xảy ra những vụ tấn công gây tác động lớn đến an ninh và an toàn kinh tế, xã hội nhưng điều này không có nghĩa là sẽ không có những vụ việc lớn tương tự như Continental và JBS xảy ra ở Việt Nam trong tương lai gần.

Phản ứng thông thường ở Việt Nam cho đến nay là cảnh bảo và kêu gọi các tổ chức và doanh nghiệp đầu tư vào phần cứng và phần mềm tin học, và giáo dục cho nhân viên các biện pháp phòng chống như không mở các email nghi vấn và cẩn trọng khi cắm USB (có thể đã nhiễm virus) vào hệ thống. Đồng thời khi bị tấn công thì doanh nghiệp và tổ chức phải báo với các cơ quan chức năng mà không nên tùy tiện xử lý, tuân theo yêu cầu của tin tặc.

Tuy nhiên, cũng qua vụ Continental và JBS cho thấy, đầu tư vào phần cứng, phần mềm và giáo dục nhân viên cũng không thể ngăn ngừa hữu hiệu khả năng bị tấn công. Còn việc phải báo cáo cho cơ quan chức năng thì sẽ gặp trở ngại khi doanh nghiệp, tổ chức thấy số tiền đòi chuộc không quá lớn, nhất là so với thiệt hại khi phải ngừng hoạt động, và/hoặc bị tin tặc đe dọa công khai các thông tin lấy cắp được, trong khi việc xử lý của cơ quan chức năng có thể là quá chậm chạp, không hữu hiệu.

Bởi vậy, có lẽ Chính phủ cũng cần phải đưa ra một khuôn khổ nhất quán trong xử lý tin tặc, gồm lập trường cứng rắn, không khoan nhượng với tin tặc, đi kèm với các nỗ lực của các đơn vị phòng chống tội phạm để nhanh chóng truy tìm và lôi ra ánh sáng các tổ chức tội phạm trong sự phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế.

Sự tin tưởng của cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức vào khả năng và sự cương quyết của Chính phủ cũng sẽ được củng cố bởi sự trợ giúp về tài chính, công nghệ, kỹ năng và các chỉ dẫn cần thiết để ngăn ngừa và đối phó với các cuộc tấn công mạng khi chúng xảy ra. Khi nguồn lực của Chính phủ có hạn, sự hợp tác công-tư trong phòng và chống tội phạm mạng là điều không thể thiếu như một chiến lược quốc gia đối phó với vấn nạn tin tặc.    


Thursday 8 July 2021

Trợ lý ảo thông minh giúp mở ra một không gian mới cho sự phát triển kinh tế số (Bài đăng trên ICT, 7/7/2021)

https://ictvietnam.vn/tro-ly-ao-thong-minh-mo-khong-gian-moi-cho-su-phat-trien-kinh-te-so-20210706173037547.htm 

Trợ lý ảo thông minh (IVA), còn được gọi là trợ lý cá nhân thông minh (IPA), là một phần mềm hiểu các lệnh thoại bằng ngôn ngữ tự nhiên và hỗ trợ hoàn thành các lệnh cơ bản. các nhiệm vụ. Các tác vụ này có thể bao gồm soạn thảo tin nhắn văn bản, tìm kiếm thông tin trên internet, tìm khách sạn hoặc nhà hàng, kiểm tra đặt chỗ chuyến bay, nghe nhạc, chơi trò chơi, thêm sự kiện vào lịch và kiểm tra trạng thái của các thiết bị nhà thông minh, cung cấp thông tin sản phẩm, hỗ trợ khách hàng thanh toán hóa đơn và thực hiện chuyển khoản hoặc hoàn thành các biểu mẫu và chuyển trực tiếp các thắc mắc của khách hàng đến các nhân viên thực phụ trách dịch vụ khách hàng. Nhờ đó, các trợ lý ảo này ngày nay được tích hợp vào hầu hết các thiết bị, chẳng hạn như điện thoại thông minh, đồng hồ thông minh, máy tính bảng và loa di động. Một số IVA phổ biến nhất bao gồm Trợ lý Google, Siri của Apple, Cortana của Microsoft và Alexa của Amazon.

IVA thực hiện hiệu quả nhiều chức năng khác nhau cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ, công nghệ  thông tin, ngân hàng, ô tô và các lĩnh vực khác. Ngoài ra, chúng mang lại phản hồi trò chuyện tốt hơn, giúp cải thiện trải nghiệm của khách hàng. Các nhà cung cấp IVA đang tích cực cải thiện để đáp ứng các ngôn ngữ khu vực và cung cấp IVA tùy chỉnh để khách hàng từ các khu vực địa lý khác nhau có thể dễ dàng giao tiếp.

Việc đầu tư ngày càng nhiều vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của một số công ty hàng đầu để giới thiệu các sản phẩm sáng tạo trong ngành đang củng cố sự tăng trưởng của thị trường. Một trong những ví dụ về R&D là Google Duplex, được công bố vào tháng 5 năm 2018. Đây là một dự án mới, trong đó Trợ lý Google cho phép người dùng đặt chỗ qua điện thoại thông minh mà không cần bất kỳ sự tương tác nào từ phía họ.

Một ví dụ khác về sản phẩm sáng tạo ứng dụng IVA là giải pháp an ninh và nhà thông minh, được cung cấp bởi Ring (Mỹ). Đây là một công ty cung cấp các giải pháp về an ninh gia đình với một loạt camera thông minh và chuông cửa video. Nó đã được Amazon mua lại, từ đó hỗ trợ Amazon trong việc tích hợp các công nghệ dựa trên giọng nói vào các sản phẩm an ninh gia đình do Ring cung cấp.

Hay như nỗ lực dùng IVA để giúp giảm thiểu sự phân tâm của người lái xe, khi một số lệnh thông tin giải trí có thể được thực hiện thông qua trợ lý ảo hỗ trợ giọng nói. Các công ty đang triển khai trợ lý ảo dựa trên AI trên các phương tiện có thể thực hiện các tác vụ như đề xuất điểm đến dựa trên lịch và tối ưu hóa năng suất của người lái xe bằng cách cung cấp tin tức, đọc email và tin nhắn, v.v. Ví dụ, vào tháng 9 năm 2019, các nhà sản xuất ô tô: Skoda đã công bố tích hợp trợ lý ảo trong xe của mình, có thể được truy cập thông qua lệnh thoại và hiện hỗ trợ sáu ngôn ngữ.

Ngoài ra, doanh số bán điện thoại thông minh ngày càng tăng trưởng, cùng với ảnh hưởng ngày càng tăng của các nền tảng truyền thông xã hội, đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong nhận thức của người tiêu dùng về những lợi ích mà IVA mang lại trên toàn thế giới.

Bên cạnh đó, xu hướng mang theo thiết bị của riêng mình (BYOD) và những tiến bộ công nghệ đã dẫn đến sự ra đời của tính năng làm việc từ xa. Những cải tiến trong những năm qua đã dẫn đến việc tăng cường sử dụng các công cụ dựa trên đám mây như Skype và MS Office Online. Việc tăng cường sử dụng các công cụ dựa trên đám mây này cho thấy ngày càng có nhiều người làm việc từ xa và phụ thuộc nhiều vào IVA để thực hiện nhiệm vụ của họ, từ đó mang lại những cơ hội to lớn cho sự phát triển của thị trường IVA.

Hơn nữa, việc thế hệ trẻ sử dụng IVA ngày càng tăng, cùng với trải nghiệm người tiêu dùng được cải thiện liên tục, đang thúc đẩy nhu cầu của họ trên khắp thế giới.

Trong bối cảnh IVA ngày càng phát triển và được ứng dụng rộng rãi như vậy, thị trường IVA toàn cầu ước đạt giá trị khoảng 4 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020, theo tính toán trong một báo cáo mới nhất của tổ chức nghiên cứu thị trường Research and Markets. Con số này thậm chí còn lớn hơn đáng kể, ở mức 5,82 tỷ USD vào năm 2020, theo báo cáo của một tổ chức nghiên cứu thị trường khác là Grand View Research.

Trong tương lai, thị trường IVA toàn cầu được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong các năm tới. Theo Grand View Research, thị trường này sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 28,5% từ năm 2021 đến năm 2028. Tốc độ này thậm chí có thể còn nhảy vọt hơn nữa khi xét đến tác động của Covid-19.

Đại dịch đã gây ra sự gián đoạn lớn trong các ngành khác nhau bao gồm cả ngành công nghệ. Covid-19 dự kiến ​​sẽ có tác động đáng kể đến lĩnh vực dịch vụ trong ngành công nghệ. Trong khi đó, các giải pháp công nghệ tiên tiến được dự đoán sẽ đóng góp đáng kể trong khi ứng phó với đại dịch Covid-19 và giải quyết các thách thức liên tục phát triển. Tình hình hiện tại do dịch bùng phát sẽ truyền cảm hứng cho các nhà cung cấp dược phẩm và cơ sở chăm sóc sức khỏe cải thiện đầu tư vào R&D của họ vào AI, hoạt động như một công nghệ cốt lõi để tạo ra nhiều sáng kiến ​​khác nhau.

Với sự lây lan của đại dịch Covid-19, nhiều cơ quan tiếp thị, tổ chức tài chính và cửa hàng tạp hóa đã bắt đầu triển khai đầy đủ các trợ lý ảo thông minh và các công cụ AI đàm thoại để nâng cao dịch vụ khách hàng trong cuộc khủng hoảng. Trong bối cảnh đại dịch, các doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức trong việc duy trì và sẵn sàng thử những con đường công nghệ mới như trợ lý ảo. Ngoài ra, trợ lý ảo internet đã hỗ trợ nhiều ngành dọc khác nhau trong những thời điểm khó khăn này. Một số công ty bảo hiểm y tế và các tổ chức y tế công cộng trên toàn thế giới đã triển khai chatbots để hỗ trợ người dùng / bệnh nhân đưa ra lời khuyên COVID-19 phù hợp.

Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số IVA phiên bản Việt, do người Việt Nam nghiên cứu và phát triển. Bối cảnh đằng sau việc này là mặc dù thế giới đã có nhiều sản phẩm liên quan, nhiều IVA nổi tiếng và phổ cập, ví dụ như Siri, Cortana và Google Now, nhưng rất ít người dùng Việt Nam sử dụng những IVA này do chúng chưa thực sự hiểu ngôn ngữ Việt và chưa tối ưu cho người Việt về mặt thông tin và địa phương hóa. Do vậy, Việt Nam cần phải phát triển các ứng dụng IVA dành riêng cho người Việt, để giúp người dùng Việt Nam giao tiếp với điện thoại và các công cụ khác của mình bằng các khẩu lệnh một cách tiện dụng nhất.

Những IVA tiếng Việt này gồm Kiki của Zalo thuộc VNG, Viettel Cyberbot của Viettel, Virtual Assistant for Vietnamese (VAV) của Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội,  

Các nhà phát triển IVA tiếng Việt cùng có chung kế hoạch tiếp tục phát triển hơn nữa các sản phẩm của mình, tích hợp chúng lên tất cả các thiết bị phần cứng như loa thông minh và các thiết bị IoT (thiết bị kết nối Internet vạn vật), phát triển ở mức độ cao hơn công cụ tìm kiếm bằng giọng nói và tích hợp lên các sản phẩm hiện hành của nhà phát triển...

Một trong những kế hoạch dài hạn của các nhà phát triển IVA Việt Nam là tiến hành tích hợp với các nhà sản xuất thiết bị gia dụng ở Việt Nam như Sony, Samsung, LG, cũng như các nhà sản xuất ô-tô. Với quy mô thị trường của vài chục triệu người sử dụng tiềm năng ở Việt Nam thì các nhà phát triển IVA của Việt Nam sẽ có lợi thế để đàm phán với các đối tác này một khi sản phẩm của họ đã trở nên phổ cập ở một thiết bị và phần mềm nào đó, chẳng hạn như Zalo. Tuy nhiên, để có thể đưa vào giai đoạn hoàn thiện và triển khai các mô hình kinh doanh trên, các nhà phát triển Việt Nam sẽ cần có một khoảng thời gian khá dài.

Trong khi đó, cũng không thể phủ nhận khả năng các IVA quốc tế sẽ tiếp tục được nâng cấp, hoàn thiện và Việt hóa để phù hợp tốt hơn với ngôn ngữ tiếng Việt và được người dùng Việt Nam sử dụng rộng rãi. Chẳng hạn như Google Assistant đã hỗ trợ tiếng Việt, tuy vẫn có những lúc trợ lý này không hiểu đúng, làm đúng những gì “ông chủ” mình sai bảo, mong muốn. Nhưng về lâu về dài thì các công cụ như AI và máy học sẽ giúp cho Google Assistant hay bất cứ IVA quốc tế nào cũng sẽ trở nên thông minh, hiểu chuyện, làm đúng và phục vụ các ông bà chủ người Việt tốt hơn, tương tự như cách mà phần mềm dịch tự động Google Translate đang ngày càng được cải thiện để các câu dịch Việt-Anh, Anh-Việt bớt ngu ngơ hơn.

Để tồn tại và tiếp tục phát triển trong cuộc cạnh tranh với các IVA của các ông lớn công nghệ thế giới phát triển, các IVA do người Việt phát triển trước mắt chỉ có thể tập trung khai thác nhanh chóng điểm mạnh và ưu thế duy nhất của mình là khả năng xử lý tiếng Việt của chính người Việt và ứng dụng phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Tuy nhiên, do các ông lớn công nghệ thế giới cũng có các team người Việt nên ưu thế này sẽ mất đi nhanh chóng, gây khó cho IVA Việt Nam trong việc chiếm giữ và phát triển thị phần.

Trong bối cảnh này, Chính phủ có thể đóng một vai trò nhất định trong việc trợ giúp sự phát triển của IVA Việt Nam qua những sáng kiến, giải pháp như áp dụng trợ lý ảo tại Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc tại chính quyền các địa phương. Với vai trò là người mua, người sử dụng như vậy, Chính phủ sẽ tạo ra một thị trường ngày càng phát triển rộng hơn cho IVA Việt Nam, nhưng với điều kiện là các IVA này cũng phải nhanh chóng được hoàn thiện và không ngừng nâng cấp để ít nhất cũng theo kịp những tính năng với cùng chất lượng mà các IVA quốc tế mang đến cho người dùng. Từ nay đến được thời điểm đó có lẽ sẽ không hề ngắn.  

Tuesday 6 July 2021

Sàn giao dịch nợ VAMC: Viễn cảnh thành 'chợ hoang'? (Bài đăng trên KTSG, 5/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/317875/san-giao-dich-no-vamc-vien-canh-thanh-cho-hoang.html/#293085

Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) mới đây thông báo sẽ khai trương sàn giao dịch nợ VAMC (sàn giao dịch) hoạt động theo mô hình chi nhánh. Sàn này đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tại Hà Nội.

Hoạt động chính của sàn cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản của các tổ chức, cá nhân. Mục tiêu hoạt động của sàn là tạo lập, cung cấp một loại hình dịch vụ mới, chuyên nghiệp, hiệu quả trong hoạt động xử lý nợ xấu, từ đó đẩy cao vị thế VAMC nhằm tạo động lực xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu, thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển với vai trò trung tâm của VAMC trên thị trường.

Mô hình chi nhánh là cái chi?

VAMC thông báo sàn giao dịch này hoạt động theo mô hình chi nhánh. Thông thường, nói đến chi nhánh thì sẽ phải nói đến những thứ liên quan như hội sở chính, tổng công ty... để phân biệt với chi nhánh. Ở đây, có thể coi bản thân VAMC đóng vai trò như hội sở chính hay tổng công ty, còn sàn giao dịch là chi nhánh.

Nhưng cũng khái niệm chi nhánh lại thường cho thấy chi nhánh phải có chức năng tương tự như hội sở chính, kiểu như ngân hàng XYZ, chi nhánh Hà Nội.

Phải thừa nhận rằng chuyện câu chữ này có vẻ quá “tiểu tiết”. Nhưng thực ra thì nó không phải là không có ý nghĩa, vì ít nhất nó cho thấy nếu không giải đáp thỏa đáng những bất cập chữ nghĩa này thì điều đó đồng nghĩa với việc không cần thành lập sàn giao dịch (hoặc một cái tên khác) với đầy đủ ban bệ, cơ chế, biên chế, tiêu tốn thêm một mớ ngân sách nữa.VAMC và sàn giao dịch này có cùng chức năng tư vấn, môi giới, mua bán tài sản, nợ xấu. Tuy nhiên, bản thân VAMC không có chức năng là cái “sàn”, nôm na là cái chợ, như của sàn giao dịch. Vậy thì đẻ ra sàn giao dịch rồi dán cho nó cái nhãn là chi nhánh của VAMC xem ra rất gượng ép.

Nói cách khác, VAMC hoàn toàn có thể “mở lòng” mình ra để bao trọn chức năng cái chợ của sàn giao dịch, chẳng hạn như kiểu dành ra một (số) phòng làm việc trong trụ sở VAMC và treo biển bên ngoài “Phòng/sàn giao dịch tài sản” là đủ.

Viễn cảnh “chợ hoang”?

Công bằng mà nói, việc thành lập sàn giao dịch dù muốn hay không thì đã được “quy hoạch” từ trước, là sản phẩm ắt phải được cho ra đời theo Đề án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2017-2020 hướng đến 2022 nếu các tổ chức và cá nhân liên đới không muốn bị đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ.

Đáng lưu ý là cho đến tháng 12-2020, đã có 21 tổ chức tín dụng thanh toán hết trái phiếu đặc biệt tại VAMC. Từ đó đến nay, VAMC chỉ còn quản lý nợ xấu của 18 tổ chức với gần 92.000 tỉ đồng mệnh giá trái phiếu đặc biệt. Con số nợ đã xử lý bởi VAMC cùng các tổ chức tín dụng lũy kế đến 31-12-2020 là trên 290.000 tỉ đồng, nhưng riêng trong năm 2020, con số này là 46.000 tỉ đồng(1). Cứ với cái đà xử lý này thì con số 92.000 tỉ đồng nợ mà VAMC đang quản lý có lẽ sẽ được xử lý trong vòng hai năm tới, kể cả khi không có sàn giao dịch.

Trong khi đó, sứ mệnh mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt VAMC có lẽ đã gần như kết thúc, vì các ngân hàng yếu kém với tỷ lệ nợ xấu trên 3% phần lớn là ngân hàng cỡ nhỏ, đã được phát hiện và giám sát chặt chẽ. Nợ xấu của chúng thì đã hầu như phải bán cho VAMC trước đó, đổi lấy trái phiếu đặc biệt VAMC. Còn nợ xấu được VAMC mua (mới) bằng tiền thật thì chắc chắn sẽ ở quy mô không đáng kể bởi nguồn vốn rất hạn chế của VAMC.

Lưu ý rằng dù Ngân hàng Nhà nước đề xuất mở rộng lĩnh vực hoạt động của VAMC hướng đến mua bán nợ và tài sản của mọi thành phần kinh tế, nhưng việc này chỉ có thể bắt đầu trong giai đoạn từ năm 2026 trở đi(2).

Như vậy, nguồn hàng cho sàn giao dịch sẽ chủ yếu là nợ và tài sản khác của các tổ chức và cá nhân, nằm ngoài hoặc không do VAMC quản lý, ít nhất cho đến năm 2026 hoặc xa hơn. Vấn đề là sàn giao dịch sẽ làm gì và như thế nào để cạnh tranh thu hút nguồn hàng này lên sàn để giao dịch tại thời điểm hiện tại và trong tương lai?

Cần nhớ, ngoài VAMC, còn có Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) thuộc Bộ Tài chính, và các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng (AMC) cũng có hầu hết các chức năng và nhiệm vụ, cùng cạnh tranh với (sàn giao dịch của) VAMC. Sự cạnh tranh, theo cơ chế thị trường, là rất tốt ở cái nghĩa là nó buộc mọi chủ thể liên quan phải dốc sức để tăng hiệu quả hoạt động, nhưng điều này cũng đồng nghĩa với khả năng có thể xảy ra là, vì bị cạnh tranh nên sàn giao dịch của VAMC sẽ... bị ế!

Về phía người mua, dường như (sẽ) có những hạn chế và điều kiện để không phải ai thích thì đều sẽ trở thành người mua (tiềm năng), đều có thể tham gia vào sàn giao dịch. Bình thường thì tìm người được người mua đã khó, nay có thêm những điều kiện và hạn chế như vậy thì chắc chắn số người quan tâm và được lên sàn để tìm mua tài sản sẽ càng ít hơn. Tất nhiên là khi người mua ít vãng lai thì người bán cũng không mấy mặn mà tìm đến kinh doanh ở cái chợ đó.

Còn nói về năng lực “chuyên môn” của VAMC, được nhấn mạnh như một điểm nhấn, là lợi thế cạnh tranh, thu hút khách hàng (cả phía cung và cầu). Chỉ qua một ví dụ thực tế là cho đến nay, một việc cơ bản như thẩm định giá mà VAMC cũng không thể thực hiện nổi, vẫn phải thường xuyên đem ra đấu thầu để lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá từ bên ngoài (tức phải thuê ngoài)(3), là có thể thấy năng lực thực sự của (sàn giao dịch) VAMC.

Tóm lại, càng nhìn nhận sâu vào vấn đề thì càng thấy dường như việc thành lập sàn giao dịch này chỉ là việc chạy theo “quy hoạch” được cho ra đời từ nhiều năm trước, không phù hợp với, không lường trước được tình hình trong tương lai. Kết quả của những việc như vậy đương nhiên thường là không tốt, mà trong trường hợp này rất có thể là tình trạng “hoang hóa” trên chợ giao dịch nợ xấu của VAMC.

(1) https://vneconomy.vn/vamc-sap-khai-truong-cho-mua-ban-no-xau.htm

(2) https://vneconomy.vn/vamc-se-mua-ban-no-va-tai-san-cho-moi-thanh-phan-kinh-te.htm

(3) https://sbvamc.vn/thong-bao-dau-gia-chi-tiet/185vamc-ban3-5631

Monday 5 July 2021

Tác động của giá dầu thô lên kinh tế Việt Nam (Bài đăng trên Đầu tư, 4/7/2021)

https://baodautu.vn/tac-dong-cua-gia-dau-tho-len-kinh-te-viet-nam-d146358.html

Sau khi giảm mạnh, thậm chí lao dốc xuống mức âm lần đầu tiên trong lịch sử vào tháng 4/2020, giá dầu thô WTI kết thúc năm 2020 ở mức trung bình là 41,47 USD/thùng, thấp hơn 35% so với năm 2019. Bắt đầu từ tháng 11/2020, giá dầu thô đã phục hồi và trên đà tăng mạnh, đạt 73,64 USD/thùng vào cuối tháng 6/2021, là mức cao nhất trong vòng gần 3 năm trở lại đây. Dự báo giá dầu năm 2021 sẽ đứng ở mức trung bình gần 70 USD/thùng, theo kết quả khảo sát của Fed chi nhánh Dallas, tức là sẽ tăng tới gần 68% so với năm 2020.

Giá dầu thô WTI giao ngay, USD/thùng

Tình hình xuất, nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam

Việt Nam là một nước nhập khẩu ròng dầu thô cũng như các sản phẩm xăng dầu. Theo số liệu thống kê xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, năm 2020, Việt Nam nhập khẩu 11,7 triệu tấn dầu thô, trị giá 3,8 tỷ USD. Cùng năm, Việt Nam xuất khẩu 4,7 triệu tấn dầu thô, thu về 1,6 tỷ USD. Như vậy, Việt Nam nhập siêu 7,1 triệu tấn dầu thô với giá trị 2,2 tỷ USD.

Tương tự, nhập khẩu sản phẩm xăng dầu các loại của Việt Nam năm 2020 là 8,3 triệu tấn (trị giá 3,3 tỷ USD), trong khi xuất khẩu đạt 2,3 triệu tấn (trị giá 0,98 tỷ USD), tạo nên lượng nhập siêu là 6 triệu tấn, trị giá 2,3 tỷ USD.

Tổng cộng nhập siêu dầu thô và xăng dầu các loại của Việt Nam năm 2020 lên đến hơn 13 triệu tấn, có giá trị là 4,5 tỷ USD.

Sáu tháng đầu năm nay (tính đến 15/6), Việt Nam tiếp tục nhập siêu 2,7 triệu tấn dầu thô, 2,7 triệu tấn xăng dầu với giá trị tương ứng là 1,2 tỷ USD và 1,4 tỷ USD, đưa tổng nhập siêu dầu thô và xăng dầu lên 2,6 tỷ USD.

Tuy lượng dầu thô và xăng dầu nhập siêu tính đến 15/6 chỉ lần lượt là 38% và 45% lượng nhập siêu trong cả năm 2020 tính theo tấn, nhưng tính theo USD thì lượng nhập siêu này tương đương 52% và 61% của lượng nhập siêu năm 2020. Sự khác biệt này chính là bởi giá dầu thô và theo đó là giá xăng dầu đã tăng mạnh trong nửa đầu năm nay so với 2020, như hình trên cho thấy.

Tác động tiêu cực

Là một nước nhập khẩu ròng cả dầu thô và xăng dầu thì nền kinh tế Việt Nam đương nhiên, về lý thuyết, sẽ bị thiệt hại khi giá dầu thô tăng lên, bởi dầu thô là một trong những hàng hóa đầu vào cơ bản và quan trọng của nền kinh tế. Giá của một hàng hóa nhập khẩu như dầu thô và xăng dầu gia tăng sẽ làm tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế làm gia tăng áp lực lên giá cả. Áp lực giá cả tăng trong khi thu nhập không có triển vọng cải thiện đột ngột và đáng kể trong năm nay do đại dịch đang hoành hành sẽ buộc doanh nghiệp và người dân phải tiết giảm đáng kể chi tiêu và đầu tư, từ đó ảnh hưởng ngược trở lại đà tăng tăng trưởng GDP trong năm nay.

Mặt khác, giá nhập khẩu dầu thô và xăng dầu các loại tăng cũng góp phần làm tăng thâm hụt thương mại, từ đó gây áp lực lên tỷ giá USD/VND.    

Tuy nhiên, công bằng mà nói thì mức độ tác động tiêu cực nêu trên lên nền kinh tế Việt Nam có thể không thực sự lớn, dù tác động này rất khó có thể được lượng hóa cụ thể thành con số. Căn cứ để nói tác động tiêu cực không thực sự lớn là ở mức tăng tuyệt đối của nhập siêu dầu thô và xăng dầu dự báo cho năm nay không quá lớn.

Cụ thể hơn, như trên đã cho thấy, tính đến 15/6 năm nay, tổng nhập siêu dầu thô và xăng dầu là 2,6 tỷ USD. Lưu ý thêm là giá dầu thô trung bình từ đầu năm đến 15/6 đã tăng khoảng gần 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Với giá dầu thô trung bình cho cả năm 2021 ước tính cao hơn năm 2020 trong khoảng 50%-60%, và với giả sử lượng dầu thô và xăng dầu nhập siêu trung bình theo tháng/năm không thay đổi đáng kể thì có thể ước tính giá trị dầu thô và xăng dầu nhập siêu năm 2021 vào khoảng 5,7 tỷ USD.

So với con số tổng giá trị nhập siêu dầu thô và xăng dầu năm 2020 là 4,5 tỷ USD thì có thể thấy nếu giá dầu thô trong nửa năm còn lại không tăng quá mạnh so với mức dự báo (73,64 USD/thùng cuối năm 2021) thì mức tăng nhập siêu về dầu thô và xăng dầu năm 2021 cũng chỉ là 5,7-4,5=1,2 tỷ USD so với năm 2020.

Với con số khá khiêm tốn 1,2 tỷ USD so với quy mô GDP khoảng 268 tỷ USD (năm 2020), tức chiếm chưa đến 0,5%, thì dù giá dầu thô có tăng mạnh trong năm nay so với năm 2020, cũng vẫn có thể kết luận rằng tác động tiêu cực của giá dầu tăng lên nền kinh tế Việt Nam là không thực sự đáng kể.

Tác động tích cực

Ở chiều ngược lại, giá dầu thô và xăng dầu tăng lại là một điều tốt cho thu ngân sách. Nhà nước không chỉ thu về ngân sách từ việc khai thác và bán dầu thô mà còn thu gián tiếp qua các loại thuế, phí lên xăng dầu các loại.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng thu ngân sách từ dầu thô tiếp tục suy giảm mạnh trong các năm qua, chỉ đạt 34,5 ngàn tỷ đồng năm 2020, chiếm 2,7% tổng thu ngân sách trong cùng năm. Trong khi đó, thu thuế, phí xăng dầu, có giá trị nhỏ hơn so với thu từ dầu thô, cũng sẽ chỉ tăng lên chừng độ một vài ngàn tỷ đồng nếu giá dầu thô năm nay tăng mạnh lên như dự báo.

Do vậy, nếu giả sử lượng dầu thô xuất khẩu và lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước không thay đổi đáng kể thì có thể ước tính rằng tác động của giá dầu thô tăng lên thu ngân sách nhà nước cũng chỉ chừng một hai phần trăm tổng thu ngân sách. Nếu tính cả những tác động tiêu cực của sự tăng giá dầu thô lên mức tiêu thụ xăng dầu trong nước, cũng như xu hướng giảm sản lượng dầu thô khai thác trong nước và xuất khẩu thì tất nhiên là tác động tích cực này sẽ nhỏ hơn.

Kết luận

Giá dầu thô tăng sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực lên Việt Nam phụ thuộc vào góc nhìn. Nếu nhìn từ góc độ toàn bộ nền kinh tế thì giá dầu thô tăng sẽ gây ra một số thiệt hại, nhưng ước tính thiệt hại này trong năm 2021 cũng không quá lớn so với GDP.

Ngược lại, nếu nhìn từ góc độ thu ngân sách nhà nước thì giá dầu thô tăng là một điều có lợi. Tuy nhiên, do sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm liên tục bởi trữ lượng khai thác giảm, nên nhiều khả năng giá dầu thô tăng cũng chỉ làm cải thiện nhẹ thu ngân sách nhà nước. Mặt khác, do thu ngân sách còn phụ thuộc vào các hoạt động kinh tế và nguồn thu từ các lĩnh vực khác nên khi nền kinh tế bị ảnh hưởng tiêu cực từ giá dầu thô tăng thì thu ngân sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng một phần. Do đó, tác động ròng của giá dầu thô tăng lên thu ngân sách có thể không (thay đổi) đáng kể.

Tóm lại, xét một cách tổng thể, giá dầu thô tăng là điều nhìn chung có hại hơn là có lợi cho cả nền kinh tế Việt Nam, tuy thiệt hại có thể không đáng kể trong năm nay.


Sunday 4 July 2021

Giảm phát thải: cuộc mặc cả lợi ích (Bài đăng trên KTSG, 4/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/317888/giam-phat-thai-cuoc-mac-ca-loi-ich.html/#293067

Bất chấp nhiều nỗ lực và các cuộc thảo luận quốc tế diễn ra trong nhiều năm cho đến nay, tương lai của vấn đề giảm phát thải nhà kính vẫn khá mờ mịt. Trong khi đó, khối lượng phát thải đã không chờ đợi kết quả của các cuộc thương lượng quốc tế mà tiếp tục gia tăng. Cụ thể, sau khi đi ngang trong giai đoạn 2014-2016 vì tăng trưởng yếu của kinh tế thế giới, lượng phát thải đã tăng trở lại năm 2018 (tăng 2,7%) và 2019 (0,6%).

May mắn là “nhờ” đại dịch xảy ra năm 2020 làm giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng nên phát thải thế giới từ khu vực năng lượng đã giảm tới 5,8%, mức giảm mạnh nhất từ Thế chiến thứ hai. Mức giảm này tương đương với toàn bộ lượng phát thải của khu vực EU (1). Nhưng với sự phục hồi được kỳ vọng là mạnh mẽ của kinh tế thế giới kể từ năm nay, giảm phát thải tiếp tục là một thách thức toàn cầu trong những năm tới.

Sự vị kỷ đằng sau

Nếu có phải tóm tắt trong mấy chữ về lý do cho tình trạng trì trệ này thì đó chính là thái độ vị kỷ, vị lợi. Cho  đến nay, vẫn còn không ít cá nhân và tổ chức hoài nghi vào các dự báo về phát thải của các nhà khoa học. Trong số này có cả những người như cựu Tổng thống Mỹ Trump và, do đó, cả chính quyền của ông. Cuộc khảo sát của Đại học Yale năm 2019 cho thấy vẫn có đến 48% cử tri đăng ký của Mỹ không ủng hộ lời kêu gọi Tổng thống ra tuyên bố sự ấm lên của thế giới là một vấn đề khẩn cấp quốc gia nếu Quốc hội Mỹ không làm gì.

Bên cạnh đó, phát thải khí nhà kính và biến đổi khí hậu là không biên giới. Trong bối cảnh này, sẽ hoàn toàn là một tâm lý tự nhiên khi người ta đợi người khác làm (trước), chứ không phải là mình.  

Sự vị kỷ còn được thôi thúc bởi những cân nhắc về kinh tế. Các sáng kiến giảm phát thải thế giới thường bị phản đối bởi các quốc gia đang phát triển và ngay trong nội bộ của cả quốc gia phát triển, đơn giản bởi một lẽ rằng người nghèo, nước nghèo sẽ bị tác động mạnh nhất bởi các biện pháp giảm thải toàn cầu.

Nếu thế giới có thực thi những sáng kiến kiểu như thuế phát thải carbon toàn cầu, giải pháp được cho là hợp lý nhất, thì, theo một ước tính, giá điện bình quân hộ tiêu dùng phải trả sẽ tăng lên vài chục phần trăm trong vòng một thập kỷ tới (2). Gần tương tự như vậy là giá khí đốt. Đây sẽ là một đòn đánh nặng lên ngân sách hộ gia đình nghèo trong bất cứ nước nào, cũng như tất cả các nước nghèo, đang phát triển và những nền kinh tế mới nổi. Cần nhớ rằng trên thế giới hiện nay vẫn còn đến hàng tỷ người chưa được tiếp xúc với điện.

Mặc cả lợi ích

Với những yếu tố nêu trên, có thể hiểu tại sao những nước như Ấn Độ (nước có lượng phát thải lớn thứ tư trên thế giới, sau Trung Quốc, Mỹ, và EU) cũng như châu Phi lại sẵn sàng đứng ngoài các sáng kiến giảm phát khí thải toàn cầu. Một phần, họ không thể đánh đổi tăng trưởng kinh tế để lấy giảm phát khí thải khi mà nhu cầu tăng trưởng là cấp thiết để đưa hàng trăm triệu công dân của mình thoát khỏi đói nghèo cùng cực. Phần khác vì suy nghĩ cho rằng trách nhiệm giảm phát chủ yếu là của các nước phát triển, đi trước, đã được hưởng nhiều lợi ích từ sự phát triển kinh tế dựa trên tiêu thụ năng lượng hóa thạch trước đây.

Do đó, cách hữu hiệu nhất để giảm phát thải phải là tài trợ cho các nước nghèo, đang phát triển trong quá trình áp dụng thuế phát thải toàn cầu. Tuy nhiên, việc duy trì tài trợ quốc tế trên quy mô lớn như vậy sẽ là điều phi thực tế. Cộng thêm bối cảnh hiện nay với các nước đang nỗ lực củng cố ngân sách, giảm thâm hụt, tương lai của việc cắt giảm phát thải sẽ tiếp tục phụ thuộc vào các cuộc mặc cả lợi ích trên quy mô toàn cầu, trong đó các nước đang phát triển thì yêu cầu sự tài trợ của các nước phát triển, còn các nước phát triển thì kêu gọi sự tự nguyện cắt giảm phát thải của các nước kia.

Việt Nam cũng đang... mặc cả

Những năm trước đây, Việt Nam đã “cam kết thực hiện giảm 8% phát thải vào năm 2030 so với kịch bản phát triển thông thường và nếu có thêm nguồn lực quốc tế thì có thể đạt 25%” trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (3). Cũng cần biết là Việt Nam không nằm trong số hơn 100 nước cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 trong 10  năm tới.

Con số cắt giảm 8%, nhất là so với “kịch bản phát triển thông thường” rõ ràng là một con số mang tính minh họa thì đúng hơn, cốt để cho thấy Việt Nam cũng chia sẻ thách thức chung của thế giới. Điều đáng chú ý là điều kiện “có thêm nguồn lực quốc tế” để đạt mức cắt giảm 25%. Như vậy, có thể hiểu Việt Nam sẽ chỉ tự nguyện cắt giảm đáng kể phát thải với điều kiện nhận được hỗ trợ tài chính của thế giới.

Mới đây, các con số cam kết trên được Việt Nam “chủ động” nâng lên thêm một mức nhỏ nữa, lần lượt thành 9% và 27% (4). Bối cảnh của sự tăng lên này dường như từ tốc độ phát triển nhanh của năng lượng tái tạo tại Việt Nam trong thời gian qua, trở thành nước được cho là có công suất lắp đặt điện mặt trời lớn thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Trung Quốc năm 2020.

Tuy nhiên, vẫn có thể nói rằng con số 9% vẫn là mang tính hình thức, nếu xét đến nhu cầu tự thân phải thay đổi của Việt Nam khi mà các dự án nhiệt điện chạy bằng năng lượng hóa thạch trong những năm tới sẽ khó còn được tài trợ bởi các nguồn vốn quốc tế nữa.

Mặt khác, nỗ lực phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam lại gặp trở ngại lớn từ mạng lưới truyền tải và dự trữ điện chưa phát triển, dẫn đến dư thừa lớn công suất điện từ pin mặt trời. Như vậy, Việt Nam có cắt giảm được 27% phát thải hay không phụ thuộc đáng kể vào nguồn tài chính (cho không) từ bên ngoài để gia tăng năng lực truyền tải và dự trữ điện (chỉ riêng mở rộng mạng lưới điện quốc gia đến năm 2030 đã cần đến gần 33 tỷ đô la Mỹ, theo Quy hoạch điện VIII).

Trong lúc đợi các đối tác nước ngoài nào đó chưa rõ bỏ vốn tài trợ, mua lại 18% (27%-9%) phát thải tự cam kết của mình, Việt Nam có lẽ vẫn phải tiếp tục phụ thuộc vào các dự án nhiệt điện để đảm bảo khả năng tiếp cận điện với giá hợp lý của người dân và doanh nghiệp. Và nguồn tài trợ cho các dự án này sẽ chủ yếu đến từ trong nước, vốn sẽ ngày càng eo hẹp khi các ngân hàng thương mại cũng theo xu hướng chung của thế giới “nói không” với tài trợ năng lượng hóa thạch.      

Trong kịch bản xấu nhất – không mặc cả bán được 18% phát thải, mà cũng không huy động đủ vốn phát triển nhiệt điện – thì cả công suất phát điện và lượng phát thải theo Quy hoạch điện VIII đều là không tưởng.

------

(1) https://www.iea.org/articles/global-energy-review-co2-emissions-in-2020

(2) https://www.marketwatch.com/story/why-is-humanity-so-reluctant-to-save-itself-from-climate-change-2020-02-21

(3) https://www.moit.gov.vn/CmsView-EcoIT-portlet/html/print_cms.jsp?articleId=17504

(4) https://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-cam-ket-hanh-dong-quyet-liet-de-ung-pho-toan-dien-voi-bien-doi-khi-hau-579100.html


Thursday 1 July 2021

Bỏ ngay trần hạn mức tín dụng có được không? (Bài đăng trên KTSG, 2/7/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/td/317874/bo-ngay-tran-han-muc-tin-dung-co-duoc-khong.html

Trước đề xuất của nhiều người về bỏ trần hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tái khẳng định sẽ không bỏ trần này, bởi việc điều hành tín dụng bằng chỉ tiêu và định hướng là cần thiết (1).

NHNN nêu ra ba lý do để bảo vệ lập trường của mình. Thứ nhất, NHNN đã triển khai việc điều hành tín dụng bằng chỉ tiêu và định hướng trong suốt 10 năm qua và (việc này) đã phát huy tác dụng rất tốt trong việc quản lý chất lượng tín dụng. Thứ hai, NHNN căn cứ vào quy mô, chất lượng tài sản của từng tổ chức tín dụng để giao hạn mức tăng trưởng tín dụng, và hạn mức này có thể được xem xét thay đổi theo tình hình thực tế hoạt động của từng tổ chức tín dụng. Thứ ba, tại Việt Nam, vốn tín dụng ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế là chủ yếu. Nếu như không quản lý tốt, hài hoà, sẽ khiến các ngân hàng tăng trưởng tín dụng ồ ạt, không kiểm soát được thì nợ xấu nguy cơ tăng lên. Vì vậy, theo NHNN, hạn mức tăng trưởng tín dụng vừa đảm bảo tăng trưởng vừa đảm bảo kiểm soát chất lượng, trước mắt là công cụ hiệu quả hữu hiệu. Dẫu vậy, NHNN cho biết, trong tương lai, khi thị trường cung ứng vốn không phụ thuộc nhiều vào tín dụng, NHNN có thể thay đổi phương thức này.

Hãy phân tích từng lý do trên để xem tính hợp lý của chúng.

Chất lượng tín dụng không nhất thiết gắn với hạn mức tín dụng

NHNN nói rằng hạn mức tăng trưởng tín dụng đã phát huy tác dụng rất tốt trong việc quản lý chất lượng tín dụng trong 10 năm qua. Điều này dường như không chính xác, bởi thập kỷ 2000 chính là giai đoạn chao đảo, khủng hoảng của ngành ngân hàng với nợ xấu tăng vọt, để rồi phải cho ra đời những giải pháp, những tổ chức chuyên xử lý nợ xấu, như VAMC. Việc các ngân hàng bị NHNN mua 0 đồng cũng xuất hiện trong giai đoạn này.

Như vậy, nếu không muốn bị nói rằng hạn mức tăng trưởng tín dụng đã không giúp được gì, thậm chí là có hại trong việc quản lý chất lượng tín dụng thì ít nhất cũng nên thừa nhận rằng hạn mức tăng trưởng tín dụng không liên quan gì đến, không nhất thiết sẽ giúp quản lý được chất lượng tín dụng. Nói cách khác, hạn mức tín dụng là... không cần thiết!

Đã căn cứ vào quy mô, chất lượng tài sản thì càng không cần hạn mức tín dụng

Từ lý do thứ hai nêu trên của NHNN có thể thấy, để giao hạn mức tín dụng một cách chính xác và phù hợp thì NHNN đã phải thanh tra, kiểm tra, nắm vững tình hình sức khỏe và khả năng hoạt động của từng ngân hàng.

Tuy nhiên, một khi NHNN đã nắm chắc được sức khỏe và tình hình hoạt động của từng ngân hàng thì, về nguyên tắc, họ sẽ/phải nhanh chóng phát hiện bất thường về tăng trưởng tín dụng của một ngân hàng nào đó và có phương án xử lý ngân hàng đó ngay khi hoạt động của nó, mà cụ thể là cho vay tín dụng, đã vượt qua các ngưỡng an toàn, được thể hiện qua các chỉ tiêu định lượng mà NHNN đã ban hành, ví dụ như  tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trên tổng tài sản có, tỷ lệ nợ xấu, trần sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn...

Ngoài ra, nếu muốn hạn chế vốn tín dụng vào những lĩnh vực được cho là có rủi ro cao, NHNN có thể xem xét thêm các hạn chế định lượng như giới hạn tỷ trọng tín dụng của (mỗi) ngân hàng cấp cho các lĩnh vực này không quá X% tổng tài sản hoặc tổng dư nợ của họ (và tỷ lệ X này có thể khác nhau với mỗi ngân hàng). Những hạn mức định lượng kiểu này cũng đã được quy định trong Thông tư 22/2019, với cách tính cụ thể dựa trên hệ số rủi ro và những mức trần cụ thể.

Vì vậy, vấn đề không phải là NHNN không có công cụ hiệu quả nào ngoài hạn mức tín dụng để kiểm soát chất lượng tín dụng. Thay vào đó, và như đã nói ở trên về sự không cần thiết của hạn mức tăng trưởng tín dụng, vấn đề là liệu NHNN có kịp thời và nhạy bén phát hiện được các vi phạm về ngưỡng hoạt động an toàn của từng ngân hàng, và có biện pháp xử lý nghiêm minh hay không. Nếu luôn đảm bảo làm được như vậy thì bất cứ khi nào ngân hàng thương mại cho vay vượt quá mức mà nó được phép cho vay thì NHNN sẽ lập tức tuýt còi cảnh báo, ngăn chặn và trừng phạt các vi phạm tương ứng, nhờ đó luôn đảm bảo được chất lượng tín dụng của từng ngân hàng và cả hệ thống.

Cũng có thể có lo ngại rằng nếu không quy định tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì sẽ dẫn đến chạy đua lãi suất, đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, gây khó cho nền kinh tế. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất trong cả hệ thống và nền kinh tế có tăng lên hay không lại phụ thuộc cuối cùng vào chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu NHNN sẵn sàng đáp ứng thanh khoản của hệ thống và nền kinh tế thì việc một số ngân hàng nào đó tăng lãi suất sẽ không gây ra áp lực đáng kể làm tăng lãi suất cả hệ thống. Cũng cần lưu ý rằng NHNN đã từng áp dụng trần lãi suất. Không cần bàn đến việc công cụ này có lợi hay hại, hiệu quả hay không, sự từng tồn tại của công cụ này càng cho thấy nếu muốn chặn cuộc đua lãi suất thì sẽ có nhiều công cụ khác mà không cần phải áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng.

Tăng trưởng tín dụng ồ ạt hay không là do chính sách tiền tệ của NHNN

Về lý do thứ ba nêu trên – ngăn không cho các ngân hàng tăng trưởng tín dụng ồ ạt – trước hết, như đã nói ở trên, các ngân hàng nếu tuân thủ đúng quy định hoạt động an toàn (và nếu NHNN theo dõi, thanh tra, giám sát sát sao, kịp thời việc tuân thủ này) thì các ngân hàng sẽ không thể đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng một cách vô tội vạ. Tín dụng trong cả hệ thống vì thế cũng không thể tăng trưởng một cách vô tội vạ, thoát khỏi vòng kiểm soát của NHNN.

Ngoài ra, cần lưu ý rằng NHNN cũng quy định tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tối đa cho cả hệ thống ngân hàng trong từng thời kỳ. Đây chính là cái “van tổng” để điều tiết tín dụng vào nền kinh tế theo định hướng và chủ đích của NHNN. Nếu NHNN không muốn thấy tình trạng tín dụng tăng trưởng mạnh trong nền kinh tế tại một thời điểm nào đó, vượt quá mức họ mong muốn, thì họ hoàn toàn có thể siết lại cái van tổng này.

Mặt khác, nếu nói như NHNN rằng trong tương lai, có thể bỏ hạn mức khi thị trường vốn cung ứng đủ vốn mà không phụ thuộc nhiều vào tín dụng thì e rằng tương lai này sẽ khó mà xảy ra. Bởi NHNN chưa bao giờ tính toán và cho biết tỷ lệ vốn từ tín dụng phải giảm xuống là bao nhiêu trong tổng vốn đầu tư. Và quan trọng hơn, NHNN chưa bao giờ so sánh Việt Nam với thế giới để cho thấy tại sao có nhiều nước mà thị trường vốn không phát triển, nền kinh tế của họ vẫn phải phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng nhưng họ không áp dụng hạn mức tín dụng như của Việt Nam. 

Tóm lại, nếu NHNN thực hiện tốt chức năng quản lý của mình và qua đó bắt buộc các ngân hàng tuân thủ tốt các quy định hoạt động an toàn, lành mạnh của NHNN thì chất lượng tín dụng sẽ nằm trong phạm vi cho phép mà không cần phải có thêm một chỉ tiêu như hạn mức tăng trưởng tín dụng bấy lâu nay.

(1) https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/vi-sao-khong-bo-tran-han-muc-tin-dung-335297.html

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).