Monday 23 April 2018

Singapore có dễ dãi với tiền ảo? (Bài đăng trên TBKTSG, 24/4/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/271546/singapore-co-de-dai-voi-tien-ao-.html

Vụ việc nhiều người Việt sập bẫy tiền ảo iFan, Pincoin, là những đồng tiền có nguồn gốc được cho là tương ứng từ Singapore và Dubai đã làm dấy lên câu hỏi phải chăng việc thành lập doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Fintech, quá đơn giản, thậm chí được khuyến khích ở những nơi này, đã “tiếp tay” giúp sức cho những doanh nghiệp thành lập và phát hành tiền ảo tại đây “bành trướng” sang các nước khác trong đó có Việt Nam để lừa đảo?
Trước tiên, xin đề cập đến lập trường của Chính phủ Singapore về tiền ảo và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Trả lời chất vấn tại Nghị viện Singapore ngày 5/2/2018, ông Tharman Shanmugaratnam, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng phụ trách Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS, đóng vai trò như ngân hàng trung ương) cho biết, tiền ảo là một thí điểm. Con số và dạng thức tiền ảo đang tăng lên trên thế giới nhưng vẫn quá sớm để nói chúng có thành công hay không. Dù một số tiền ảo đã thành công nhưng cũng chưa thể đánh giá đầy đủ tác động của chúng.
Theo ông Shanmugaratnam, MAS đang theo dõi sát sao sự phát triển và những rủi ro tiềm tàng của các đồng tiền ảo nhưng hiện nay chưa thấy có lý do thuyết phục để cấm giao dịch tiền ảo. Thậm chí, Singapore vẫn nhìn nhận mặt tích cực của tiền ảo. Nền tảng công nghệ của tiền ảo là blockchain, vốn có khả năng được áp dụng để thúc đẩy thanh toán thương mại. Theo hướng này, MAS đã tham gia và khuyến khích một số thí điểm công nghệ blockchain trong ngành tài chính.
Tuy vậy, Singapore cũng cảnh báo nhiều rủi ro trong việc sử dụng tiền ảo. Một trong những rủi ro lớn nhất là rửa tiền và tài trợ khủng bố, do bản chất các giao dịch tiền ảo là ẩn danh, phi tập trung và diễn ra hầu như tức thời. Bởi vậy, những chủ thể tham gia vào giao dịch tiền ảo với tư cách người mua, bán, trao đổi hoặc làm trung gian, môi giới đã, kể từ năm ngoái, bị chế tài bởi các quy định pháp luật liên quan đến rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Song song đó, cơ quan chức năng nước này cũng đang tích cực theo dõi, giám sát các hành vi bất hợp pháp liên quan đến mua bán tiền ảo, một phần dựa vào những tố giác của bất kỳ người dân nào, và cũng là theo quy định của luật, khi thấy có những hành vi và giao dịch đáng ngờ.
Mặt khác, Chính phủ Singapore cũng luôn cảnh báo người dân Singapore, trên các phương tiện thông tin đại chúng, rằng họ sẽ thậm chí “không còn áo mà mặc” nếu đầu tư vào tiền ảo, bởi sự biến động mạnh về giá của chúng bị thao túng bởi giới đầu cơ. Tiền ảo cũng được giao dịch trên các thị trường dưới chuẩn nên nhà đầu tư không được bảo vệ bởi pháp luật.
Ngoài ra, Chính phủ Singapore cũng cảnh báo nhà đầu tư cảnh giác trước các hoạt động marketing, quảng cáo của giới điều hành chào mời, dẫn dụ nhà đầu tư vào tiền ảo, nhất là khi giá tiền ảo rơi tự do với hy vọng sẽ thu lợi nhuận lớn khi giá phục hồi. Đặc biệt cần cẩn trọng với những chủ thể ngoài lãnh thổ Singapore do có mức độ rủi ro lừa đảo cao hơn cũng như khó xác định tính chính danh và mức độ khả tín của chúng hơn.
Như vậy, có thể thấy Singapore có một thái độ rất rõ ràng, đồng thời không kém phần thực dụng về việc phát hành và trao đổi, giao dịch tiền ảo, theo phương châm “dao nhọn nguy hiểm nhưng không vì thế mà cấm dùng”. Tuy nhận thức rõ và cũng luôn muốn người dân của mình nhận thức rõ những rủi ro gắn liền với tiền ảo nhưng Chính phủ nước này vẫn chấp nhận tiền ảo và các công ty điều hành chúng, thậm chí khuyến khích ứng dụng rộng rãi công nghệ tiền ảo vào các ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội tại đây. Để hạn chế mặt trái của tiền ảo, Singapore tập trung nỗ lực giám sát, quản lý vào việc ngăn ngừa các hoạt động tội phạm liên quan đến tiền ảo gồm rửa tiền và tài trợ khủng bố (chứ không phải ngăn ngừa, cấm đoán tiền ảo).
Với trường hợp tiền ảo iFan và vụ lừa đảo ở Việt Nam. Trước tiên, hầu như không có thông tin gì chứng tỏ công ty phát hành/sở hữu iFan là từ, có trụ sở chính ở Singapore. Trên trang chủ ở địa chỉ https:ifan.io hoàn toàn vắng bóng thông tin về người sáng lập cũng như trụ sở đăng ký ở đâu. Trong Sách trắng (Whitepaper) lấy xuống từ trang này cũng không thấy bất cứ thông tin liên quan nào, ngoài duy nhất một dòng khó hiểu “IFan is Singapore’s independent company” (IFan là một công ty độc lập của Singapore).
Tuy nhiên, điều quan trọng là dù iFan và người sáng lập có thể là “người thật, việc thật”, có thể khởi nguồn từ Singapore, nhưng về đến Việt Nam chúng đã bị lợi dụng nhằm mục đích lừa đảo. Như báo chí đã đưa tin, nhóm 7 người Việt lập dự án huy động vốn iFan hứa hẹn chia sẻ lợi nhuận 48%/tháng với thời gian hoàn vốn 4 tháng. Trong thời gian đầu, nhà đầu tư được thanh toán bằng tiền thật. Sau đó, họ bất ngờ được thanh toán bằng iFan với giá quy ước là 5 USD/iFan, trong khi giá của iFan trên thị trường gần như bằng 0.
Hãy tưởng tượng nếu iFan là Bitcoin và có ai đó mời chúng ta đầu tư vào đồng tiền ảo này với lãi suất tương tự như trên nhưng rốt cuộc chỉ đồng ý trả lãi bằng bitcoin với cái giá quy đổi “trên trời”, chẳng hạn là 25.000 USD/Bitcoin (trong khi giá đỉnh điểm của đồng tiền này cho đến nay chỉ là 20.000 USD) thì chúng ta sẽ hiểu ngay lỗi/tội đồ ở đây không phải tại Bitcoin hay người sáng lập, điều hành Bitcoin.
Tóm lại, có thể thấy (chính sách của) Chính phủ Singapore chẳng có liên quan gì đến vụ việc lừa đảo iFan và Pincoin ở Việt Nam hiện nay. Ngay ở Việt Nam thì cơ quan chức năng cũng đã cảnh báo trước các rủi ro về đầu tư vào tiền ảo. Nhưng lừa đảo vẫn xảy ra, nên chung quy cũng chỉ tại chữ tham, mù quáng, liều… của nhà đầu tư mà thôi.  

Sunday 22 April 2018

Những rủi ro liên quan đến cho vay vượt giới hạn (Bài đăng trên TBKTSG, 22/4/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/271543/nhung-rui-ro-lien-quan-den-cho-vay-vuot-gioi-han-.html

Chính phủ vừa ban hành Quyết định 13/2018/QĐ-TTg quy định về điều kiện, hồ sơ, trình tự đề nghị chấp thuận mức cấp tín dụng tối đa vượt giới hạn của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài áp dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan với một số điều kiện.

Ở mặt tích cực, quyết định trên đã tạo thêm nhiều dư địa để TCTD tự chủ trong việc cấp tín dụng, dựa trên khẩu vị rủi ro và chiến lược hoạt động của riêng mình mà ít bị cản trở bởi cùng một chiếc áo – quy định hoạt động – “may đo” bởi NHNN chung cho cả hệ thống, miễn là các tiêu chí, giới hạn và tỷ lệ dảm bảo an toàn không bị vi phạm.

Ngược lại, quyết định này làm gợn lên lo ngại có thể bị lợi dụng để một số doanh nghiệp đầu tư vào những dự án được phép cho vay vượt giới hạn theo kiểu “tay không bắt giặc”, trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực được quy định khá chung chung như “dự án, phương án có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng, cấp thiết nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân thuộc các ngành, lĩnh vực: điện, than, dầu khí, xăng dầu, giao thông, vận tải công cộng và các lĩnh vực khác theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từng thời kỳ”, và “các chương trình, dự án đầu tư được Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư; đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ”.

Một ví dụ cụ thể cho lo ngại trên là đầu tư trong lĩnh vực BOT xây dựng đường cao tốc. Nhiều nhà đầu tư không có năng lực tài chính nhưng vẫn trúng thầu các dự án này đã phải hầu như dựa hoàn toàn vào vốn tín dụng ngân hàng để triển khai dự án, dẫn đến những hệ lụy như triển khai chậm tiến độ, chi phí cao, phải kéo dài thời gian thu phí sử dụng để bù đắp chi phí…

Tuy nhiên, trong quyết định trên có một điều khoản mà nếu thực hiện đúng thì có thể làm giảm khả năng xảy ra rủi ro trên. Cụ thể, theo Điều 3 về điều kiện xem xét khoản cấp tín dụng vượt giới hạn, tại thời điểm đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn, TCTD (phải) đáp ứng các yêu cầu về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các TCTD và các quy định pháp luật có liên quan.

Với điều khoản này, TCTD sẽ phải thận trọng khi cho vay vượt giới hạn với khách hàng để tuân thủ các giới hạn và tỷ lệ đảm bảo an toàn. Ngược lại, nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) muốn hạn chế tín dụng vào những lĩnh vực mà họ cho là rủi ro như BOT trong giao thông thì họ có thể nâng các giới hạn và tỷ lệ đảm bảo an toàn này như là những cái van hãm dòng tín dụng vào những lĩnh vực mà họ không khuyến khích, mặc dù các lĩnh vực này có thể là những lĩnh vực được phép cho vay vượt giới hạn.

Nhưng đến đây lại có thể thấy rủi ro về sự chèn lấn, chồng chéo thẩm quyền. Giả sử tại thời điểm đề nghị cấp tín dụng vượt giới hạn, mỗi TCTD nói riêng và hệ thống nói chung đều đã tiệm cận mọi giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động do NHNN đề ra. Theo nguyên tắc, NHNN sẽ phải từ chối phê duyệt các dự án cho vay vượt giới hạn và sẽ không trình lên Thủ tướng. Nhưng nếu Chính phủ, Thủ tướng và Quốc hội đều muốn đẩy mạnh cho vay các dự án ưu tiên, cần khuyến khích thì NHNN rơi vào thế khó. Nếu NHNN, với tư cách là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, tuân thủ theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng, và Quốc hội thì phải sửa lại các giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động theo hướng nới lỏng hơn, tức là kém an toàn hơn cho hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung, trong khi một trong những sứ mệnh của NHNN là phải bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD nói riêng và ổn định kinh tế vĩ mô nói chung.

Bên cạnh đó, quyết định trên sẽ tạo ra gánh nặng, áp lực (và cả đặc quyền) lớn cho việc quản lý và phê chuẩn dự án cho NHNN, các bộ, ngành, địa phương và Chính phủ, Thủ tướng. Theo quy định, mọi khoản vay vượt giới hạn đều phải được báo cáo, giải trình trước tiên với NHNN, sau đó, thông qua NHNN, đến các bộ, ngành, địa phương và cuối cùng lên Thủ tướng. Như vậy, những giao dịch cấp tín dụng giữa TCTD và khách hàng của họ, vốn thuần túy mang tính thương mại, đã bị biến thành giao dịch mang tính hành chính, có hơi hướng xin cho, “huy động cả hệ thống chính trị”, lên đến tận cấp Thủ tướng. Trừ khi cả nước chỉ có một vài dự án thuộc dạng này, nếu không sẽ khó mà tính được phí tổn xã hội và cả những rủi ro liên quan cho những việc như vậy.

Tóm lại, tuy có thể những quyết định tương tự như thế này là cần thiết ở một khía cạnh nào đó, trong ngắn hạn, nhưng cần thiết phải được hạn chế và hủy bỏ trong thời gian tới để nền kinh tế nói chung và hệ thống TCTD nói riêng vận hành theo đúng quy luật thị trường, minh bạch và không có các giấy phép “con” dưới dạng các bản giải trình, xin xỏ các cơ quan quản lý chức năng.

Wednesday 18 April 2018

Tình hình xử lý nợ xấu qua báo cáo tài chính của VAMC (Bài đăng trên TBKTSG, 18/4/2018, bản gốc)


http://www.thesaigontimes.vn/271243/Tinh-hinh-xu-ly-no-xau-qua-bao-cao-tai-chinh-cua-VAMC.html

Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã đăng tải Báo cáo tài chính năm 2016 trên website của mình ngày 19/3/2018. Từ việc đăng thông tin như thế này và nội dung các báo cáo tài chính của VAMC có thể thấy được một số điểm đáng chú ý.
Lại vẫn là chuyện công bố thông tin chậm và không đầy đủ
Điều trước tiên có thể nói về VAMC là việc công bố chậm chễ và không đầy đủ của bản thân VAMC lẫn cơ quan chủ quản, tức Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và cả Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) về báo cáo tài chính định kỳ của VAMC theo quy định của pháp luật hiện hành.
Như trên đã nêu, đến tận ngày 19/3/2018 VAMC mới đăng tải Báo cáo tài chính năm 2016. Ngày này cũng là ngày mà VAMC đăng Báo cáo tài chính năm 2015 (nhưng không có Báo cáo tài chính năm 2014). Trong khi đó, ở trang đầu của Báo cáo tài chính 2016 có hình con dấu với nội dung “Cục thuế Hà Nội tiếp nhận hồ sơ hành chính thuế năm 2017 ngày 17-03 loại kê khai thuế”. Lưu ý thêm rằng trong Báo cáo tài chính năm 2015 và 2016 không có dấu hay thông tin xác nhận của công ty kiểm toán độc lập, nên có thể hiểu rằng các báo cáo (đăng tải) này chưa được kiểm toán.
Những chi tiết trên cho thấy đã có sự vi phạm Điều 18 của Nghị định 81/2015/NĐ-CP về công bố báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Theo đó, VAMC đã: (i) không công bố báo cáo tài chính sáu tháng; (ii) không công bố báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán; (iii) không công bố báo cáo tài chính đúng thời hạn (không muộn hơn ngày 15/8 của năm báo cáo đối với báo cáo tài chính sáu tháng và không muộn hơn ngày 31/5 của năm liền sau năm báo cáo đối với báo cáo tài chính năm).
Đồng thời, NHNN – cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước của VAMC – và Bộ KHĐT cũng đã không thực hiện đúng Điều 18 của Nghị định 81/2015 khi không công bố báo cáo tài chính sáu tháng và báo cáo tài chính năm (đã được kiểm toán) của VAMC trong vòng năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo tài chính của VAMC (theo Nghị định 81 thì VAMC phải gửi các báo cáo này cho hai cơ quan này không muộn hơn ngày 15/8 của năm báo cáo đối với báo cáo tài chính sáu tháng và không muộn hơn ngày 31/5 của năm liền sau năm báo cáo đối với báo cáo tài chính năm). 
Cũng có thể VAMC đã không gửi hoặc gửi không đúng hạn các báo cáo tài chính của mình cho NHNN và Bộ KHĐT như quy định, nhưng hai cơ quan này phải có trách nhiệm cũng như chế tài thích ứng để buộc VAMC cung cấp các báo cáo tài chính đúng hạn, theo quy định của Nghị định 81/2015.
Chuyện công bố thông tin muộn không những chỉ là một sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật hiện hành mà còn không cung cấp cho công luận kịp thời và đầy đủ thông tin về nợ xấu và tình hình xử lý nợ xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến việc đưa ra những giải pháp xử lý nợ xấu phù hợp và hữu hiệu.
Tỷ lệ nợ xấu thực tế lớn hơn nhiều con số công bố
NHNN cho biết tổng mức nợ xấu (gồm nợ tiềm ẩn, nợ VAMC đã mua, và nợ xấu nội bảng tại ngân hàng) đến cuối năm 2016 là 600 nghìn tỷ đồng, tương đương với tỷ lệ 10,08% (1).
Tuy nhiên, theo Báo cáo tài chính năm 2016, VAMC đã mua 207,6 nghìn tỷ đồng nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) tính đến ngày 31/12/2016, và con số này được hạch toán nội bảng bởi VAMC (trang 17). Trong khi đó, VAMC lại có đến 399 nghìn tỷ đồng nợ mua bằng TPĐB được hạch toán ngoại bảng tính đến ngày 31/12/2016 (trang 4). Như vậy, nếu cộng hai khoản này thì chỉ riêng nợ xấu mà VAMC đã mua về bằng TPĐB đã lên tới 607 nghìn tỷ đồng.
Với tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng tính đến cuối tháng 12/2016 là hơn 5,5 triệu tỷ đồng (2), chỉ riêng số nợ xấu nằm tại hoặc quản lý bởi VAMC đã tương đương với tỷ lệ khoảng 10,9%.
Nếu cộng thêm với tỷ lệ nợ xấu nội bảng tại ngân hàng đến cuối năm 2016 là 2,46%, theo công bố của NHNN (1) thì tỷ lệ nợ xấu đã lên đến trên 13%, lớn hơn nhiều con số đã được công bố. Lưu ý thêm rằng con số tỷ lệ nợ xấu tạm tính này chưa bao gồm nợ xấu tiềm ẩn.
Xử lý và thu hồi nợ xấu vẫn rất chậm
Năm 2015, theo Bảng cân đối kế toán, VAMC phát hành 195,4 nghìn tỷ đồng TPĐB theo mệnh giá để mua nợ xấu, nhưng chỉ thu hồi được 8,6 nghìn tỷ đồng (trang 3), tức chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn là 4,4%. Năm 2016, tỷ lệ này đạt 4,3%, cho thấy không có cải thiện chút nào trong việc thu hồi nợ xấu đã mua bằng TPĐB.
Nói cách khác, VAMC về thực chất vẫn chỉ là một nơi thu gom nợ xấu. Việc thu hồi nợ xấu là rất hạn chế, và có được chủ yếu là bởi những khoản nợ xấu mua về là những khoản nợ xấu có chất lượng do đã được VAMC lựa chọn khi mua. Đó là chưa kể vì một số lý do nào đó mà đến 2/3 nợ xấu mà VAMC mua về lại được cơ quan này hạch toán ngoại bảng, và điều này càng chứng tỏ sự giới hạn trong khả năng xử lý nợ xấu của VAMC.
Có cấp thêm vốn cũng không khác biệt nhiều
Trong Báo cáo tài chính năm 2016 VAMC có “phàn nàn” rằng mặc dù vốn điều lệ của VAMC đã được phê duyệt tăng từ 500 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng có hiệu lực từ 5/4/2015 (trang 10), nhưng đến 31/12/2016 VAMC vẫn chưa nhận được số vốn bổ sung.
Trong khi đó, VAMC mua nợ xấu hoàn toàn bằng TPĐB, không dùng một đồng vốn điều lệ nào để mua nợ xấu. Hơn nữa, Báo cáo tài chính năm 2016 cho thấy VAMC có tới hơn 14 nghìn tỷ đồng tiền mặt và tiền gửi tại các tổ chức tín dụng. VAMC, về nguyên tắc, hoàn toàn có thể dùng một phần trong số này, ít nhất là phần tiền gửi có kỳ hạn (dài) tại các ngân hàng, để mua (kinh doanh) nợ xấu, nếu muốn. 
Như vậy, có lẽ VAMC không cần phải được cấp thêm vốn để họ mua nợ xấu bằng “tiền tươi thóc thật” nhằm làm tăng tốc độ và hiệu quả xử lý nợ xấu như là một giải pháp đề xuất bởi nhiều chuyên gia, quan chức. 
Khả năng bù đắp bằng tài sản thế chấp ngày càng suy giảm
Đối với 345 nghìn tỷ đồng nợ xấu đã mua bằng TPĐB và được VAMC hạch toán ngoại bảng năm 2015, giá trị tài sản thế chấp, cầm cố là 368,5 nghìn tỷ, tức tương đương với 107% (lưu ý rằng VAMC không công bố giá trị tài sản thế chấp, cầm cố cho phần nợ xấu hạch toán nội bảng). Con số tương ứng năm 2016 đã giảm xuống còn 103%. Điều này có thể một phần là do nợ lãi ngày càng tăng khi nợ gốc không được xử lý, phải tiếp tục mang sang các năm sau, trong khi giá trị tài sản thế chấp, cầm cố thì vẫn vậy, không sinh ra đồng lãi nào. Lưu ý rằng năm 2016 thì giá trị bất động sản – loại tài sản thế chấp phổ biến – cũng đã phục hồi và tăng mạnh so với những năm trước đó nên niềm hy vọng giá trị bất động sản còn tăng mạnh hơn trong những năm sau này để đảm bảo việc thu hồi các khoản nợ xấu ngày càng trở nên mong manh hơn.
Thực tế trên chứng tỏ mức độ bất an và khả năng thu hồi nợ xấu ngày càng suy giảm khi giá trị tài sản thế chấp, cầm cố ngày càng giảm sút và tiệm cận đến mức ngang bằng hoặc thậm chí thấp hơn giá trị nợ gốc và nợ lãi vay, tước đi động cơ trả nợ đầy đủ và kịp thời của con nợ.
Tóm lại, qua việc công bố báo cáo tài chính của VAMC có thể thấy sự “nhờn” một cách nghiêm trọng với pháp luật hiện hành về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan liên đới. Thông tin từ VAMC cũng cho thấy tình hình xử lý nợ xấu rất phức tạp vì ngay đến con số tổng nợ xấu trong nền kinh tế là bao nhiêu cũng không được NHNN thống kê và công bố chính xác, đầy đủ.
Nếu thông tin về VAMC được công bố sớm hơn, cập nhật hơn (và lẽ ra đã phải công bố Báo cáo tài chính năm 2017 vào thời điểm này), giải pháp xử lý nợ xấu dựa vào VAMC có lẽ cũng đã phải được xem xét lại từ cách đây cả năm khi khả năng xử lý và thu hồi nợ xấu có hạn của tổ chức này được bộc lộ rõ ràng.


(1)    http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2017-11-17/thong-doc-le-minh-hung-ty-le-no-xau-giam-con-861-50489.aspx


(2)    http://thoibaonganhang.vn/den-cuoi-nam-2016-du-no-tin-dung-dat-hon-55-trieu-ty-dong-61893.html

Friday 6 April 2018

Số liệu tăng trưởng GDP: Ước tính và chính thức hoàn toàn khớp nhau có hợp lý? (Bài đăng trên TBKTSG, 7/4/2018, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.thesaigontimes.vn/270945/So-lieu-tang-truong-GDP-Uoc-tinh-va-chinh-thuc-hoan-toan-khop-nhau-co-hop-ly.html

Từ lâu nay dư luận vẫn đặt dấu hỏi về chất lượng của các con số thống kê do Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố. Tuy nhiên, TCTK luôn khẳng định độ tin cậy của những con số này và cho biết việc tính toán được thực hiện theo đúng quy trình và thông lệ quốc tế.
Làm sáng tỏ chất lượng thống kê quả thật là một bài toán khó, bởi người ngoài không có mấy căn cứ để kiểm chứng độ chính xác các số liệu do TCTK công bố, mặc dù cảm nhận thực tế cho thấy có sự “vênh” nhất định giữa con số trên giấy và thực tiễn.
Tuy nhiên, có những dấu hiệu để dễ nhận thấy sự không chính xác về số liệu công bố của TCTK. Ví dụ, về các con số thống kê cả năm như tăng trưởng GDP cả năm, TCTK thường công bố vào cuối tháng 12 của năm đó. Đây là một “thông lệ” khác người, bởi các nước trên thế giới thường công bố tăng trưởng GDP năm trước vào tháng 2, tháng 3, thậm chí là tháng 4 năm sau đó.
Cứ tạm chấp nhận rằng đây chỉ là con số ước tính, sơ bộ do TCTK đưa ra. Điều này không có gì lạ vì nhiều nước cũng đưa ra những dự báo cho cả năm sau đó, hoặc trước thời điểm công bố chính thức cả một vài tháng.
Nhưng đến đây, điều “lạ” với trường hợp của TCTK là những con số ước tính, sơ bộ về tăng trưởng GDP lại thường hoàn toàn trùng khớp với con số chính thức mà họ công bố sau này (sau chỉnh lý, điều chỉnh, nếu có).
Bảng dưới đây minh họa rõ vấn đề này. Con số tăng trưởng GDP, xuất khẩu và nhập khẩu sơ bộ được tác giả lấy từ các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội do TCTK công bố trên trang web của TCTK vào tháng 12 hàng năm. Còn con số tăng trưởng GDP, xuất khẩu và nhập khẩu chính thức tác giả lấy từ mục “Số liệu thống kê”, là mục chứa số liệu có thể coi là chính thức, đã được chỉnh lý, điều chỉnh. Lưu ý thêm rằng tác giả chỉ lấy số liệu tăng trưởng GDP kể từ năm 2013 vì TCTK đã thay đổi giá cơ sở từ năm 1994 sang năm 2010 cho những năm từ 2013 trở đi (và có công bố trên trang web).


Trong bảng này, tuy số liệu tăng trưởng GDP sơ bộ trùng hợp hoàn toàn với số liệu chính thức, nhưng số liệu về xuất khẩu, nhập khẩu sơ bộ và chính thức lại khác nhau ở mức đáng kể. Vì xuất khẩu, nhập khẩu là những cấu phần của GDP nên, theo logic, khi số liệu xuất khẩu, nhập khẩu thay đổi (so với con số sơ bộ) thì GDP cũng phải thay đổi theo tương ứng.
Nhưng đáng tiếc là sự thay đổi về xuất khẩu, nhập khẩu và, do đó, xuất khẩu ròng, lại không làm thay đổi con số thống kê về tăng trưởng GDP ở Việt Nam do TCTK công bố trong những năm qua.
Cũng có thể có ai đó sẽ lập luận rằng mức chênh lệch xuất khẩu ròng giữa sơ bộ và chính thức là quá nhỏ (vài trăm triệu đô la Mỹ) để có thể làm ảnh hưởng đến con số GDP chính thức. Nhưng cần lưu ý rằng vài trăm triệu đô la Mỹ cũng là đáng kể nếu so với GDP ở mức quanh quẩn 200 tỉ đô la Mỹ hoặc nhỏ hơn của Việt Nam.
Ví dụ, mức chênh lệch xuất khẩu ròng 600 triệu đô la Mỹ năm 2015 tương đương với trên 0,3 điểm phần trăm GDP của Việt Nam trong năm đó. Do đó, theo nguyên tắc, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2015 cần phải điều chỉnh giảm đi ít nhất 0,3 điểm phần trăm, chỉ còn khoảng 6,3-6,4% chứ không phải 6,68% như TCTK đã báo cáo chính thức, nếu các điều kiện khác không thay đổi (ví dụ, đầu tư, tiêu dùng và tỷ giá).

Sunday 1 April 2018

Thu thuế hay tịch thu - chỉ là xử lý hậu quả (Bài đăng trên TBKTSG, 2/4/2018, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.thesaigontimes.vn/270682/Thu-thue-hay-tich-thu---chi-la-xu-ly-hau-qua.html

Chính phủ đang trình Quốc hội xem xét đưa vào trong dự án Luật phòng chống tham nhũng (sửa đổi) đề xuất truy thu thuế thu nhập cá nhân với thuế suất 45% với tài sản, thu nhập lớn hơn tài sản, thu nhập đã kê khai, hoặc không giải trình hợp lý. Ngoài ra, Chính phủ cũng thêm rằng việc truy thu thuế này không loại trừ việc xử lý trách nhiệm hình sự và tịch thu tài sản đối với người kê khai, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự khác chứng minh được tài sản kê khai không trung thực, tài sản tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý có được hoặc có nguồn gốc từ hành vi phạm tội. 
Tuy nhiên, cũng có nhiều người cho rằng nếu không chứng minh được nguồn gốc hoặc giải trình không rõ ràng, minh bạch thì phải coi là tài sản bất minh, cần tịch thu , xử lý trách nhiệm hình sự chứ không chỉ đánh thuế cao như đề xuất.
Cả hai luồng ý kiến trên đều hoặc là cực đoan hóa hoặc bỏ sót những trường hợp nằm trong vùng xám.
Với trường hợp đánh thuế thu nhập cá nhân 45%, mức thuế này không là gì cả, không có tác dụng phòng chống tham nhũng. Nếu tài sản do tham nhũng mà có thì dù có bị đánh thuế, người tham nhũng vẫn còn thu về được 55% tài sản tham nhũng, tức là tài sản do phạm pháp (ăn cắp) mà có. Lẽ ra, trong những trường hợp này, nếu chứng minh được đây là tài sản tham nhũng thì tài sản này cần bị tịch thu và người tham nhũng cần bị xử lý hình sự, như luồng ý kiến thứ hai nêu trên đề xuất.
Nhưng nếu tài sản, thu nhập là “bất minh” ở dưới giác độ là chủ sở hữu tài sản này không giải trình được (hợp lý) tại sao mà có, trong khi cơ quan hữu trách cũng không có bằng chứng gì chỉ ra được rằng đây là tài sản, thu nhập có được từ tham nhũng thì rõ ràng trong trường hợp này không thể chỉ duy nhất áp dụng chung thuế suất thuế thu nhập 45% được như đề xuất của Chính phủ, mà cũng chẳng tịch thu được như luồng ý kiến phản đối.
Hướng xử lý trong những trường hợp vùng xám này sẽ khác nhau. Chẳng hạn, nếu đương sự giải trình rằng tài sản, thu nhập có được là do hoạt động sản xuất, kinh doanh (hợp pháp, nhưng không đăng ký, khai báo về thu nhập) thì cần truy thu thuế theo thuế suất phạt như trong các quy định pháp luật hiện hành (không nhất thiết là 45%) và, nếu nghiêm trọng/cần thiết, cần truy cứu trách nhiệm hình sự tội trốn thuế, gian lận thuế.
Như trong trường hợp của một vị quan chức nọ nói là buôn chổi đót mà có được bất động sản triệu đô, chừng nào cơ quan chức năng không chứng minh được điều gì khác thì có lẽ đành phải chấp nhận lời giải trình này. Điều mà cơ quan chức năng có thể và cần phải làm trong trường hợp này là truy thu thuế thu nhập cá nhân theo quy định hiện hành về hành vi trốn thuế, và, nếu cần thiết, phải xử lý hình sự tội kinh doanh trốn thuế (do quy mô lớn của hành vi này). Còn việc tịch thu tài sản trong trường hợp này hoặc các trường hợp tương tự khác thì là vô căn cứ, dù ai cũng cho/biết rằng giải trình nguồn gốc tài sản lớn như vậy từ buôn chổi đót là không hợp lý.
Cũng có nhiều trường hợp hợp lý hóa tài sản là do được thừa kế, biếu tặng. Tuy nhiều trong những trường hợp này xem ra rất đáng ngờ nhưng bởi cũng chẳng có bằng chứng gì khác chống lại đương sự (trừ khi, ví dụ, chứng minh được nguồn gốc phi pháp của tài sản thừa kế, biếu tặng này) nên hãy chấp nhận như vậy, và xử lý theo các điều khoản pháp luật hiện hành tương ứng về thừa kế, biếu tặng…, mà không thể tịch thu được những tài sản này.
Những ví dụ và trường hợp nêu trên cho thấy xử lý bằng việc truy thu thuế (ở một mức ấn định, 45%) với tài sản, thu nhập “bất minh” hoặc tịch thu tài sản, thu nhập này là không thỏa đáng. Quan trọng hơn, đây chỉ là việc xử lý hậu quả (và phần lớn cũng đã được chế tài trong khuôn khổ pháp luật hiện thời), trong khi điều cần làm trước tiên là phải làm tốt, làm nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập của quan chức cũng như việc thẩm tra, theo dõi, giám sát việc kê khai và thay đổi tài sản, thu nhập quan chức từ các cơ quan chức năng liên đới, đồng thời xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm các quy định liên quan này.
Để việc kê khai và kiểm tra tài sản, thu nhập là bộ lọc hữu hiệu đầu tiên trong công tác phòng chống tham nhũng thì cần thiết phải đưa vào luật sửa đổi một số điều khoản cứng rắn như, ví dụ, nếu phát hiện ra cán bộ nào không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập thì lập tức sẽ bị cách chức, đình chỉ công tác (bất luận vì lý do gì).
Tiếp đó, các thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập cần được công khai rộng rãi ra công chúng (thông qua, ví dụ, đăng tải trên website của cơ quan), chứ không chỉ bó gọn trong phạm vi cơ quan, đoàn thể nơi người này công tác trong nhiều trường hợp, như trong dự thảo luật hiện nay. Muốn thành tâm phòng chống tham nhũng và có hiệu quả thì càng phải minh bạch tài sản, thu nhập của những công bộc ăn lương từ tiền thuế của dân như kinh nghiệm các nước minh bạch với tham nhũng đã cho thấy. 

Định giá không hợp lý thì mang nhau ra tòa (Bài đăng trên TBKTSG, 1/4/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/270670/Dinh-gia-khong-hop-ly-thi-mang-nhau-ra-toa.html

Cho đến nay tại Việt Nam có không ít vụ việc lùm xùm liên quan đến việc định giá tài sản để phục vụ cho việc đầu tư, đặc biệt là khi liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước hoặc có vốn nhà nước. Điển hình gần đây nhất là vụ việc Mobifone mua AVG và Sabeco thoái vốn tại dự án đất vàng tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong cả hai vụ việc này các cơ quan chức năng đã vạch ra những sai lầm, thiếu sót trong việc định giá tài sản, cổ phần, dẫn đến khả năng gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước.
Vì thiệt hại cho ngân sách nhà nước là điều khó có thể tránh khỏi nên các công ty cung cấp dịch vụ định giá liên đới trong những vụ việc này không thể phủi tay, rũ trách nhiệm. Ngoài ra, việc truy trách nhiệm những công ty này còn tạo ra những tiền lệ mang tính răn đe những công ty cung cấp dịch vụ định giá khác, buộc chúng phải hoạt động chuyên nghiệp hơn với chất lượng cao hơn trên tinh thần trung lập và có trách nhiệm cao với dịch vụ của mình. Xử lý nghiêm những vụ việc sai phạm có nguồn gốc từ (cố tình) định giá sai giá trị tài sản cũng là một kênh hữu hiệu góp phần thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, cũng như phòng chống tham nhũng, thất thoát từ việc cổ phần hóa, thoái vốn, hoặc đầu tư có yếu tố nhà nước.
Nhưng vấn đề đặt ra là cần truy trách nhiệm và xử lý những công ty định giá trong các vụ việc này như thế nào. Tuy đây là một vấn đề gần như không có tiền lệ ở Việt Nam nhưng điều này không có nghĩa là cơ quan chức năng nhà nước sẽ mặc nhiên tiến hành các biện pháp hành chính như phạt tiền, tước giấy phép hoạt động của các công ty liên đới hoặc hình sự hóa các vụ việc này.
Ở nước ngoài, cách thức xử lý các vụ việc nảy sinh từ vấn đề định giá tài sản, kể cả khi liên quan đến nhà nước, thường là mang tính kinh tế, thông qua kênh tố tụng dân sự để buộc các công ty định giá phải bồi thường khi chứng tỏ được là chúng đã (cố tình) làm sai.
Vụ Chính phủ Mỹ kiện S&P là một ví dụ phù hợp và có tính chất tương thích trong trường hợp này, mặc dù S&P không phải là một công ty định giá tài sản, mà là một hãng xếp hạng tín nhiệm. Hồi đầu năm 2013, Bộ Tư pháp Mỹ cáo buộc S&P có trách nhiệm trong việc gây thiệt hại hàng nhiều tỷ đô la Mỹ cho nhà đầu tư trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, do hãng này đã thổi phồng xếp hạng tín nhiệm các loại chứng khoán thế chấp bằng bất động sản nhằm có thêm nhiều thương vụ kinh doanh mới, từ đó làm lợi cho các nhà phát hành. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp Mỹ đòi S&P phải bồi thường 5 tỷ đô la Mỹ.
Phản ứng lại, S&P tuyên bố kết quả xếp hạng của mình được bảo vệ bởi quyền được tự do phát biểu, và cáo buộc ngược lại rằng cáo buộc của Bộ Tư pháp Mỹ là một hành động trả đũa do hãng này đã hạ xếp hạng tín nhiệm của Chính phủ Mỹ.
Tuy nhiên, sau hàng loạt thương lượng, đến đầu năm 2015 S&P đồng ý chi trả 1,5 tỷ đô la để khép lại các vụ kiện bởi Bộ Tư pháp và chính quyền ở nhiều bang. S&P cũng đồng ý chi trả 125 triệu đô la cho Quỹ hưu trí California với cùng lý do.
Trong những thương vụ giữa các công ty tư nhân hoặc cá nhân khác, nếu có bên nào đó cho là mình bị hại bởi kết quả định giá tài sản không chính xác thì nơi và người giải quyết cũng vẫn là tòa án.
Năm trước, cũng tại Mỹ, một chủ bất động sản đã kiện công ty bất động sản online Zilow vì cho rằng công cụ “Zestimate” gây lùm xùm của công ty này đã luôn định giá thấp hơn giá trị thật bất động sản của mình, làm cản trở lớn đến việc bán nhà của người này. Người chủ muốn bán bất động sản của mình ở vị trí đẹp với  giá 626 ngàn đô la, gần bằng giá bà mua năm 2009. Nhà đối diện ở bên kia đường lớn hơn một chút nhưng được bán với giá cao hơn nhà bà 100 ngàn đô la. Tuy nhiên, hệ thống định giá tự động của Zilow lại sử dụng giá nhà mới hoàn thiện ở những vị trí kém hơn trong cùng địa hạt để làm giá so sánh, và đưa ra cái giá chỉ là 562 ngàn cho nhà bà này. Bà kiện Zilow để buộc công ty này hoặc phải bỏ công cụ Zestimate hoặc phải sửa đổi nó.
Zilow đã bác bỏ cáo buộc “vô lý” này, cho rằng công cụ này được xây dựng bằng “công thức đặc quyền”, là công cụ kiếm ăn chủ yếu của công ty vì đã được sử dụng rộng rãi để định giá cho hàng trăm triệu bất động sản khắp nước Mỹ và qua đó thu tiền bán quảng cáo.
Nhưng nhiều công ty bất động sản và định giá khác cũng lên tiếng phê phán Zilow bởi nhiều trường hợp giá của Zilow đưa ra quá chênh lệch với giá họ đưa ra và giá mua bán thực tế, làm rối người tiêu dùng. Bản thân Zilow cũng thừa nhận có sai sót. Và tuy không thừa nhận là “nhà định giá” nhưng Zestimate lại ước tính giá bất động sản, tức là đã kinh doanh không phép. Bởi vậy, Zilow rơi vào thế bất lợi và nếu bị xử thua thì rất có thể có nhiều người tiêu dùng ở các nơi khác tiếp tục lôi công ty này ra tòa.
Quay trở lại với các trường hợp liên quan, có yếu tổ nhà nước ở Việt Nam. Với Mobifone, giả sử “không may” mà thương vụ mua AVG suôn sẻ và chỉ sau này thì vấn đề định giá thổi phồng AVG mới được đặt ra. Lúc này, ngoài chuyện xử lý trách nhiệm hình sự cho những sai phạm, cố ý làm trái của Mobifone và các bộ liên đới, điều có thể và cần làm là cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước của Mobifone (tức Bộ Thông tin và Truyền thông) đứng ra kiện các công ty định giá AVG vì đã thổi phồng giá trị của AVG, gây thiệt hại cho nhà nước.
Tương tự, đại diện phần vốn nhà nước của Sabeco (tức Bộ Công thương) có thể đứng ra kiện công ty định giá với cáo buộc đã dùng các phương pháp và cách thức định giá không thích hợp (gồm có việc điều chỉnh các yếu tố khác biệt không trên cơ sở chứng cứ thị trường, theo ý kiến trong báo cáo của Kiểm toán Nhà nước), làm giảm đáng kể giá trị doanh nghiệp làm cơ sở xác định giá khởi điểm.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).