Saturday 27 June 2020

Phát hành trái phiếu quốc tế, tiền nhiều nhưng không dễ có vốn rẻ (Bài đăng trên TBKTSG, 27/6/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/305123/phat-hanh-trai-phieu-quoc-te-tien-nhieu-nhung-khong-de-co-von-re-.html

Gần đây, một số ngân hàng Việt Nam như HDBank và ACB đã và đang có kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế. Một trong những lý do cho việc phát hành này là, theo HDBank, “Các nước đang trong quá trình hỗ trợ kinh tế vì dịch Covid-19. Họ bơm thêm tiền rất lớn ra thị trường, với lãi suất thấp, thậm chí không lãi suất, tạo ra nguồn vốn dồi dào trên thị trường vốn quốc tế”(1).
Tuyên bố trên của HDBank chỉ đúng một phần. Quả thật là ngân hàng trung ương các nước lớn, nhỏ trên thế giới đều thi nhau nới lỏng tiền tệ. Ngân hàng trung ương của Mỹ (Fed) cũng vậy, cũng sẵn sàng và rất tích cực bơm đô la ra nền kinh tế và tăng cường hoán đổi tiền tệ với các nước đồng minh.
Và cũng đúng là tăng cường bơm tiền phải đi kèm với lãi suất cực thấp, thậm chí là 0% thì tiền mới ồ ạt đi vào nền kinh tế bản địa. Lãi suất đô la Mỹ mà Fed cho vay ở Mỹ tất nhiên cũng không nằm ngoài xu hướng này.
Nhưng nguồn vốn dồi dào sẵn sàng cho vay trên thị trường vốn quốc tế là một chuyện, vay được hay không và với lãi suất bao nhiêu phần trăm lại là chuyện khác.
Con đường để đô la Mỹ hay các bản tệ khác đi từ kho quỹ hay sổ sách của ngân hàng trung ương các nước “thấm” vào nền kinh tế, đến từng doanh nghiệp, qua tay các nhà đầu tư vào các địa chỉ đầu tư đã, đang và sẽ vẫn mãi tiếp tục “trắc trở”, làm cho lãi suất đô la Mỹ hoặc bản tệ khác đến tay người vay cuối cùng, ví dụ như doanh nghiệp hoặc ngân hàng thương mại, không “rẻ” như ý muốn của ngân hàng trung ương.
Lý do luôn là bởi nhà đầu tư phải tính đến rủi ro của người vay, phải cộng thêm rủi ro này vào trong lãi suất cho vay. Mức xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì rủi ro càng cao, dẫn đến lãi suất cho vay cũng phải càng cao.
Để minh họa, hãy xem trường hợp trái phiếu ngoại tệ (đô la Mỹ) của VPBank (được xếp hạng B1 bởi Moody’s) phát hành năm 2019 và niêm yết ở Singapore.
Đồ thị về lợi suất chào mua trái phiếu đô la Mỹ của VPBank dưới đây cho thấy tuy đã điều chỉnh giảm mạnh kể từ đầu tháng 4 (có thể là trùng hợp với các đợt nới lỏng định lượng của Fed) nhưng lợi suất của trái phiếu VPBank vẫn đứng ở mức 7,11%, thậm chí còn cao hơn cả so với thời gian năm trước và trước khi xảy ra đại dịch Covid-19 và sau đó sự nới lỏng tiền tệ cấp tập với cường độ lớn của ngân hàng trung ương trên khắp thế giới.
Điều này có nghĩa là để HDBank hay các ngân hàng thương mại khác ở Việt Nam (phần lớn được xếp cùng hạng B1 như với VPBank) phát hành thành công trái phiếu đô la Mỹ trên các thị trường thế giới trong thời điểm hiện nay và sắp tới, thì lợi suất cần phải chấp nhận trả cho nhà đầu tư sẽ ở mức quanh quẩn mức 7,11% như của VPBank thì nhà đầu tư mới quan tâm và mong muốn nắm giữ.
Nói cách khác, gần như hoàn toàn sẽ không có chuyện vay được “tiền rẻ” ở đây, dù tiền tràn ngập khắp nơi trên thế giới, và dù tiềm lực và quy mô của HDBank có lớn đến đâu chăng nữa.
Đồ thị đường cong lợi suất kỳ hạn 5 năm của trái phiếu ngân hàng xếp hạng B1 ở châu Á - Thái Bình Dương dưới đây minh họa thêm cái “giá” mà các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải trả cho việc vay đô la Mỹ trên thị trường thế giới đắt đỏ ở mức tương đối ra sao, khi so với các ngân hàng thương mại cùng xếp hạng B1 ở các nước trong khu vực trong thời điểm hiện nay.
Nếu lấy lợi suất trái phiếu của VPBank làm đại diện cho trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam (do hạn chế về số liệu tương ứng của các ngân hàng thương mại Việt Nam), thì lợi suất hiện tại của ngân hàng Việt Nam chỉ thấp hơn của Hồng Kông, Malaysia và Trung Quốc, như trong đồ thị trên.
Lợi suất của Việt Nam đang cao hơn đáng kể so với những nước còn lại, gồm Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Úc, Singapore và Đài Loan (cùng với Hồng Kông, Malaysia và Trung Quốc - là những nước có số liệu so sánh).
Với lợi suất trái phiếu đô la Mỹ ở mức trên 7% như hiện tại, việc các ngân hàng thương mại Việt Nam phát hành trái phiếu hoặc vay bằng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế xem ra cũng không mấy hấp dẫn, có lợi hơn so với nếu phát hành trái phiếu hoặc vay trong nước bằng tiền đồng, dù lợi suất/lãi suất phát hành/huy động bằng tiền đồng có thể là 9-10%/năm.
Tất nhiên là dù chênh lệch lợi suất/lãi suất có lên đến 2-3 điểm phần trăm, nhưng mức chênh lệch này sẽ là nhỏ, không đáng kể hoặc thậm chí đảo ngược nếu tính thêm rủi ro tỷ giá và những khó khăn khi phải huy động đủ vài trăm triệu đô la Mỹ để trả nợ, thanh toán cho nhà đầu tư khi trái phiếu, khoản vay đến hạn thanh toán.
Ngoài ra, phát hành trái phiếu, vay vốn quốc tế còn phải tính thêm đến những rào cản quy chế như phải đáp ứng các điều kiện để phát hành và niêm yết trên thị trường giao dịch quốc tế, và tối thiểu là hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia và doanh nghiệp tại Việt Nam và các quy định về quản lý ngoại hối.
(1) https://plo.vn/tai-chinh-ngan-hang/hd-bank-du-kien-phat-hanh-1-ti-usd-trai-phieu-quoc-te-918465.html

Thursday 25 June 2020

Quy định kinh doanh đặt cược, cần tính đến nhiều hệ lụy (Bài đăng trên TBKTSG, 26/6/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/305112/quy-dinh-kinh-doanh-dat-cuoc-can-tinh-den-nhieu-he-luy.html

Ngày 24/1/2017 Chính phủ ban hành Nghị định 06/2017 về kinh doanh đặt cược đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế. Vì một số vướng mắc pháp lý nên Nghị định này chưa  được triển khai trên thực tế khi chưa có một doanh nghiệp nào được cấp phép cho loại hình kinh doanh này. Mới đây, Bộ Tài chính tiến hành lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo nghị định sửa Nghị định 06/2017 (“nghị định sửa đổi”).

Sự thiếu vắng quan trọng

Cả Nghị định 06/2017 và nghị định sửa đổi đều thiếu một quy định quan trọng, đó là sự bảo vệ công dân Việt Nam khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của các trò cá cược nói riêng và đánh bạc hợp pháp nói chung. Cần khẳng định ngay và lại rằng cá cược là một trò cờ bạc, dù có được cấp phép nên trở thành hợp pháp. Đã là cờ bạc thì tất sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho người chơi và gia đình họ, cũng như cho xã hội. Nên cần phải có sự hạn chế, cấm đoán, không khuyến khích người dân tham gia hình thức cờ bạc này hay các hình thức cờ bạc khác nói chung và các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả để lại từ chơi (nghiện) cờ bạc.

Tham khảo kinh nghiệm các nước đã kết hợp hài hòa giữa nhu cầu kinh doanh cờ bạc để phát triển kinh tế với nhu cầu bảo vệ người dân của mình, họ thường có có các chế tài và tổ chức chuyên ngành để xử lý các vấn đề về cờ bạc nói chung và cá cược nói riêng. Cụ thể, ở Singapore, trong số các cơ quan chức năng có nhiệm vụ giám sát ngành kinh doanh cờ bạc nói chung có cả các cơ quan như Bộ Phát triển Gia đình và Xã hội và và Ủy ban Quốc gia về Vấn nạn cờ bạc.

Đối chiếu với Việt Nam, trong các quy định pháp luật hiện hành về cờ bạc, ví dụ như Nghị định 03/2017 về kinh doanh casino, Nghị định 06/2017 và nghị định sửa đổi, có thể thấy chúng hoàn toàn vắng bóng điều khoản quy định về sự tham gia giám sát kinh doanh cờ bạc của các cơ quan chức năng tương tự. Điều này cho thấy tâm lý làm luật của các cơ quan chức năng là chỉ tập trung vào khía cạnh kinh doanh sao cho thông suốt, mang lại lợi ích không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho nhà nước mà xem nhẹ những hậu quả xã hội để lại từ sự hợp pháp hóa ngành cờ bạc.

Thiên lệch

Có ba lĩnh vực đặt cược trong Nghị định 06/2017, gồm đua ngựa, đua chó và bóng đá quốc tế. Đáng chú ý là trong khi đặt cược bóng đá quốc tế được phép thì đặt cược bóng đá trong nước lại không được phép. Ngược lại, đặt cược đua ngựa, đua chó trong nước thì được phép còn đặt cược đua ngựa, đua chó ở nước ngoài thì không.

Nếu trong lĩnh vực bóng đá, vì e ngại bóng đá trong nước có nhiều tiêu cực như bán độ nên cần phải cấm đặt cược, trong khi bóng đá quốc tế (ở những giải có uy tín) thì không/ít tiêu cực nên được phép thì nhà làm luật giải thích tại sao chỉ có đặt cược đua ngựa, đua chó trong nước là được phép mà không phải là đua ngựa, đua chó ở nước ngoài?

Tương tự, nghị định và các văn bản liên quan cũng không giải thích lý do tại sao Việt Nam chỉ cho phép đặt cược đua ngựa, chó, và bóng đá quốc tế mà không có những trò cá cược rất phổ biến ở các nước khác như đua xe (trong và ngoài nước). Không lẽ sau này, (với việc khánh thành trường đua Công thức 1 ở Việt Nam), Việt Nam lại phải ban hành thêm một/các nghị định riêng biệt về các lĩnh vực cá cược mới gồm đua xe?

Nhất quán với các quy định pháp luật trong các lĩnh vực tương ứng khác

So sánh với Nghị định 03/2017 về kinh doanh casino, Nghị định 06/2017 và nghị định sửa đổi có một số khác biệt về, ví dụ, hình thức và mức xử phạt cho cùng những vi phạm mà lý ra phải đồng nhất. Cụ thể, Nghị định 03/2017 có điều khoản về xử phạt hành vi vi phạm quy định về hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh casino, nhưng Nghị định 06/2017 và nghị định sửa đổi lại không có điều khoản này.

Ngay trong điều khoản về xử phạt cùng một hành vi vi phạm cũng có sự khác biệt về mức xử phạt. Chẳng hạn, vi phạm tự ý sửa chữa, tẩy xóa Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh casino thì bị xử phạt từ 40 đến 60 triệu đồng theo Nghị định 03/207, trong khi điều khoản tương ứng ở Nghị định 06/2017 lại quy định mức xử phạt 90 đến 100 triệu. Lưu ý là nhiều mức xử phạt khác là tương đồng ở trong cả hai nghị định, 03 và 06/2017. Không lẽ Bộ Tài chính cho rằng vi phạm này trong lĩnh vực đặt cược là nghiêm trọng hơn so với trong lĩnh vực casino nên cần phải xử phạt nặng hơn? Do vậy, Bộ Tài chính cần rà soát lại toàn bộ các quy định ở các lĩnh vực tương ứng để đảm bảo sự nhất quán, nghiêm minh của luật pháp.

Xây dựng và công khai chế độ và biểu thuế chuyên biệt

Vì cá cược dù là hợp pháp vẫn là cờ bạc nên theo lẽ thông thường cần được áp dụng chế độ và mức  thuế phí riêng biệt, nhiều loại và ở mức cao hơn so với các ngành nghề kinh doanh thông thường khác (ít nhất là để không khuyến khích toàn dân lao vào cờ bạc). Điều này được thể hiện rõ qua chế độ và biểu thuế, phí nhiều loại với mức khá cao ở những nước như Singapore, nơi mà thông thường thì chế độ và biểu thuế đơn giản và tương đối thấp được áp dụng chung cho các doanh nghiệp (1).

Ở Việt Nam, thuế, phí áp dụng cho kinh doanh đặt cược chỉ được tóm gọn trong mấy chữ “theo đúng quy định của pháp luật (và hướng dẫn của Bộ Tài chính)”, như được quy định trong Nghị định 06/2017 và nghị định sửa đổi. Ở đây có hai khả năng xảy ra. Nếu quy định của pháp luật hiện hành về thuế, phí áp dụng với lĩnh vực cá cược là đồng nhất với các lĩnh vực kinh doanh khác thì đây là một điểm bất hợp lý, và Bộ Tài chính cần xem xét xây dựng và trình phê chuẩn một biểu thuế, phí cao hơn mức thông thường vì lý do nêu ở đoạn trên.

Trường hợp Bộ Tài chính (có kế hoạch, đã/sắp triển khai) chế độ và biểu thuế, phí riêng biệt thì họ cần phải công khai trong các nghị định liên quan. Điều này là quan trọng, không chỉ vì tính minh bạch, mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham dự đấu thầu để được lựa chọn làm doanh nghiệp thí điểm kinh doanh đặt cược tại Việt Nam

Như được nêu trong báo cáo của Bộ Tài chính, hồ sơ mời thầu được lập phải có đầy đủ thông tin rõ ràng, minh bạch các yêu cầu của dự án để làm căn cứ cho nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ dự thầu (và doanh nghiệp phải xây dựng phương án đầu tư, phương án kinh doanh tại hồ sơ dự thầu). Đồng thời, nguyên tắc lựa chọn doanh nghiệp thắng thầu còn dựa trên chỉ tiêu “đóng góp cho ngân sách nhà nước bằng tiền, ngoài các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật về thuế, để thực hiện các chương trình an sinh xã hội”. Do vậy, việc công khai chế độ và biểu thuế, phí sẽ giúp doanh nghiệp tính toán được đầy đủ các chi phí và doanh thu, lợi nhuận, các loại nghĩa vụ tài chính với nhà nước nhằm đưa ra được giá thầu cạnh tranh hợp lý để Bộ Tài chính lựa chọn.

Thursday 18 June 2020

Đừng trông vào quả trứng rồi tưởng tượng ra đàn gà (Bài đăng trên TBKTSG, 18/6/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/304815/dung-trong-vao-qua-trung-roi-tuong-tuong-ra-dan-ga.html

Mới đây Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cho biết họ sẽ đầu tư vào Vietnam Airlines (VNA). Có điều, lý do cho việc này xem ra khá là “trời ơi”, không đủ sức thuyết phục để đến mức phải sửa đổi cả các quy định pháp luật hiện hành có liên quan gồm Luật Quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, và Nghị định 32 về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, để dọn đường cho việc đầu tư này của SCIC.

Lý do đầu tiên được SCIC đưa ra là VNA đang gặp rất nhiều khó khăn do Covid-19. Với lý do này, SCIC cho biết họ đã chủ động đề xuất và phối hợp với VNA xây dựng phương án để SCIC tham gia đầu tư vốn, trước mắt là xử lý tình trạng VNA bị thiếu hụt nguồn tài chính và dòng tiền. Sau khi trở thành cổ đông, SCIC sẽ tham gia tái cấu trúc VNA không chỉ vượt qua khó khăn mà còn phát triển mạnh mẽ thời hậu Covid-19 (1).

Chuyện VNA hay bất cứ hãng hàng không nào khác của Việt Nam hay thế giới gặp khó khăn, thậm chí là phá sản là chuyện đương nhiên, nhưng đây không phải là lý do để SCIC đem tiền vốn nhà nước đi cứu giúp. Thử đặt ngược câu hỏi, tại sao SCIC chỉ có ý định cứu giúp VNA mà không phải là các hãng hàng không nội địa khác như Bamboo Airways, VietJetAir, hoặc rộng ra là nhiều doanh nghiệp nội địa trong các ngành nghề khác vốn cũng đang ngắc ngoải, thoi thóp? Chẳng phải chính vì logic này mà Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật cho phép/khống chế SCIC chỉ được đầu tư vào đâu hay sao? Bởi vậy, nếu vì bất cứ lý do nào đó mà việc đầu tư này được thông qua, chắc chắn dư luận sẽ phải đặt nghi vấn về việc có lợi ích nhóm đằng sau việc vận động hành lang cho đề nghị đầu tư này của SCIC và VNA.

Việc SCIC cho rằng sự tham gia của họ vào tái cấu trúc VNA sẽ giúp VNA không chỉ vượt qua khó khăn mà còn phát triển mạnh mẽ thời hậu Covid-19 để làm tăng tính thuyết phục của đề nghị đầu tư thì cũng chỉ tương tự như việc trông vào quả trứng để tưởng tượng ra cả đàn gà. Bởi, trước hết SCIC không phải là một đối tác chiến lược, có tiềm lực tài chính mạnh, giàu kinh nghiệm khai thác phát triển hàng không để có thể tin tưởng, khẳng định sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ của VNA trong tương lai. SCIC chỉ là một nhà đầu tư vốn đa ngành thuần túy với trình độ đầu tư còn hạn chế, thậm chí đôi khi hành động đầu tư còn bị chi phối bởi các ý muốn phi kinh tế. Khoản đầu tư 1.000 tỷ đồng của SCIC vào dự án tai tiếng TISCO II ít nhiều cho biết khả năng và kinh nghiệm tái cấu trúc, vực dậy doanh nghiệp khó khăn, thua lỗ của SCIC.

Nếu (SCIC) cho rằng VNA là một doanh nghiệp vốn lành mạnh, có tính cạnh tranh cao trong ngành hàng không trong và ngoài nước, thừa năng lực tự tái cấu trúc để vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển mạnh mẽ nếu được (SCIC) rót vốn đúng lúc, đúng liều... thì hãy xem lại hiệu quả của nỗ lực của VNA với tư cách là đối tác chi phối, nắm giữ 70% cổ phần trong Jestar Pacific trong việc vực dậy hãng hàng không này khỏi thua lỗ kéo dài trong nhiều năm qua.

Nói cách khác, cùng với những bài học xương máu để lại từ việc tái cơ cấu Vinashin, Vinalines hoặc hàng loạt dự án đắp chiếu của Bộ Công thương dù trước đó được tin tưởng hoàn toàn qua những phát biểu như kiểu “Vinashin sẽ có lãi sau 3 năm tái cơ cấu”, sẽ không có gì đảm bảo rằng tiền vốn của SCIC rót vào VNA sẽ được bảo toàn và sinh sôi thêm.

Lý do thứ hai SCIC đưa ra để giải thích cho việc muốn đầu tư vào VNA là nguồn vốn đầu tư của SCIC hiện rất dồi dào, đủ khả năng bơm hàng ngàn tỷ đồng cho VNA. Lý do này làm cho dư luận hiểu rằng SCIC đang thừa tiền mà không biết làm gì, không biết đầu tư vào đâu. Nếu đúng vậy thì thay vì cứ rót vốn vào những doanh nghiệp, những dự án đầu tư chẳng biết hiệu quả ra sao, thà rằng SCIC cứ tiếp tục đem tiền “thừa” này đi gửi ngân hàng như họ đã và đang làm trong suốt nhiều năm qua, như được thể hiện ở tỷ lệ lớn doanh thu và lợi nhuận của SCIC hàng năm là từ tiền gửi ngân hàng.

Tóm lại, chừng nào mà các hãng hàng không tư nhân của Việt Nam còn (khả năng) tồn tại mà không phải, không thể trông chờ vào sự rót vốn của nhà nước thì chừng đó SCIC hay bất cứ cơ quan chức năng nào khác chẳng có lý do chính đáng nào để rót vốn nhà nước cho VNA, một doanh nghiệp đã không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa.

Chắc nhiều người lấy lý do VNA tuy đã được cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ đa số sở hữu nên nếu không cứu giúp thì cuối cùng Nhà nước cũng sẽ bị thiệt hại, nên cần phải cứu VNA bằng cách nào đó, chứ không thể bỏ mặc VNA tự xoay xở một mình. Nếu vậy thì hãy tham khảo cách xoay xở để tồn tại của các hãng hàng không tư nhân ngay của Việt Nam mà không hề có sự trợ giúp bằng cách rót vốn nhà nước.

Wednesday 17 June 2020

Cần sửa quy định về sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật dân sự (Bài đăng trên TBKTSG, báo giấy, 11/6/2020)


Khoản 1 điều 156 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”

Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, khoản 2 điều 351 của Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Trong đại dịch Covid-19 nhiều chủ thể kinh tế ở Việt Nam đã xem xét áp dụng quy định về sự kiện bất khả kháng được nêu ở trên để miễn trừ các nghĩa vụ trong hợp đồng giao kết của mình với các đối tác, chẳng hạn như nghĩa vụ thanh toán tiền thuê mặt bằng đầy đủ và đúng hạn trong thời gian xảy ra dịch Covid-19 và Chính phủ ban hành lệnh cách ly xã hội làm cho nhiều hoạt động kinh tế bị đình trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.

Tuy nhiên, qua thực tế áp dụng, quy định này của Bộ luật dân sự đã cho thấy những tồn tại cần phải được sửa đổi cho phù hợp.

Quy định rõ chủ thể

Trước tiên, hãy phân tích câu: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”

Ai là chủ thể trong câu này? Nếu đó là các bên của hợp đồng thì đúng là các chủ thể này có thể không lường trước được và không thể khắc phục được sự kiện bất khả kháng, như dịch Covid-19. Nhưng nếu là một bên thứ ba như Chính phủ mà hiện nay một số doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ đang kiến nghị xác nhận Covid-19 là sự kiện bất khả kháng thì... chưa chắc! Bởi Chính phủ vẫn hoàn toàn có thể lường trước được và khắc phục được dịch Covid-19, như thực tế đã và đang chứng minh, và, do đó, ít nhất là đối với Chính phủ, dịch Covid-19 không phải là, khó có thể coi được là sự kiện bất khả kháng.

Như vậy, ít ra thì câu trên cần phải được sửa lại, bổ sung thêm chủ thể cụ thể (là các bên tham gia ký kết hợp đồng giao kết) để tránh gây nhầm lẫn, diễn giải tùy nghi.

Phải được hiểu, diễn giải theo một cách duy nhất

Tiếp theo, đặt câu trên trong bối cảnh cụ thể là dịch Covid-19 xảy ra và tác động của nó lên hợp đồng thuê mặt bằng giữa doanh nghiệp bán lẻ và đối tác cho thuê mặt bằn để cho cụ thể và dễ hiểu. Nếu diễn giải một cách chặt chẽ theo ngữ nghĩa thì câu này được hiểu là các bên trong hợp đồng thuê mặt bằng không thể lường trước được sự nổ ra dịch Covid-19 vào thời điểm ký kết hợp đồng; và khi dịch Covid-19 xảy ra, các bên trong hợp đồng không thể khắc phục được sự kiện bất khả kháng này – dịch Covid-19. 

Đương nhiên là bên thuê mặt bằng và bên cho thuê không thể khắc phục được dịch Covid-19 (dù có làm cách gì và cố gắng đến đâu). Nhưng nếu chỉ có vậy thì không chỉ dịch Covid-19 mà còn nhiều sự kiện khách quan khác xảy ra, ví dụ đơn giản như trời mưa, mà các bên trong hợp đồng thuê mặt bằng không thể khắc phục được (không thể ngăn cho trời không mưa). Vì vậy, nếu cứ vận dụng cách hiểu cứng nhắc từ câu cú trong quy định này của Bộ luật dân sự 2015 thì bên thuê mặt bằng có thể viện dẫn đủ thứ lý do khách quan nhưng... “trời ơi đất hỡi” để làm tiền đề cho kích hoạt điều khỏa về sự kiện bất khả kháng.

Do đó, câu trên cần phải được hiểu một cách phù hợp thực tế hơn. Cụ thể là dịch Covid-19 đã gây ra những hậu quả, gồm cách ly xã hội, làm cho một trong các bên trong hợp đồng không thể thực hiện được các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình được quy định trong hợp đồng (gồm trả tiền thuê mặt bằng đầy đủ và đúng hạn), dù bên vi phạm này đã làm mọi cách có thể để khắc phục được các hậu quả của dịch Covid-19, gồm cách ly xã hội.   

Nói cách khác, quy định sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật dân sự 2015 đang tạo ra những cách hiểu, diễn giải khác nhau, tùy theo ý chí của người áp dụng. Đây là điều tuyệt đối cần tránh đối với các quy định pháp luật nền vì thế cần phải sửa đổi lại sao cho chỉ dẫn đến một cách hiểu duy nhất và đúng đắn.

Quy định trong hợp đồng vẫn phải là... trên cả “pháp luật”!

Một tồn tại khác nằm ở quy định ở khoản 2 điều 351: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Quy định với chữ “hoặc” như thế này sẽ làm nảy sinh trường hợp các quy định khác của pháp luật sẽ 
thay thế các quy định trong hợp đồng và tạo nên tư duy rằng các quy định pháp luật chung có hiệu lực hơn hợp đồng. Cụ thể, giả sử doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ coi dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng và được đồng thuận bởi bên đối tác trong hợp đồng thuê mặt bằng. Tuy nhiên, giả sử tiếp trong hợp đồng có điều khoản quy định bên thuê phải thông báo trước một tuần cho bên cho thuê bằng văn bản về ý định áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng để không trả tiền thuê đầy đủ, đúng hạn, nhưng bên thuê đã không tuân thủ điều khoản này. Như vậy, bên thuê sẽ không được áp dụng điều khoản sự kiện bất khả kháng nếu căn cứ vào hợp đồng.

Nhưng do Bộ luật dân sự 2015 vốn không có điều khoản nào quy định để áp dụng sự kiện bất khả kháng thì trước hết các bên vẫn phải tuân thủ đúng các quy định trong hợp đồng nên bên thuê mặt bằng hoàn toàn có quyền viện dẫn quy định tại khoản 2 điều 351 rằng pháp luật (tức Bộ luật dân sự) có quy định khác, cho phép họ không phải chịu trách nhiệm dân sự (không trả tiền thuê mặt bằng), dù họ không tuân thủ quy định trong hợp đồng (không cần phải thông báo cho bên cho thuê).

Tất nhiên là sự bất đồng trong vận dụng các quy định này sẽ dẫn đến sự kiện cáo ra tòa và phán quyết rất có thể là có lợi cho bên cho thuê mặt bằng, nhưng nó lại một lần nữa cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi lại quy định về sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật dân sự 2015.

Wednesday 10 June 2020

Đóng cửa với M&A có thể còn mất nhiều hơn (Bài đăng trên TBKTSG, 11/6/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/304515/dong-cua-voi-ma-co-the-con-mat-nhieu-hon.html
Đã có những đề xuất dừng mua bán, sáp nhập doanh nghiệp trong đại dịch Covid-19 để ngăn chặn nước ngoài thâu tóm doanh nghiệp Việt Nam với giá rẻ. Đề xuất này dựa trên mối lo “mất” mà chưa nghĩ đến cái “được” cũng như cơ hội để có được nhà đầu tư có chất lượng. Đó là chưa kể mối lo “mất”, cho đến nay, vẫn chỉ là cảm tính.
Những tin tức dồn dập về các thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) của người Thái ở Việt Nam mấy năm trước đã làm dư luận sôi sục bởi những hậu quả chúng sẽ để lại cho nền kinh tế Việt Nam. Người viết bài này đã phân tích và chỉ ra những hậu quả theo kiểu “tin đồn” và thuyết âm mưu này đều là vô lý, bị phóng đại, bi kịch hóa quá mức(1).
Nay nhìn lại tình hình thực tế sau vài năm các thương vụ này được thực hiện, sẽ không khó để thấy nỗi lo sợ về các thương vụ M&A bởi người Thái nói riêng và người nước ngoài nói chung, cũng như những đề xuất mới đây ở Việt Nam về cấm đoán, hạn chế M&A bởi người nước ngoài là rất cảm tính, vô lý, thậm chí còn có hại cho quá trình hồi phục và phát triển kinh tế hậu Covid-19.
Cụ thể hơn, dư luận trước đây lo ngại rằng hàng Việt sẽ bị lấn lướt và gạt bỏ khỏi hệ thống bán lẻ bị chi phối bởi người Thái. Khi đó, người Thái có thể lũng đoạn thị trường Việt Nam do đã nắm cả chuỗi giá trị từ sản xuất đến phân phối tại Việt Nam.
Thực tế ở hệ thống siêu thị BigC rõ ràng không cho thấy có xu hướng tăng rõ rệt về sự “thôn tính” của hàng Thái nhiều hơn so với trước đây, hay sự “lũng đoạn” về giá (tăng giá vô tội vạ), nếu có. Chí ít thì cho đến nay cũng hầu như không có ai lên tiếng lặp lại mối lo này nữa. Nguyên nhân cản trở người Thái làm được việc này là bởi, như người viết đã từng lập luận, người Thái dù có nắm được Big C, Family Mart, Metro, và Nguyễn Kim, và dù những doanh nghiệp, những siêu thị này có quy mô lớn, nhưng chúng không phải là tất cả trong nền kinh tế Việt Nam, trong ngành của chúng, và họ phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp, nhiều hệ thống siêu thị khác của nội địa và nước ngoài.
Mối lo ngại lớn thứ hai là sau khi thâu tóm, các ông chủ mới người Thái sẽ thay thế/hô biến các thương hiệu Việt “một thời vang bóng” như Sabeco bởi các thương hiệu sẵn có/mới của người Thái. Thực tế thì Sabeco vẫn là Sabeco, và cũng chẳng thấy có dấu hiệu rõ ràng nào, nếu có, cho chuyện thay thế/hô biến thương hiệu này.
Lo ngại thứ ba là “miếng ngon cho người hưởng”; các thương hiệu đình đám của người Việt rơi vào tay người Thái để họ hưởng quả ngọt, chuyển lợi nhuận về nước, chẳng để lại gì cho nền kinh tế Việt Nam. Thực tế thì, theo thông tin trên báo chí, tình hình sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam do người Thái thâu tóm, mua cổ phần như BigC hay Sabeco đều đang rất chật vật, lao dốc...(2).
Sự bốc hơi giá trị vốn hóa của Sabeco làm cho giá trị của gần 54% cổ phần của ThaiBev tại Sabeco rơi thẳng đứng từ 5 tỉ đô la Mỹ tại thời điểm thâu tóm xuống còn chưa được 2 tỉ đô la gần đây. Nếu ở cương vị là “cựu” chủ nhân của số cổ phần này, hẳn nhiều người sẽ phải cảm thấy “hú vía” khi Việt Nam đã “thoát hàng” một cách ngoạn mục với giá không thể tốt hơn được nữa. Đồng nghĩa với điều này là sự thiệt thấy rõ của chủ đầu tư Thái Lan khi đã “trót” đâm lao vào thương vụ thâu tóm Sabeco. Nói cách khác, đừng vì lo ngại vô cớ rằng việc “bán mình” cho người nước ngoài luôn là thua thiệt để tự tước đi các cơ hội tốt để tái cơ cấu, tìm hướng đầu tư mới.
Bài học rút ra thêm ở đây là chúng ta cần tránh việc đưa ra những kiến nghị bất hợp lý tương tự như của một số tổ chức và cá nhân gần đây về chuyện dừng mua bán, sáp nhập doanh nghiệp trong giai đoạn dịch bệnh. Họ cho rằng đại dịch làm thương tổn nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đẩy họ vào nguy cơ bị nước ngoài thâu tóm với giá rẻ. Do đó, cần phải “bảo vệ” các doanh nghiệp này bằng cách dừng việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Bài học từ thương vụ thâu tóm Sabeco cho thấy giá rẻ hay đắt chỉ mang tính thời điểm, hoàn toàn mang tính tương đối, và tùy thuộc góc nhìn. Với các thương vụ M&A hiện nay, trong đại dịch, có thể nói rằng giá thâu tóm là rẻ, nhưng là rẻ so với trước khi xảy ra đại dịch, chứ không nhất thiết là rẻ so với doanh nghiệp khác, ở nước khác. Đứng từ góc độ nhà đầu tư nước ngoài, họ có rất nhiều lựa chọn trong thời điểm hiện tại, khi nhìn chung giá cả doanh nghiệp trên thế giới đều sụt giảm so với trước đại dịch. Nếu ngăn họ thâu tóm doanh nghiệp Việt Nam thì họ vẫn sẽ có nhiều lựa chọn khác hấp dẫn không kém, vậy điều gì làm họ mặn mà với doanh nghiệp Việt Nam nếu họ không được chào mời? Nếu đứng từ góc độ doanh nghiệp phải bán mình, ngăn cấm họ bán mình thực tế có thể đẩy họ vào chỗ chết nhanh hơn, chứ không phải là cứu họ.
Tâm lý lo sợ doanh nghiệp bị thâu tóm với giá rẻ trong khủng hoảng cũng hệt như tâm lý “tranh thủ cơ hội” mua được hàng hóa với giá hời trong khủng hoảng trước đây, chỉ khác là chúng ở hai thái cực đối lập. Như đã chứng kiến trong cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1999-2000, việc không ít doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam tranh thủ (đề xuất) mua máy móc, thiết bị như tàu biển (cũ) đã để lại những hậu quả tai hại sau này. Nói cách khác, các “cơ hội” trong các cuộc khủng hoảng, bất ổn chỉ là cơ hội với người này nhưng không nhất thiết phải là cơ hội trong con mắt của người khác, nên việc thâu tóm doanh nghiệp hãy để nó xảy ra một cách tự nhiên, theo cơ chế thị trường.
Đó là chưa kể chúng ta còn có những chốt chặn an toàn khác ngăn chặn sự thâu tóm không lành mạnh, như các quy định về tỷ lệ sở hữu tối đa doanh nghiệp bởi nước ngoài trong các ngành nghề. Điều này càng làm cho đề xuất dừng M&A các doanh nghiệp Việt Nam trở nên yếu lý.
(1) https://cafef.vn/doanh-nghiep/dung-bi-kich-hoa-chuyen-thau-tom-doanh-nghiep-viet-cua-nguoi-thai-20160218100004008.chn

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).