Wednesday 28 December 2022

Toan tính của Vietnam Airlines

Hôm 27/12, đột nhiên thấy bài viết về Vietnam Airlines (VNA) xuất hiện trên hàng loạt báo chí, kể cả những tờ báo có uy tín như KTSG. Lần mò cũng ra được một vài điều thú vị.

1. Ít nhất có 2 tờ báo đăng bài về VNA với tư cách là nguồn, gồm KTSG, với bài (gọi tắt là bài 1) có tựa đề: “Hàng không Việt Nam: Vẫn cần ‘tiếp nhiên liệu’ để cất cánh” (link: https://thesaigontimes.vn/hang-khong-viet-nam-van-can-tiep-nhien-lieu-de-cat-canh/), tên tác giả không đề như thông thường, mà chỉ là “L.N”, và bài đăng trên trang tin/báo Tổ quốc (gọi tắt là bài 2) với tựa đề: “ Hàng không Việt Nam: Cần các giải pháp hỗ trợ để đẩy nhanh đà “cất cánh”” (link: https://ttvn.toquoc.vn/hang-khong-viet-nam-can-cac-giai-phap-ho-tro-de-day-nhanh-da-cat-canh-20221227165246288.htm ), không có tên tác giả, mà cũng chẳng ghi nguồn (nên đoán là báo nguồn).     

Trong khi đó, trang CafeF đăng lại bài 2 ở trên, có ghi nguồn là Tổ quốc, tên tác giả là Ánh Dương (nhớ không nhầm thì CafeF đăng bài này là vào hôm 27, ghi nguồn là Tuổi trẻ, đến hôm nay xem lại thì ngày đăng lại biến thành 28 và nguồn thì thành Tổ quốc). Điều này cũng gián tiếp cho thấy bài đăng trên Tổ quốc nói trên là bài gốc, được CafeF và một số báo (mạng) khác đăng lại. Điểm “lạ” ở đây là bài gốc ở Tổ quốc thì không có tên tác giả nhưng bay nhẩy một hồi sang các báo khác như CafeF thì lại thấy có tên tác giả.

Với tên tác giả tuy có nhưng là để cho có như kiểu ở KTSG (“L.N”) hoặc lập lờ, lúc có lúc không như trên Tổ quốc hay CafeF, điều này cho thấy sự không chính danh, khuất tất, ném đá giấu tay, có mục đích không tốt, nhằm tuyên truyền có lợi cho VNA (nói thêm ở phần sau). Nói cách khác, bài báo 1 hay 2 trên đều là của VNA viết hoặc cung cấp nội dung và mượn tay các báo để đăng cho vẻ khách quan.  

2. Nội dung của 2 bài báo nói trên về cơ bản là... từ một lò mà ra. Dàn bài như nhau, gồm 2 phần, phần 1: “Doanh thu tăng nhưng vẫn lỗ” (ở bài 1) hay “Doanh thu tăng nhưng hãng nào cũng lỗ” (ở bài 2); phần 2: “Vẫn cần một cú hích mạnh” (ở cả 2 bài).

Ngoài nội dung đa phần là giống nhau, trừ các điểm khác biệt nêu dưới đây, điều toát lên từ 2 bài là khéo léo mượn ngành “hàng không Việt Nam” để biện báo, kể khổ cho VNA, theo kiểu nói lấy được, đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan, bên ngoài là nguyên nhân gây thua lỗ cho ngành hàng không Việt Nam nói chung và VNA nói riêng.

Bài 1 tuy có nêu mức lỗ của các hãng hàng không Việt Nam khác ngoài VNA như Vietjet và Bamboo (còn bài 2 thì không), nhưng cả 2 bài đều lờ đi, không so sánh con số lỗ khủng của VNA với của Vietjet, hãng có thị phần gần bằng VNA (7.700 tỉ >< 760 tỉ) và đã không chỉ ra nguyên nhân chủ quan tại sao VNA lại lỗ nhiều thế so với Vietjet (ít nhất thì phải như bài này, đã phân tích rõ một số nguyên nhân chủ quan: https://vietnambiz.vn/vndirect-du-bao-vietjet-lai-rong-hon-1300-ty-trong-nam-2022-2022126121924165.htm  ) 

Điểm khác biệt khác là trong phần “Vẫn cần có một cú hích mạnh”, bài 1 thì có thêm đoạn viết về việc Chính phủ có nhiều biện pháp liên quan đến giá xăng dầu để cứu doanh nghiệp hàng không, còn bài 2 thì không.

Khác biệt cuối cùng là phần kết luận liên quan đến VNA, bài 1 chỉ dám nêu ngắn gọn là “Còn đối với các hãng có vốn chủ sở hữu nhà nước, đơn cử như Vietnam Airlines, cần có sự cởi mở hơn về chính sách quản lý, đơn giản hóa và rút ngắn thời gian cho các quy trình xét duyệt thủ tục, để doanh nghiệp có thể bắt kịp với sự thay đổi của thị trường và giúp gia tăng tính linh hoạt, tính tự chịu trách nhiệm”, trong khi bài 2 thì lê thê hơn, kể khổ nhiều hơn cho VNA (so với các hãng tư nhân), gồm nào là không có quyền chủ động trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, “nhất cử nhất động” đều đợi sự phê duyệt của nhà nước, nào là chỉ được phép kinh doanh đúng ngành nghề vận tải hàng không để tránh đi chệch “đường băng” – là quy trình không kịp so với tốc độ thay đổi của thị trường và làm giảm tính linh hoạt, tính tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp có vốn nhà nước.

(Bài 1 còn có thêm một Box liệt kê các gói hỗ trợ của các nước Trung Quốc, Thái Lan và Úc cho các hãng hàng không, nhưng mục đích là gì thì không rõ, bởi VNA cũng đã được hưởng các gói hỗ trợ kiểu này hoặc hơn thế).  

3. Tóm lại, qua các bài tuyên truyền kiểu “mượn gió bẻ măng” trên, VNA toan tính gì?

Dựa vào phần kết luận của 2 bài trên, có thể thấy VNA kêu gọi được trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và được kinh doanh đa ngành (kinh doanh ngoài ngành hàng không).

Về tự chủ sản xuất kinh doanh, ô hay, VNA mượn danh doanh nghiệp nhà nước, hãng hàng không quốc gia, làm mình làm mẩy vận động để Nhà nước phải móc túi ra hàng chục nghìn tỉ đồng bơm vốn để giữ cho nó sống sót (và đang đòi nữa) thì đương nhiên nó phải có nghĩa vụ hoạt động như một doanh nghiệp nhà nước đúng nghĩa chứ? Đòi tự chủ à, ok, ok, tốt thôi, vậy hãy mạnh dạn đòi Nhà nước thoái vốn, ngừng bơm vốn, để đổi lấy quyền tự chủ như Vietjet ấy, chứ đừng khôn lỏi vừa muốn bú sữa Nhà nước vừa muốn tự tung tự tác như doanh nghiệp tư nhân.

Về kinh doanh đa ngành, không rõ VNA có mắc kẹt, hoặc trục lợi ở khoản đầu tư, kinh doanh ngoài ngành nào không mà xem ra rất “quyết liệt” đòi hỏi điều này. Nhưng trên hết, không rõ dựa vào đâu mà VNA tự tin cho rằng nếu được đầu tư kinh doanh đa ngành thì sẽ có lãi (lớn). VNA hãy nhớ rằng bản thân mình đang còn ngắc ngoải không biết đến bao giờ, đang đòi Nhà nước rót thêm vốn để tồn tại, và đến việc kinh doanh chính ngạch là vận tải hàng không còn làm không ra cái gì, ít nhất là so với Vietjet, thì đừng nên mơ tưởng đầu tư ngoài ngành để rồi trở thành một Vinashin phẩy của Việt Nam. Vẫn muốn đầu tư, kinh doanh ngoài ngành ư? Tốt thôi, một lần nữa hãy mạnh dạn lên tiếng đòi Nhà nước thoái vốn đi!

Wednesday 21 December 2022

Lại VinFast!

Vừa làm xong một bài ngắn về VinFast, lại thấy có tin, lại thấy ngứa ngáy khó chịu (tự thấy mình xấu tính, cứ thấy ai giầu có, giỏi giang, yêu nước nồng nàn như mấy anh/chị VinXXXX là máu lại sôi lên òng ọc).

Chẳng là khi đọc bản tin tiếng Việt này: “VinFast đã được cấp giấy phép bán hàng tại Mỹ, hình ảnh những chiếc VF 8 chạy trên đường phố Mỹ đang gần hơn bao giờ hết”(1) đăng đồng loạt trên nhiều tờ báo ở Việt Nam, thấy có một số điểm “lạ”, thử google một chút cũng ra nhiều cái hay.

Nguyên văn trong bản tin tiếng Việt: Giám đốc điều hành VinFast, bà Lê Thị Thu Thủy cho biết trong một tuyên bố gửi qua email: “Chúng tôi đã nhận được tất cả các thủ tục và giấy tờ cần thiết phê duyệt để được bán xe điện tại thị trường Mỹ."

Nghe giọng văn này đoán ngay đây là một đoạn văn dịch. Đọc thêm đến đoạn tiếp theo thì thấy chữ Bloomberg nên càng chắc là bản tin dịch từ Bloomberg. Google tiếp thì thấy đúng là Bloomberg có đưa tin này thật, tại link này: https://www.bloomberg.com/news/articles/2022-12-20/vinfast-gets-regulatory-ok-to-sell-first-electric-suvs-in-us

Nguyên văn toàn bộ bản tin Bloomberg:

-------

VinFast, an electric carmaker backed by Vietnam’s richest man, has received permission to sell EVs in the U.S. ahead of its planned initial public offering.

 

“We have received all necessary paperwork approvals to sell electric cars in the U.S.,” VinFast Chief Executive Officer Le Thi Thu Thuy said in an emailed statement. “That means our cars are qualified to be sold in the market.” The company, a unit of conglomerate Vingroup JSC, aims to start delivering its cars to U.S. customers this month.

 

U.S. Bank will facilitate consumer auto loans and leasing of VinFast electrical vehicles, according to the statement. VinFast is working with other US lenders for customer loans, it said.  

-------

Nhận thấy:

So với bản tin Bloomberg thì bản tin tiếng Việt về cơ bản là dịch nguyên đoạn 2 và 3 của bản tin Bloomberg (có thêm thắt chút cho tích cực hơn), còn các đoạn khác trong bản tin tiếng Việt (chắc) là trực tiếp được VinFast cung cấp nội dung (thực chất thì bản tin Bloomberg cũng chỉ là tin được cung cấp từ VinFast, qua email của bà Thủy, CEO).  

Rút ra:

1.       Các giấy phép Mỹ cấp cho VinFast như được nêu trong bản tin tiếng Việt hoặc đã không được Bloomberg đưa vào bài, hoặc đã không được VinFast gửi qua email cho Bloomberg. Trường hợp nào thì cũng nẩy sinh ra vấn đề về độ xác thực, có thể kiểm chứng, của thông tin loại này, nhất là trong con mắt quốc tế.

2.       Nếu quả thật VinFast đã được cấp các giấy phép này (và chắc mới chỉ gần đây, sau khi đã chở 999 chiếc VF 8 sang Mỹ, và cũng chắc chắn là sau khi bị “phang” bởi mấy anh Tây/Mỹ trên báo Mỹ tuần qua) thì phải ngả mũ khâm phục độ lì, liều (đúng bản chất) của Vin(Fast) khi cứ chất VF 8 lên tầu sang Mỹ mà trong tay không/chưa có giấy phép.

Và cũng khâm phục VinFast bằng cách nào đó đã “vận động” được các cơ quan chức năng Mỹ cấp phép nhập khẩu, bán và lưu thông VF 8, mà lại đúng vào ngày VF 8 (gần) cập bến (thế mới tài), bất chấp có nhiều vấn đề được nêu sơ sơ bởi mấy anh Mỹ “phang” nọ.

Mà cứ băn khoăn mãi là nếu VinFast đã biết chắc, rõ như lòng bàn tay về việc sẽ có giấy phép thì sao lại không táng lại mấy anh Mỹ phang mình bằng những tuyên bố kiểu “mày hãy đợi đấy, đến ngày 21/12 này thì mày sẽ sáng mắt”, đại loại thế.

Nhưng thôi, không lăn tăn nữa, mong là VinFast đã thật sự có được các giấy phép để giải phóng lô hàng 999 VF 8 này chứ không nhẽ lại xuất khẩu ngược về Việt Nam.

Cũng nhận thấy:

Trong bản tin của cả Bloomberg và trên báo Việt đều nhắc đến Ngân hàng Mỹ (U.S. Bank). Tuy nhiên, vào website của U.S. Bank, mục Auto-loans tại đây: https://auto-sales.usbank.com/ , thử “Search vehicles”, tab “Make” thì không thấy có hãng nào là VinFast cả, và hình như cũng không có một hãng Tầu nào hết.

Rút ra:

Hoặc là U.S. Bank không cho vay mua xe VinFast, một hãng không có tên tuổi, thậm chí còn “mới” và “lạ” hơn cả các hãng xe Tầu là những hãng mà nó đã không thèm chơi, hoặc là nó chưa cập nhật VinFast, nếu đúng như lời bà Thủy nói rằng nó sẽ cung cấp khoản vay mua/thuê xe VinFast.

Khả năng U.S. Bank không cho vay, nếu đúng thì... thôi, không còn gì để nói!

Khả năng U.S. Bank chưa cập nhật, nếu đúng thì có nghĩa là, ít nhất thì 999 chiếc VF 8 đã tìm được người mua, nhưng là bằng tiền mặt/tự có, nhưng không (dám) chắc điều này là chuyện phổ biến ở Mỹ.

Nếu không phải tất cả đã được mua, và bằng tiền mặt, thì có nghĩa là VinFast sẽ phải để một cơ số VF 8 không xác định nằm trong kho đợi người mua, nhất là đợi người được mua bằng loan từ U.S. Bank, hay các ngân hàng khác mà cho đến thời điểm này vẫn còn... chưa rõ! Một lần nữa xin ngả mũ trước độ lì, liều của VinFast nếu quả đúng là vậy.   

Tạm thế đã, rồi sẽ cập nhật thêm khi có... cập nhật từ VinFast.

---------

https://cafef.vn/vinfast-da-duoc-cap-giay-phep-ban-hang-tai-my-hinh-anh-nhung-chiec-vf-8-chay-tren-duong-pho-my-dang-gan-hon-bao-gio-het-20221221102350558.chn?fbclid=IwAR21IeE_vsWtSBzKuEJGE9cOr1lRql2hdA9r9aiPIHfJDe_VZT4L81WwdDw

VinFast cần sa thải ngay những "nhà báo" này

VinFast gần đây xem ra liên tục nhận được nhiều thông tin bất lợi về sản phẩm ô tô điện của mình, đặc biệt là mấy bài báo của các cây bút người nước ngoài đăng trên báo chí nước ngoài.

Phản ứng của VinFast trước các thông tin này xem ra khá yếu ớt, một cách bất ngờ, so với khi họ phải ứng phó với các tin bất lợi của các nguồn trong nước. Mới nhất thì có một bài báo trên Vietnamnet với tiêu đề “Thế khó của Vinfast VF8 tại Mỹ, phải chăng giá quá cao?”(1).

Sau khi điểm lại những điểm yếu chí tử - được các tác giả nước ngoài vạch ra - của VinFast VF8 trên thị trường Mỹ, cụ thể là giá bán đắt so với cự ly hoạt động của nó, bài báo trên Vietnamnet đã đập lại lời phê phán về giá bán đắt này bằng một số lập luận, trước tiên với một nhận định “đanh thép” kiểu các báo chính thống trong nước hay dùng khi muốn đập lại các “thế lực thù địch” với những từ ngữ quen thuộc như “mang rất nhiều tính cảm quan và thiếu khách quan”, “một cái nhìn vô cùng phiến diện”.

Hãy xem lại từng lập luận của bài báo của Vietnamnet để thấy tính xác đáng của chúng.

1.    1. Bài báo Vietnamnet viết: “ Đầu tiên, đúng là việc Vinfast tung ra phiên bản “đô thị” mới chưa từng công bố trước đây là một việc làm có thể khiến khách hàng không vui; song điều này cũng ghi nhận hãng xe Việt đã nỗ lực giảm giá tới 6.000 USD cho người tiêu dùng mua sản phẩm. Đây là một ưu đãi không hề nhỏ của nhà sản xuất mới như Vinfast.”

 

Bình luận: Không lẽ tác giả bài báo Vietnamnet không nghĩ rằng giá bán VF8 hoàn toàn có thể bị “nống” lên rồi sau đó được hạ đi (hạ 6.000 USD) để ra vẻ là một “ưu đãi”? Ưu đãi gì mà sau khi ưu đãi rồi vẫn còn cao hơn đáng kể sản phẩm cùng phân khúc trên thị trường Mỹ?

 

2.     2. Bài báo Vietnamnet viết: “Ngoài ra, việc so sánh giá xe trên số dặm/km cũng là không tối ưu, bởi nó chưa đủ khi những chính sách trợ giá, ưu đãi, hậu mãi, bảo hiểm, đổi trả, cơ sở hạ tầng phục vụ,... vẫn chưa được công khai. Tại Việt Nam, Vinfast nổi tiếng bởi những chính sách gây "sốc" thị trường, giúp người tiêu dùng tiếp cận mua ô tô với giá cực hời, thì việc sớm kết luận giá đắt như Dot.LA nhận định là còn quá sớm.”

 

Bình luận: Tác giả bài báo Vietnamnet phê phán việc so sánh giá xe trên số dặm/km với lý do chưa tính đến những chính sách trợ giá, ưu đãi, hậu mãi... Vậy tác giả này có xem xét và khẳng định chắc chắn rằng giá bán sản phẩm các hãng khác cùng phân khúc cũng đã gồm hết các chính sách ưu đãi này chưa? Tác giả muốn người ta so sánh kiểu táo phải so với táo chứ không phải so với lê thì cũng phải tự mình so sánh kiểu đó để chứng minh rằng sau khi tính đến các chính sách ưu đãi thì VF8 vẫn... rẻ hơn.

Nếu tác giả lấy lý do “rất khách quan” rằng các chính sách ưu đãi chưa được công khai để không làm so sánh kiểu này thì kiểu phản luận này của tác giả chỉ là kiểu hay được đồng chí AQ dùng mà thôi.

 

3.     3. Bài báo của Vietnamnet viết: “Tiếp theo, điều mà Dot.LA đã cố tình không nhắc đến trong bài viết của mình, chính là chính sách thuê pin vô cùng độc đáo của Vinfast mà hiện nay chưa có nhà sản xuất ô tô điện nào tại Mỹ áp dụng.

Đối với các khách hàng mua xe không bao gồm pin, sản phẩm chỉ có giá là 42.200 USD. Trong khi đó, phí thuê pin hàng tháng ước tính 169 USD, tương đương với khoảng hơn 2.000 USD/năm (50 triệu VNĐ/năm). Có thể coi là khá mềm trên thị trường và sẽ tiết kiệm hơn cho khách hàng nếu không có quá nhiều nhu cầu di chuyển.”

 

Bình luận: Chính sách thuê pin của VinFast có thể đúng là “vô cùng độc đáo” trên thị trường Mỹ - đơn giản vì chưa có hãng nào áp dụng – nhưng sự vô cùng độc đáo này có làm cho VF8 có giá bán hấp dẫn hơn so với các sản phẩm cùng phân khúc không thì lại không được tác giả chỉ ra.

Tác giả nêu rằng chi phí thuê pin khoảng hơn 2.000 USD/năm và tự kết luận (hay VinFast kết luận?) rằng “khá mềm trên thị trường”. Xin hỏi tác giả là nếu đã “vô cùng độc đáo” ở cái nghĩa là không có hãng nào có chính sách cho thuê pin như vậy thì tác giả dựa vào đâu để so sánh và kết luận rằng giá thuê này là “khá mềm”?

Tác giả nói (hay VinFast nói?) rằng (việc thuê pin) “sẽ tiết kiệm hơn cho khách hàng nếu không có quá nhiều nhu cầu di chuyển” vừa thiếu thuyết phục – vì không nêu được “tiết kiệm” như thế nào – vừa vi phạm nguyên tắc so sánh táo với táo bởi chỉ đem so sánh VF8 với sản phẩm khác cùng phân khúc trong nhánh thị trường hẹp dành cho khách hàng “không có quá nhiều nhu cầu di chuyển”.  

4.     Bài báo của Vietnamnet viết: “Cuối cùng, về vấn đề giá bán, Vinfast hiện nay chỉ có duy nhất một nhà máy sản xuất xe hơi tại Hải Phòng, trong khi đơn hàng đang liên tục tới tấp không chỉ từ thị trường Mỹ mà cả thị trường trong nước lẫn khu vực. Việc phải vận chuyển và xuất khẩu sang Mỹ xuyên qua Thái Bình Dương khiến cho một chiếc VF8 hiện nay đến tay người tiêu dùng ở xứ sở cờ hoa phải gánh nhiều chi phí từ thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, chi phí vận chuyển, bảo trì bến cảng,...

Do đó, nếu trong tương lai gần, sau khi nhà máy sản xuất Vinfast đi vào hoạt động tại Bắc Carolina dự kiến vào năm 2024 tới đây, chắc chắn giá xe điện từ hãng ô tô Việt Nam được chào bán tại Mỹ sẽ có sự giảm đi đáng kể, phù hợp hơn nữa với đại đa số khách hàng.”


Bình luận: Đó là chuyện tương lai, và rất hy vọng là VinFast làm được, làm đúng những điều mà tác giả kỳ vọng, mong muốn ở họ. Nhưng chỉ biết trước mắt, tại thời điểm hiện tại thì sự thực khó nói khác đi được là, với “việc phải vận chuyển và xuất khẩu sang Mỹ xuyên qua Thái Bình Dương...” làm cho VF8 có giá bán không cạnh tranh được với các sản phẩm cùng phân khúc phải không? Nếu đúng thì đây chính là ý muốn nói của các tác giả nước ngoài mà tác giả bài viết của Vietnamnet muốn đập lại đó thôi, đập cái gì nữa?

Tóm lại, nếu VinFast trả tiền thuê người của Vietnamnet viết bài này thì nên hoặc là đòi lại tiền vì hiệu quả công việc là âm, hoặc là cạch mặt nhà báo này ra cho các “hợp đồng tuyên truyền” lần sau, nếu có.

Nếu sự thật không phải vậy, mà chỉ là nhà báo này của Vietnamnet “thấy sự bất bình chẳng tha” thì anh/chị này cần phải đi học một lớp trung/cao cấp lý luận chính trị để có thêm “vũ khí biện chứng” sắc bén hơn trước khi viết các bài tương tự, bằng không thì đã tự hại chết VinFast đó rồi nghen. Nếu đã trót học rồi thì nên chuyển nghề sang làm đại lý bán ô tô của VinFast vì khẩu khí rất thích hợp với việc bán hàng dạo.

-----

 (1)    https://vietnamnet.vn/the-kho-cua-vinfast-vf8-tai-my-phai-chang-gia-qua-cao-2092779.html

Friday 2 December 2022

Nghịch lý kết quả kinh doanh tốt nhưng giá cổ phiếu lại giảm (Bài đăng trên KTSG, 24/11/2022)

https://thesaigontimes.vn/nghich-ly-ket-qua-kinh-doanh-tot-nhung-gia-co-phieu-lai-giam/

Những đợt thoái trào của thị trường chứng khoán như hiện nay thường để lại những thắc mắc xem ra rất khó lý giải, có thể coi là nghịch lý, rằng doanh nghiệp niêm yết có kết quả kinh doanh tốt, tình hình kinh tế vĩ mô cũng ổn (tăng trưởng kinh tế thuộc dạng cao nhất thế giới) nhưng giá cổ phiếu của doanh nghiệp lại “lội ngược dòng”, giảm mạnh.

Ví dụ cụ thể cho tình trạng trên là cổ phiếu ngân hàng. Kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm của 28 ngân hàng nhìn chung khá khả quan, với 27 ngân hàng báo lãi (hai ngân hàng trong số này báo lãi giảm so với cùng kỳ năm trước). Bảy ngân hàng báo lãi tới trên 10 ngàn tỷ đồng. Chỉ có một ngân hàng duy nhất báo lỗ (1). Tuy vậy, như đã thấy, giá cổ phiếu của các ngân hàng, liên tục lao dốc, phá hết đáy này đến đáy khác.

Để tìm câu trả lời, điều cần lưu ý trước hết là các nhà đầu tư, các trader cổ phiếu có xu hướng hành động theo châm ngôn “mua theo tin đồn, bán khi tin ra”, tức họ sẽ mua và đẩy giá cổ phiếu lên khi có tin đồn hay kỳ vọng và bán ngay khi tin tức được công bố, kể cả là tin tốt. Đây chính là một trong những lý do giải thích tại sao giá một cổ phiếu nào đó lại giảm khi doanh nghiệp công bố tin tốt, thường là trong báo cáo tài chính.

Báo cáo tài chính hàng quý một mặt cung cấp tính minh bạch về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nhưng mặt khác nó cũng dẫn đến hình thành và tích tụ các tin đồn bởi khoảng cách ba tháng giữa các kỳ báo cáo. Tin tốt các quý trước không nhất thiết sẽ kéo dài sau đó, trong khi nhiều yếu tố nội tại (tin đồn) và ngoại lai xen vào, ảnh hưởng đến việc định giá cổ phiếu tại thời điểm mua/công bố báo cáo.

Hơn nữa, bất cứ sự sai lệch đáng kể nào so với kỳ vọng hay bất cứ tuyên bố gây ngạc nhiên lớn nào cũng có tác động lên giá cổ phiếu. Chẳng hạn, dù doanh nghiệp công bố kết quả kinh doanh tích cực nhưng lại thấp hơn kỳ vọng mà thị trường, các nhà phân tích đặt ra trước đó thì cổ phiếu của doanh nghiệp vẫn có nhiều khả năng bị định giá thấp đi.

Một số tình huống giảm giá cổ phiếu khác cũng liên quan đến lợi nhuận công bố. Ví dụ, các nhà phân tích kỳ vọng doanh nghiệp A sẽ đạt được mức lợi nhuận trên mỗi cổ phần (EPS) là 0,8, trong khi doanh nghiệp báo cáo EPS thực tế ở mức 0,85, tức còn tốt hơn kỳ vọng (+6,3%). Dẫu vậy, nhà đầu tư vẫn phản ứng bằng cách bán ra cổ phiếu của A. Lý do là dù tin công bố là “tốt” nhưng nhiều nhà đầu tư lại kỳ vọng một mức còn cao hơn thế. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp có lịch sử đánh bại các ước tính của giới phân tích ở mức 10% hay hơn thì mức tăng 6,3% này lại trở thành nỗi thất vọng.

Hơn thế, mỗi nhà đầu tư cũng thường có phân tích hay cảm nhận riêng của mình về doanh nghiệp, ngành, và cổ phiếu. Những phân tích, cảm nhận này qua nhiều kênh sẽ tập hợp với những phân tích, cảm nhận của những người khác tạo nên một con số về định giá mang tính đồn thổi chứ không công bố công khai như của các nhà phân tích trong các công ty chứng khoán. Định giá đồn thổi với định giá của các nhà phân tích nhiều khi rất khác nhau. Trong ví dụ trên, chẳng hạn EPS đồn thổi là 0,9. Doanh nghiệp A báo cáo EPS 0,85 tức là thấp hơn mức kỳ vọng đồn thổi, dù là cao hơn mức kỳ vọng của các nhà phân tích, nên vẫn có thể gây ra một làn sóng bán tháo từ tập hợp nhiều nhà đầu tư.

Trong các báo cáo tài chính, doanh nghiệp thường đưa ra một số kỳ vọng, nhận định hay kế hoạch của ban giám đốc cho tương lai. Đây cũng là một yếu tố lớn ảnh hưởng đến định giá cơ bản. Doanh nghiệp công bố kết quả kinh doanh khớp với hoặc vượt kỳ vọng của thị trường nhưng lại điều chỉnh giảm doanh thu, lợi nhuận, dòng tiền kỳ vọng trong tương lai thì có khả năng sẽ làm giá tương lai của cổ phiếu. Điều này giải thích tại sao giá cổ phiếu vẫn có thể lao dốc dù kèm với tin tốt (kết quả kinh doanh bằng hoặc tốt hơn kỳ vọng).

Một lý do có thể nghĩ đến khác là ảnh hưởng của các trader “gây nhiễu”. Đây là các nhà đầu tư không chuyên, hoặc các nhà phân tích theo trường phái kỹ thuật. Những người này thường không phân tích cơ bản các khoản đầu tư tiềm năng mà dựa vào tin tức, chỉ số phân tích kỹ thuật, hay xu hướng. Họ thường có quyết định đầu tư khá bốc đồng, phản ứng thái quá với tin cả tốt lẫn xấu. Nên giả sử cổ phiếu của doanh nghiệp A bắt đầu bị bán tháo bởi một số nhà đầu tư thì xu hướng bán tháo này sẽ được đẩy lên mạnh mẽ bởi các nhà đầu tư gây nhiễu này.                

Lý do cuối cùng là ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô và vi mô. Yếu tố vĩ mô gồm những thứ như lãi suất tăng, hay sự chuyển hướng sang các tài sản đầu tư ít rủi ro (ví dụ tiền gửi ngân hàng) có khả năng gây sức ép lên giá cổ phiếu dù doanh nghiệp công bố tin tốt.  

Những yếu tố vi mô trong một ngành cụ thể, chẳng hạn (triển vọng) kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ tốt hơn của doanh nghiệp A cũng sẽ làm giảm khẩu vị của nhà đầu tư với cổ phiếu doanh nghiệp A dù họ cũng công bố thông tin tốt (nhưng kém hơn đối thủ).

Friday 25 November 2022

Cứu trợ của các chính phủ đối với ngành bất động sản (Bài đăng trên KTSG, 22/11/2022)

https://thesaigontimes.vn/cuu-tro-cua-cac-chinh-phu-doi-voi-nganh-bat-dong-san/

Ngành bất động sản thường là một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân, chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn thu thuế quốc gia, GDP, và tín dụng ngân hàng của toàn nền kinh tế, cũng như tạo nhiều công ăn việc làm và thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Bởi vậy, mỗi khi ngành bất động sản khủng hoảng, lao dốc thì nhiều người sẽ kỳ vọng các chính phủ sẽ phải nhảy vào cứu vớt bằng các gói tài chính hỗ trợ cho các đối tượng có liên quan hoặc các hình thức hỗ trợ gián tiếp khác.

Chính phủ Ấn Độ cuối năm 2019 thiết lập quỹ cứu trợ bất động sản trị giá 250 tỉ rupee (hơn 3 tỉ đô la Mỹ theo tỷ giá hiện tại). Số tiền này được bơm vào các dự án nhà ở cấp trung trở lên. Mục đích là để hoàn thiện các dự án sắp hoàn thành, nhằm giải cứu cho cả người mua lẫn chủ đầu tư.

Nguồn gốc của cơn khủng hoảng bất động sản ở Ấn Độ bắt nguồn từ thời kỳ tăng trưởng nóng 2004-2008 khi tăng trưởng GDP luôn đạt mức 9-10% hàng năm. Nắm bắt xu thế tăng trưởng nhanh, các nhà phát triển bất động sản nước này thi nhau tung ra các dự án bất động sản trung cao cấp, tạo ra bong bóng đầu tư lớn nhất trong lịch sử của Ấn Độ.

Khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008 tàn phá nền kinh tế thế giới. Ấn Độ tuy đã thoát được cuộc khủng hoảng này một cách khá lành lặn nhưng tăng trưởng kinh tế cũng đã giảm sút, và đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất chính là các nhà phát triển bất động sản vốn đã vay mượn hàng tỉ đô la cho các dự án của mình. Trong khi đó, các dự án của họ chưa hoàn thành nên không tiêu thụ được.

Ngoài ra, do giá nhà tăng nên lợi tức cho thuê nhà giảm đi tương ứng, trong khi lãi suất vay đầu tư mua nhà lại tăng lên, làm cho nhà đầu tư bất động sản “ngộp” lãi, buộc phải bán nhà, làm tăng vọt nguồn cung. Và mỗi khi nguồn cung có tình trạng dồn nén thì ắt sẽ có nhiều nhà phát triển bất động sản không ra được hàng. Đương nhiên, giải pháp là hạ giá bán. Nhưng thực tế không đơn giản vậy.

Vấn đề là các ngân hàng cho vay đã ngày càng trở nên lo ngại về triển vọng của ngành nên hoặc là ngừng cho vay, hoặc là tăng mạnh lãi suất cho vay để bù đắp rủi ro cao hơn. Điều này đã bào mỏng biên độ lợi nhuận và, do đó, dư địa cắt giảm giá bán sản phẩm của nhà phát triển bất động sản. Giá giảm thêm thì sẽ đẩy họ vào tình trạng thua lỗ, phá sản nên họ rất ngần ngại hạ giá.

Một lý do khác cho việc ngần ngại hạ giá là khi nhà phát triển bất động sản hạ giá bán một sản phẩm thì họ cũng phải đánh giá lại các sản phẩm khác của mình. Lúc đó nếu nhà phát triển bất động sản muốn vay ngân hàng thì ngân hàng sẽ xem xét giá trị tài sản thế chấp của họ, nay đã giảm đi và, bởi vậy, không thể cho vay nhiều như trước khi hạ giá được. Nói cách khác là hầu như không có lý do nào để nhà phát triển bất động sản hạ giá bán.

Dư luận lúc đó cũng phản đối gói cứu trợ của Chính phủ Ấn Độ. Nhưng nếu không cứu trợ thì hàng trăm ngàn người mua nhà ở nước này sẽ mắc kẹt bởi rất nhiều nhà phát triển bất động sản không còn tài chính để hoàn thành các dự án bất động sản của mình và bàn giao cho người mua nhà. Nên có thể thấy Chính phủ Ấn Độ đã nhìn nhận rằng đối tượng được cứu trợ không phải là nhà phát triển bất động sản mà chính là người mua nhà.

Một ví dụ khác về chính phủ cứu trợ ngành bất động sản từ một góc độ khác là ở Trung Quốc. Một năm sau cuộc khủng hoảng nợ của nhà phát triển bất động sản Evergrande, các vấn đề của ngành bất động sản nước này tiếp tục xấu thêm. Nhiều người mua nhà từ chối tiếp tục trả góp bởi việc xây dựng chậm chễ, trong khi việc tiêu thụ sản phẩm lao dốc. Ngay cả các nhà phát triển bất động sản từng khỏe mạnh thì nay cũng chật vật trả nợ.

S&P ước tính ngành bất động sản Trung Quốc cần tới 700 tỉ yuan (gần 100 tỉ đô la) đến 800 tỉ yuan để giúp các nhà phát triển bất động sản đang khủng hoảng có thể hoàn thành các sản phẩm dang dở đã bán. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa thấy Chính phủ nước này tuyên bố một gói cứu trợ có quy mô tương ứng, bất chấp đã có nhiều báo cáo, nguồn tin nói về quỹ như vậy.

Có lẽ vấn đề nằm ở quy mô quá lớn của ngành bất động sản nước này. Chỉ riêng tổng tài sản nợ của ba doanh nghiệp bất động sản là Evergrande, Kaisa, và Shimao đã lên đến hơn 2,6 ngàn tỷ yuan tính đến giữa năm 2021, và số này còn tiếp tục tăng mạnh sau đó. Nhưng đây vẫn chỉ là một phần nhỏ trong ngành bất động sản Trung Quốc. Nên nếu Chính phủ bơm thêm vài trăm tỉ yuan thì con số này vẫn quá nhỏ nhoi, không tác động đáng kể đến tình hình của ngành. Đó là còn chưa đề cập đến tình trạng của ngân sách vốn đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi chi lớn cho Covid-19 trong khi thu từ thuế đất và bán đất đã sụt giảm mạnh.

Cộng thêm với cân nhắc về sự phản đối của dư luận, nên thay vì tạo quỹ cứu trợ trực tiếp cho ngành bất động sản, Trung Quốc dường như tập trung vào các giải pháp gián tiếp, giải quyết từ từ các vấn đề của ngành nhằm giảm dần vị thế của ngành bất động sản trong nền kinh tế. Hồi tháng 10, Chính phủ thông báo về các khoản vay đặc biệt để thúc đẩy việc hoàn thành các dự án bất động sản, nhưng cho biết rằng các khoản vay này chỉ dành cho các thành phố cần đến chúng, và không có một con số nào về quy mô cho vay được đưa ra.

Trước mắt, có thể Chính phủ sẽ tiếp tục yêu cầu các ngân hàng và doanh nghiệp quốc doanh lựa chọn cứu trợ một số nhà phát triển bất động sản. Trong vòng vài tháng qua, Chính phủ đã giảm lãi suất cho vay thế chấp và giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề của ngành. Một vài thành phố cũng đã nới lỏng các hạn chế về mua nhà trong năm nay.

Nói cách khác, lập trường Chính phủ có thể hiểu là sẽ không có các gói cứu trợ cho các nhà phát triển bất động sản đang khủng hoảng. Thay vào đó, các giải pháp “thị trường” nhằm trợ giúp các nhà phát triển bất động sản có chất lượng sẽ được thực hiện tiếp tục. Một trong các giải pháp này là phát hành trái phiếu doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh.

Đồng thời, cần lưu ý là Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều vấn đề ngoài lĩnh vực bất động sản nên nỗ lực của Chính phủ sẽ không chỉ dồn vào cứu trợ ngành này mà còn phải dành cho các ngành khác. Các nguồn tin cho biết ngân hàng trung ương nước này sẽ công bố một công cụ cho vay trong thời gian này nhưng hóa ra họ lại dành cho cơ sở hạ tầng nhằm phục hồi nền kinh tế vốn đang bị ốm yếu bởi chính sách zero Covid. 

Tuesday 22 November 2022

Thị trường bất động sản chịu áp lực lớn (Bài đăng trên KTSG, 13/11/2022)

https://thesaigontimes.vn/thi-truong-bat-dong-san-chiu-ap-luc-lon/

Lãi suất đang trên đà tăng nhanh đặc biệt kể từ sau động thái tăng trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn và các lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hồi tháng trước. Lãi suất tăng sẽ có tác động sâu rộng tới các đối tượng trên thị trường bất động sản, một thị trường mà hiện giờ đang phải chứng kiến cả cung lẫn cầu đều suy giảm mạnh trên hầu hết các phân khúc.

Người mua bất động sản

Vốn chảy vào bất động sản chủ yếu là tín dụng ngân hàng. Ngoài chuyện bị ảnh hưởng bởi lãi suất tăng, tín dụng ngân hàng còn bị hạn chế bởi hạn mức tăng trưởng (‘room’) tín dụng mà NHNN cấp cho từng ngân hàng thương mại – còn lại khá hạn chế trong năm nay.

Room tín dụng và lãi suất tăng tác động tiêu cực và mạnh trước tiên lên đối tượng là nhà đầu tư, người mua bất động sản có sự phụ thuộc vào tiền vay ngân hàng. Với người vay có khả năng chi trả cao thì chưa chắc họ đã được ngân hàng cho vay nếu room tín dụng không còn nhiều.

Với những người vay hiện hữu hoặc tiềm năng trong tương lai, tiền trả góp hàng tháng sẽ tăng đáng kể khi lãi suất cho vay tăng mạnh. Ví dụ ở Mỹ, lãi suất tăng thêm 1 điểm phần trăm sẽ làm tăng thêm 13% tiền trả góp hàng tháng cho khoản vay lãi suất cố định kỳ hạn 30 năm.

Chưa hết, lãi suất tăng còn làm giảm khả năng, giảm sức mua bất động sản của người mua nhà, bởi ngân hàng sẽ phải hạ bớt mức cho vay tối đa dựa trên các yếu tố không đổi khác như thu nhập của người vay. Cầu về bất động sản ở Việt Nam do vậy tất yếu sẽ phải chững lại, giảm đi dù cầu thực về bất động sản có thể vẫn rất lớn.

Chủ đầu tư bất động sản

Lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng mạnh đến giới chủ đầu tư, phát triển bất động sản khi họ phải vay tiền từ ngân hàng hoặc huy động vốn qua phát hành trái phiếu với lãi suất cao hơn để tiến hành xây dựng và hoàn thiện bất động sản thành phẩm. Đồng thời, ở đầu ra tiêu thụ sản phẩm, chủ đầu tư bất động sản cũng sẽ phải đối mặt cả với tình trạng sản phẩm (đã có hoặc hình thành trong tương lai) trở nên khó tiêu thụ, tiêu thụ chậm hơn, do người mua đang gặp khó khăn với tiền vay ngân hàng, như nói ở trên, nên buộc phải cắt giảm hoặc trì hoãn việc mua bất động sản.

Chi phí tài chính cao trong khi số lượng bất động sản bán được giảm sút sẽ tác động nặng nề đến doanh thu và lợi nhuận của các chủ đầu tư, làm giảm mạnh khả năng trả nợ vay ngân hàng hoặc trái phiếu doanh nghiệp đã hoặc sắp huy động. Giá cổ phiếu của doanh nghiệp chủ đầu tư cũng bị ảnh hưởng theo, giới hạn khả năng huy động vốn qua kênh phát hành cổ phiếu mới. Tình hình này buộc họ phải rút tiền từ các mảng hoạt động khác hoặc các nơi khác về để xoay xở tồn tại. Nhiều dự án phát triển bất động sản sẽ bị ngừng đọng, hủy bỏ, và nhiều chủ đầu tư sẽ phải tái cấu trúc để vượt qua khó khăn cho đến khi nào lãi suất giảm trở lại.

Những tháng tới đây với dự báo lãi suất sẽ còn tiếp tục tăng nữa sẽ càng khó khăn hơn với giới chủ đầu tư bất động sản và càng làm chậm lại thị trường bất động sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong dài hạn hơn, sự chững lại, sụt giảm nguồn cung lại là điều tốt cho giới phát triển bất động sản bởi họ có thể khôi phục hoặc tung ra các dự án mới và bán với giá cao hơn do tình trạng khan hiếm sản phẩm.

Giá bất động sản

Lãi suất tăng có ảnh hưởng lớn đến người bán và người mua bất động sản. Giá bất động sản cũng được cho là có quan hệ mật thiết và trực tiếp với lãi suất, theo cái nghĩa là khi lãi suất tăng thì nhu cầu tụt giảm nên giá bất động sản phải điều chỉnh theo.

Tuy nhiên, điều này không luôn luôn đúng, bởi yếu tố cơ sở quyết định giá bất động sản là sức khỏe của nền kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức đủ cao thì tác động của lãi suất tăng lên giá bất động sản sẽ không đáng kể như suy luận thông thường. Kinh tế tăng trưởng tốt (và theo lý thuyết sẽ) kéo theo tỷ lệ thất nghiệp thấp và tiền lương của người lao động tăng đáng kể thì vẫn sẽ có nhiều người đáp ứng được mức tăng lên của khoản trả góp hàng tháng do lãi suất tăng.   

Nhu cầu thực về bất động sản luôn ở mức cao kết hợp với tăng trưởng kinh tế vẫn thuộc dạng hàng đầu trên thế giới và sự thiếu hụt nguồn cung bất động sản là những lý do giải thích tại sao giá bất động sản ở Việt Nam chưa thấy có sự điều chỉnh trên diện rộng, vẫn đứng ở mức cao hơn nhiều so với trước dịch.

Ngân hàng cho vay bất động sản

Thông thường, lãi suất tăng sẽ làm lợi cho ngành ngân hàng bởi họ vẫn cho vay được với lãi suất cao hơn. Tuy vậy, một số sản phẩm cho vay bất động sản như cho vay trả góp với lãi suất cố định sẽ bị tụt giảm nhu cầu bởi người vay sẽ chuyển sang các sản phẩm ngắn hạn hơn, có lãi suất có thể điều chỉnh (chẳng hạn lãi suất hỗ trợ/ưu đãi cố định trong vòng 2, 3 năm đầu) sao cho khoản trả góp hàng tháng sẽ thấp hơn và hy vọng lãi suất sẽ đi xuống trong vòng mấy năm tới so với hiện tại.

Do doanh nghiệp và cá nhân vẫn phải vay ngân hàng với lãi suất cao hơn, dù nhu cầu vay có thể suy giảm, nên nhìn chung ngân hàng vẫn là người hưởng lợi rõ ràng trong môi trường lãi suất tăng. Tất nhiên điều này chỉ đúng trong trường hợp lãi suất tăng không quá mạnh và đột ngột, dẫn đến sự sụp đổ thị trường bất động sản.

Bất động sản cho thuê, dịch vụ  

Phân khúc này nhìn chung sẽ được hưởng lợi khi lãi suất tăng bởi sẽ có ít người hơn có đủ khả năng vay mua nhà. Hơn nữa, trong môi trường lãi suất tăng, việc cho vay để mua bất động sản sẽ bị thắt chặt và xem xét kỹ hơn, làm cho nhiều người buộc phải đi thuê nhà cho đến khi đáp ứng được các điều kiện đi vay cao hơn.

Nhưng cũng có trường hợp người thuê chuyển sang mua nhà nếu lãi suất tăng làm giảm đáng kể giá nhà. Tuy vậy, số trường hợp này có lẽ không đáng kể như số phải đi thuê trong môi trường lãi suất cao còn giá bất động sản thì đã tăng quá mạnh trong hai năm qua, trở nên quá đắt đỏ rồi.

Thursday 10 November 2022

Tăng lương và lạm phát (Bài đăng trên KTSG, 4/11/2022)

https://thesaigontimes.vn/tang-luong-va-lam-phat/

Bấy lâu nay có một thực tế là khi Chính phủ tăng lương thì thường sau đó là lạm phát tăng cũng tăng lên tương ứng. Bởi vậy nên đã hình thành một ý niệm chung rằng tăng chi tiêu chính phủ (chẳng hạn như tăng lương hoặc tăng trợ cấp cho dân chúng và người lao động) sẽ dẫn đến lạm phát.

Có lẽ do bởi ý niệm này mà mới đây khi giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị thực hiện tăng lương cơ sở từ 1-1-2023 thay vì 1-7-2023, Bộ Tài chính cho rằng: "Nếu thực hiện cải cách tiền lương vào thời điểm này (tức 1-1-2023) sẽ gây thêm sức ép lên điều hành giá cả do tâm lý tăng lương đi kèm với tăng giá, gây khó khăn cho việc kiểm soát lạm phát"(1).

Cũng với nỗi lo tăng lương làm tăng lạm phát nên đề xuất liên quan đã được đưa ra, theo đó: “Do bối cảnh thế giới, trong nước đang chịu áp lực lạm phát lớn, nên Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội lùi thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết 27 sau năm 2023”(1).

Phần tiếp theo của bài viết sẽ phân tích mối quan hệ giữa tăng chi tiêu chính phủ (gồm tăng lương) và lạm phát. Xin lưu ý rằng bài viết không bàn đến tính hợp lý, thỏa đáng của đợt tăng lương sắp tới này, dù rằng tác giả trong một bài viết khác trên cùng tờ báo đã nghiêng về phía không ủng hộ.

Lạm phát luôn là hiện tượng tiền tệ

Như đã biết, lạm phát luôn là hiện tượng tiền tệ trên khía cạnh là tiền trong nền kinh tế đang có nhiều hơn tương đối so với hàng hóa và dịch vụ tại một mức giá nhất định, và giải pháp tiền tệ luôn là giải pháp căn cơ để trị lạm phát.

Nói cách khác, dù Chính phủ có tăng chi tiêu, tăng lương cho người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nhưng nếu hành động này không làm tăng cung tiền (tiền trong nền kinh tế không nhiều lên một cách tương ứng) thì lạm phát sẽ không tăng lên.

Có khi nào Chính phủ của một nước nào đó tăng chi tiêu sẽ làm/dẫn đến tăng cung tiền trong nước đó? Câu trả lời là ‘Có’. Đó là khi Ngân hàng Trung ương của nước đó “đồng hành” cùng Chính phủ, cũng tăng cung tiền để đáp ứng mức độ tăng chi tiêu của Chính phủ. Lý do của việc “đồng hành” này có thể là Chính phủ đang bị thâm hụt ngân sách nặng, khó hoặc không thể vay mượn được trên thị trường trong nước và quốc tế, hoặc nếu vay mượn được thì với chi phí đắt đỏ. Hoặc cũng có thể là khi Ngân hàng Trung ương đơn giản chỉ là muốn nới lỏng chính sách tiền tệ để (cùng với Chính phủ) kích thích tăng trưởng kinh tế...

Tăng lương ở Việt Nam

Để biết tăng lương ở Việt Nam có dẫn đến lạm phát hay không thì trước tiên phải xem Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có phải là nguồn tài trợ cho việc tăng lương này không.

Theo Bộ Tài chính, nguồn lực để triển khai tăng lương cơ sở được lấy từ nguồn tăng thu ngân sách và tiết kiệm chi hàng năm(2).

Như vậy, rõ ràng là nguồn chi trả cho việc tăng lương không đến trực tiếp từ việc “in tiền” – tăng cung tiền – của NHNN, nên trên danh nghĩa, việc tăng lương (hay tăng chi tiêu công nói chung) sẽ không làm tăng áp lực lạm phát ở Việt Nam.

Tuy vậy, điều quan ngại và là rủi ro lớn nhất của việc tăng chi tiêu, tăng lương của Chính phủ là nó sẽ làm tăng nợ công, tăng thâm hụt ngân sách và dẫn đến kết cục là ở một thời điểm nào đó, NHNN, với tư cách là một cơ quan cấp bộ trong Chính phủ, chưa có tính độc lập trong chính sách tiền tệ của mình, buộc phải tài trợ trực tiếp cho ngân sách sau khi việc vay nợ của Chính phủ diễn ra không suôn sẻ và/hoặc đẩy mặt bằng lãi suất trong nước lên mức quá cao, làm tê liệt hoạt động kinh tế của khu vực phi nhà nước.

Dẫu rằng nguồn tài trợ cho tăng lương, theo giải trình của Bộ Tài chính, là từ nguồn tăng thu ngân sách và tiết kiệm chi hàng năm, điều này không khỏa lấp được thực tế rằng ngân sách vẫn đang rất căng thẳng như được minh chứng bằng việc Chính phủ đang phải tiếp tục đi vay ở quy mô lớn, một phần là để đảo nợ, và nợ công đang tăng lên trở lại cả về mặt tuyệt đối (giá trị nợ gốc và lãi phải trả) lẫn tương đối (dư nợ so với GDP) trong/từ năm nay.

Nói cách khác, nói nguồn tăng lương là từ tăng thu ngân sách vẫn sẽ là chưa đủ để an tâm rằng tăng lương không làm tăng lạm phát. Tuy là nguồn tăng thu ngân sách, chẳng hạn từ dầu thô, nhưng lại được dành cho việc tăng lương mà không phải dành cho, ví dụ, tài trợ cho các dự án đầu tư, phát triển công khác hoặc trả nợ công thì kết cục vẫn là Chính phủ phải phụ thuộc vào vay nợ ngày càng tăng và đến một lúc nào đó thì NHNN, dưới áp lực của Chính phủ (và Quốc hội) buộc phải nhảy vào cứu trợ, dẫn đến làm tăng lạm phát.

Tóm lại, tăng chi tiêu công, tăng lương không nhất thiết làm tăng lạm phát. Tuy nhiên, không phải là vô lý, vô cớ khi nhiều người lo ngại tăng lương sẽ làm tăng lạm phát ở Việt Nam bởi thực tế NHNN không có sự độc lập trong chính sách tiền tệ với sứ mệnh tối thượng là ổn định lạm phát nên dễ bị cuốn vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách và lạm phát. Từ đây sẽ biết cần phải làm gì để tăng lương nói riêng hoặc tăng chi tiêu công nói chung không làm tăng lạm phát.    

---

(1)    https://thanhnien.vn/bo-tai-chinh-tang-luong-som-tu-112023-se-kho-kiem-soat-lam-phat-post1515128.html

https://thesaigontimes.vn/ngan-sach-danh-60-000-ti-dong-cho-viec-tang-luong-tu-1-7-2023/

Tuesday 1 November 2022

Tỷ giá và sự lưu chuyển dòng vốn ngoại (Bài đăng trên KTSG, 31/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/ty-gia-va-su-luu-chuyen-dong-von-ngoai/

Sự hiểu biết chung của nhiều người là khi đồng bản tệ mất giá so với đô la Mỹ thì sẽ dẫn đến sự chảy máu vốn nước ngoài, tức vốn nước ngoài sẽ không những không chảy vào nền kinh tế bản địa nữa mà còn chảy ngược thêm ra ngoài. Thế nhưng, có hoàn toàn như thế?

Có lẽ ý niệm này được hình thành từ suy luận rằng khi bản tệ yếu đi, giá trị và lợi tức mang lại của đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế bản địa sẽ giảm nếu tính ra đô la, không khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đầu tư mới vào hoặc duy trì vốn đầu tư ở lại trong nền kinh tế bản địa.

Với ý niệm trên, hành động phá giá bản tệ (làm/để cho tỷ giá đô la Mỹ/bản tệ tăng lên) của ngân hàng trung ương nước sở tại thường bị nhìn nhận dưới con mắt rất tiêu cực và thường xuyên bị phản đối. Cộng thêm ý niệm rằng phá giá bản tệ sẽ làm tăng lạm phát, nên nhìn chung dư luận và đôi khi bản thân một số ngân hàng trung ương cũng cho rằng cần phải can thiệp để giữ ổn định (thậm chí cố định) tỷ giá nhằm ổn định vĩ mô và thu hút/giữ chân dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Có một số điều không chính xác và/hoặc cần thảo luận sâu hơn liên quan đến các ý niệm nói trên.

Cụ thể, dòng vốn ngoại được cấu thành từ vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và đầu tư nước ngoài gián tiếp (FII). FDI được biết đến rộng rãi với sự ổn định tương đối của nó. Nhà đầu tư FDI bị hấp dẫn bởi một nền kinh tế bản địa nào đó chủ yếu không bởi lãi suất bản địa là bao nhiêu và nhà đầu tư FDI sẽ thu được bao nhiêu lãi trong sáu tháng hay một năm cho số vốn rót vào dựa trên lãi suất bản địa này.

Thay vào đó, các yếu tố (dài hạn) khác đóng vai trò quan trọng, quyết định tính hấp dẫn của nền kinh tế bản địa đối với FDI, bao gồm, ví dụ, ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, giá nhân công, trình độ nhân lực, cơ sở hạ tầng, các hiệp định thương mại tự do đã ký kết, triển vọng tăng trưởng kinh tế, vị trí địa chính trị…

Khi đã rót vốn FDI rồi thì việc đảo ngược, rút nó ra luôn không phải là một quyết định dễ dàng, nhanh chóng. Chẳng hạn, nhà đầu tư phải dự tính triển vọng kinh tế bản địa sẽ ra sao trong thời gian một, hai hay vài năm tới thay vì một vài tháng trước mắt.

Nếu có quyết định rút về bản quốc thì nhà đầu tư FDI sẽ phải cân nhắc thiệt hơn khi đã bỏ vào nền kinh tế bản địa một số vốn lớn trong đó có một phần đáng kể là không/khó thu hồi, chẳng hạn các chi phí khảo sát, thiết kế và hàng loạt các chi phí chìm (sunk cost) khác. Nên việc đi hay ở với nhà đầu tư FDI luôn là một bài toán dài hạn, và do đó FDI có tính ổn định cao. Bên cạnh đó, do mang lại nhiều lợi ích hơn là thiệt hại cho kinh tế bản địa nên FDI luôn được đón nhận nhiệt tình.

Ngược lại, FII có tính bất ổn cao, nên còn được gọi là “hot money”, tức dòng tiền đầu tư nóng, mang tính đầu cơ, cơ hội, vào ra bất định và nhanh chóng, bị chi phối chủ yếu bởi chênh lệch lãi suất thực ở nền kinh tế bản địa với bản quốc. Lưu ý cụm từ “lãi suất thực”, chứ không phải là lãi suất danh nghĩa, mà cũng không phải là tỷ giá, mới là yếu tố quyết định tính hấp dẫn của nền kinh tế bản địa so với bản quốc trong con mắt nhà đầu tư FII.

Nên giả sử lãi suất danh nghĩa ở nước bản địa thấp nhưng lạm phát cũng thấp, làm cho lãi suất thực của nước bản địa cao hơn đáng kể so với chẳng hạn Mỹ thì dòng vốn FII vẫn có xu hướng đổ về nước bản địa hơn là Mỹ, tất nhiên với điều kiện là mọi yếu tố khác không thay đổi, và ngược lại.

Với yếu tố tỷ giá trong tính toán của nhà đầu tư FII, nó được phản ánh gián tiếp qua các biến số lãi suất danh nghĩa và lạm phát. Thông thường, khi tỷ giá tăng có nghĩa là lãi suất danh nghĩa bản địa không đủ cao để củng cố tỷ giá. Tại thời điểm tỷ giá tăng, nếu ngân hàng trung ương cũng nhanh chóng tăng lãi suất thì đà tăng của tỷ giá sẽ chững lại.

Và nếu lãi suất danh nghĩa tăng đủ lớn để chênh lệch lãi suất thực với Mỹ không thay đổi thì sự đảo ngược dòng vốn FII từ nước bản địa về Mỹ sẽ không đáng kể. Tất nhiên, nếu tỷ giá tăng mà ngân hàng trung ương không tăng lãi suất tương ứng để hỗ trợ tỷ giá thì nhà đầu tư sẽ bị thiệt hại kép (thiệt về chênh lệch lãi suất thực và tỷ giá), và sẽ không còn muốn đầu tư hay giữ vốn lại tại nước bản địa nữa.

Lưu ý thêm rằng dòng tiền nóng FII thường gây ra những bất lợi cho kinh tế bản địa như bong bóng tài sản, thâm hụt thương mại, nợ nước ngoài tăng, kinh tế tăng trưởng nóng dựa trên vốn vay nóng chứ không phải tích lũy từ nội tại và các nguồn vốn có tính bền vững hơn như FDI. Cộng thêm tính có thể đảo chiều nhanh chóng nên FII thường không được nhìn nhận một cách thiện cảm, đón nhận nhiệt tình như với FDI, trừ khi nền kinh tế bản địa đang trong tình trạng… (sắp) vỡ nợ!

Do đó, trong trường hợp “xấu”, cụ thể là tỷ giá tăng và ngân hàng trung ương không tăng lãi suất, thì sự đảo chiều, tháo chạy của dòng vốn ngoại, nếu xảy ra, chủ yếu vẫn là FII – một điều không hoàn toàn tồi tệ, xét một cách tổng thể.

Nói sự đảo chiều, tháo chạy của FII là điều không hoàn toàn tồi tệ là bởi nhiều hậu quả bất lợi hơn là có lợi mà FII gây ra cho kinh tế bản địa như đã nói, và sự ra đi (sớm) của nó (trong trật tự, nhờ các biện pháp hiện hữu kiểm soát vốn – capital controls) sẽ giúp nền kinh tế bản địa bớt phụ thuộc vào FII theo nghĩa tích cực.

Ngược lại, tỷ giá tăng không nhất thiết làm hại cho nhà đầu tư FDI, bởi doanh nghiệp FDI nếu có xuất khẩu thì vẫn sẽ được hưởng lợi khi tỷ giá tăng – lợi nhuận tính bằng cả bản tệ lẫn đô la Mỹ đều tăng (với điều kiện là các yếu tố khác không thay đổi).

Hơn nữa, lợi nhuận của doanh nghiệp FDI không chỉ đến từ xuất khẩu, từ tỷ giá tăng, mà còn đến từ triển vọng kinh tế bản địa. Nếu triển vọng kinh tế bản địa vẫn sáng sủa, ổn định (sau khi phá giá bản tệ) thì giá trị khoản đầu tư của nhà đầu tư FDI sẽ tăng lên theo đó.

Mà suy cho cùng, trong bối cảnh hầu như chỉ có Mỹ là “thiên đường” đầu tư cho vốn nước ngoài nếu xét về sự lên giá của đô la Mỹ với các bản tệ khác trên thế giới, dòng vốn FDI không thể chỉ đổ dồn vào mỗi Mỹ mà vẫn phải chảy đi đâu đó. Điều này có nghĩa là dòng vốn FDI cũng không dễ dàng đảo chiều rút ra khỏi các nền kinh tế khác ngoài Mỹ.

Tóm lại, sẽ là không hoàn toàn chính xác khi nói/lo ngại tỷ giá đô la Mỹ/bản tệ tăng làm chảy máu vốn đầu tư nước ngoài, gây bất lợi cho kinh tế bản địa. Tỷ giá tăng mà đi kèm với lãi suất danh nghĩa tăng thì không nhất thiết dẫn đến sự đảo chiều của vốn ngoại, dù là FDI hay FII. Tỷ giá tăng không đi kèm với lãi suất danh nghĩa tăng thì “nạn nhân”, nếu có, là FII, và đó không nhất thiết là điều “quan ngại”.

Thursday 27 October 2022

Tăng lương: Nên ưu tiên hơn cho ngành y tế, giáo dục (Bài đăng trên KTSG, 27/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/tang-luong-nen-uu-tien-hon-cho-nganh-y-te-giao-duc/

Hiện Bộ Nội vụ đang đề xuất tăng lương cơ sở từ 1,49 triệu đồng lên 1,8 triệu đồng/tháng. Theo bộ này, sự điều chỉnh tăng này là rất hợp lý, tạo ra được động lực mới, giảm hiện trạng công chức, viên chức xin thôi việc.

Cũng theo Bộ Nội vụ, tính từ 1-1-2020 đến 30-6-2022, ở 63 tỉnh thành có 39.552 công chức, viên chức nghỉ việc, thôi việc. Đa phần trong con số này, 35.523 người, là viên chức (chiếm 89,81% tổng số nghỉ việc, thôi việc).

Về ngành nghề, bộ cho biết số nghỉ việc, thôi việc chủ yếu rơi vào hai ngành là giáo dục (chiếm 41,53%) và y tế (30,84%).

Về địa bàn, thống kê cho thấy việc nghỉ việc chủ yếu diễn ra ở các địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, đặc biệt các nơi có khu công nghiệp, chế xuất lớn. Còn các vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên thì có số lượng nhỏ.

Từ những số liệu thống kê sơ bộ nói trên có thể rút ra mấy nhận định. Thứ nhất, nếu cần tăng lương cơ sở cho công chức, viên chức thì cần tránh việc tăng lương trong đồng loạt trong tất cả các ngành, mà cần có sự chọn lọc ưu tiên, cụ thể là cho ngành y tế và giáo dục.

Cũng cần thấy rằng tỷ lệ nghỉ việc, thôi việc của công chức, viên chức ở Việt Nam như trên (gần 40 ngàn người trong 2,5 năm, trên tổng biên chế “toàn hệ thống chính trị” giai đoạn 2022-2026 là 2,234 triệu người, tức khoảng dưới 2%/2,5 năm hay dưới 1%/năm) vẫn là rất chừng mực nếu so với, ví dụ Singapore. Nước này được biết đến rộng rãi với mức lương cho giới chức rất cạnh tranh so với khu vực tư nhân, nhưng cũng đã phải chứng kiến sự ra đi của tới 9,9% lượng cán bộ quản lý sơ trung cấp trong năm 2021 (và điều này đã kích hoạt đợt xét tăng lương cho giới chức nước này từ 5% đến 12% trong năm nay).  

Nói cách khác, dù lương cơ sở hiện tại có thể thấp nhưng nó đã không gây ra sự nghỉ việc, thôi việc trên diện rộng ở các ngành khác ở Việt Nam. Do đó, tăng lương cơ sở cho các ngành ngoài y tế và giáo dục với mục đích giảm hiện trạng công chức, viên chức xin thôi việc, nghỉ việc (một cách chung chung) là không thỏa đáng, phù hợp với thực tế.

Nhận định thứ hai có thể rút ra ở đây là, do đa phần số nghỉ việc, thôi việc là viên chức (tỷ lệ công chức chỉ chiếm 10,19% tổng số nghỉ việc, thôi việc) nên nếu có tăng lương cơ sở để giữ chân nhân lực thì cũng cần sự ưu tiên, chọn lọc, chú trọng vào đối tượng là viên chức, và, xin nhắc lại một lần nữa, chỉ trong hai ngành là giáo dục và y tế.

Thứ ba, sự nghỉ việc diễn ra chủ yếu ở các địa bàn có điều kiện tốt hơn cho thấy việc tăng lương cơ sở thêm 20% (dẫn đến tăng thu nhập hàng tháng thêm một hai triệu đồng gì đó) có lẽ là không đủ, không phải là lý do để níu kéo công chức, viên chức thôi nghỉ việc trong các địa bàn này, so với cơ hội tăng thu nhập lớn hơn nhiều nếu họ làm việc bên ngoài khu vực nhà nước. Nên, một lần nữa, tăng lương cơ sở, nếu có, cũng cần mang tính lựa chọn, có mức tăng khác nhau, tùy theo đối tượng và mức sống. Cụ thể, nếu tăng lương cơ sở thì có thể xem xét tăng ở mức cao hơn (trên 20%) cho các đối tượng là viên chức trong hai ngành là giáo dục và y tế ở các trung tâm kinh tế lớn, có thu nhập và chi phí sinh hoạt cao hơn mức trung bình cả nước.

Nhưng nếu mục đích tối thượng của việc tăng lương cơ sở chỉ đơn giản là cải thiện thu nhập cho giới chức nói chung (chứ không phải để giữ chân họ ở lại, như tuyên bố) thì phải quay lại từ điểm xuất phát là tính cạnh tranh của lao động thuộc khu vực công và tư, cho cùng một đầu/loại hình công việc và vị trí.

Lại lấy ví dụ về Singapore. Để vào làm việc tại khu vực công của Singapore, người lao động cần có thành tích học tập tốt trong phân khúc của mình, tức rất chú trọng đến điểm số, thậm chí là kết quả thi tốt nghiệp từ cấp... tiểu học! (Điều này thực ra thì cũng rất có lý, bởi giữa hàng trăm, hàng ngàn ứng cử viên, điều phân biệt rõ ràng nhất, phản ánh sát thực nhất về trình độ và khả năng của các ứng viên là điểm số và bằng cấp – tất nhiên đi kèm với đó là nơi đào tạo, tốt nghiệp).

Mà các kỳ thi, các loại bằng cấp của nước này rất tiêu chuẩn, trắng đen rõ ràng nên không có chuyện chỉ cần có bằng đại học (loại giỏi)... Đông Đô như ở Việt Nam là đủ để làm công chức, viên chức trong các vị trí cần có bằng đại học. Thậm chí, với bằng cấp từ nước ngoài, cũng có danh sách các trường được công nhận cho từng nước.

Người viết có biết một vài trường hợp xin việc trong khu vực công ở đây, với đầy đủ bằng cấp, thậm chí cả bằng tiến sĩ, tốt nghiệp ở các nước phát triển khác, có kinh nghiệm làm việc nhiều năm trong ngành, mà trượt từ vòng gửi xe.

Nói vậy để thấy rằng làm công chức, viên chức, nếu đúng chuẩn mực, phải là những người đứng đầu, có thực lực trong phân khúc, lĩnh vực của mình và như thế mới xứng đáng được hưởng mức lương cạnh tranh so với khu vực tư nhân. Còn để biết sự cạnh tranh này đang như thế nào một cách đúng đắn và phù hợp thì căn cứ vào tỷ lệ nghỉ việc của công chức, viên chức. 

Ở Việt Nam, việc tăng lương mà không xét đến trình độ, thực lực, tính cạnh tranh của công chức, viên chức sẽ là điều bất cập. Tuy mang tiếng “lương thấp” nhưng thực tế không có nhiều người thôi việc, bỏ việc (thể hiện qua các con số thống kê, phân tích ở phần trên) cho thấy “lương” thực tế không hề thấp, không hấp dẫn chút nào và/hoặc trình độ, thực lực, sự cạnh tranh của số đông công chức, viên chức cũng chỉ xứng đáng với “lương thấp” như vậy mà thôi.

Tóm lại, để cải thiện, nâng cao tính hợp lý, cạnh tranh của tiền lương cho công chức, viên chức thì trước tiên cần thanh lọc, tuyển dụng chỉ những người giỏi, xứng đáng nhất trong phân khúc tương ứng dựa trên các chuẩn mực về điểm số, bằng cấp và nơi đào tạo (và kinh nghiệm làm việc cạnh tranh nếu là người chuyển ngang từ khu vực tư nhân).

Việc tăng lương, trên nguyên tắc chung, sẽ chỉ được điều chỉnh khi có dấu hiệu rõ ràng về sự sụt giảm tính cạnh tranh với lương/thu nhập của khu vực tư nhân (thể hiện khách quan qua tỷ lệ nghỉ việc lớn và/hoặc tăng nhanh). Trong bối cảnh tiền lương/thu nhập của người lao động ngoài khu vực nhà nước không có sự cải thiện rõ ràng hoặc cải thiện không đáng kể, việc tăng lương cho công chức, viên chức cần được trì hoãn hoặc chỉ được điều chỉnh nhẹ tương ứng với sự cải thiện nhẹ, nếu có, của khu vực tư.

Trong những phân khúc/ngành/địa bàn cụ thể có tỷ lệ nghỉ việc lớn hơn nhiều so với mức trung bình (cụ thể là viên chức, ngành giáo dục và y tế, ở các địa bàn phát triển) thì cần có sự chủ động, linh hoạt hơn trong việc tăng lương so với nguyên tắc chung áp dụng cho toàn bộ khu vực nhà nước. 

Monday 24 October 2022

‘Sống chung’ với lãi suất tăng (Bài đăng trên KTSG, 21/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/song-chung-voi-lai-suat-tang/

Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam ngày càng trở nên căng thẳng hơn. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã phải chính thức tăng lãi suất điều hành sau khi lãi suất huy động và cho vay đã tăng đáng kể trên các thị trường ngay từ đầu năm.

Việc tăng lãi suất điều hành của NHNN diễn ra sau các đợt tăng lãi suất cơ bản liên tiếp của Fed, ngân hàng trung ương Mỹ. Fed tăng lãi suất làm tiền đồng mất giá mạnh nếu NHNN không can thiệp. Kênh can thiệp bán đô la Mỹ đã làm giảm mạnh quỹ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam, buộc NHNN phải dựa nhiều hơn vào kênh can thiệp lãi suất.

Và trong bối cảnh lạm phát ở Việt Nam còn “thấp”, vẫn dưới mức mục tiêu 4% mà Quốc hội đặt ra từ đầu năm, nhiều người cho rằng mục đích nâng lãi suất điều hành của NHNN là để bảo vệ tỷ giá, chứ không phải kiềm chế lạm phát. Bản thân phát ngôn của các lãnh đạo NHNN cũng đôi lúc có chút mâu thuẫn, không rõ ràng về chuyện này (mục đích chính là bảo vệ tỷ giá hay kiềm chế lạm phát?) nên lập luận về bảo vệ tỷ giá càng có cơ sở.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mức lạm phát theo tháng ở Việt Nam đã tăng khá mạnh trong năm nay, thậm chí lên tới 1% hồi tháng 2 so với tháng 1. Đến tháng 8, đã tưởng đâu lạm phát được kiềm chế thành công, khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng này chỉ tăng nhẹ 0,005% so với tháng 7, nhưng rồi lại tăng mạnh trở lại vào tháng 9 (+0,4% so với tháng 8). Và so với tháng 12/2021 thì CPI tháng 9 đã tăng 4,01%, còn so với tháng 9/2021 thì tăng 3,94%, tức đều đã ngấp nghé hoặc vượt mức mục tiêu 4% đặt ra cho cả năm. Cần lưu ý thêm rằng mức mục tiêu 4% này cũng không phải là “thấp” để mà an tâm khi CPI vẫn nằm trong ngưỡng này, để cho rằng lạm phát không phải là thách thức vĩ mô chính hiện nay.

Một điều quan trọng nữa là kỳ vọng lạm phát. Lạm phát hiện tại có thể vẫn dưới mục tiêu, trong vòng kiểm soát, nhưng kỳ vọng lạm phát vẫn còn nguyên đó, càng tăng tiến theo đà tăng một cách bướng bỉnh của lạm phát ở nhiều nước trên thế giới, bất chấp các đợt tăng lãi suất rầm rộ, mạnh mẽ, quy mô toàn cầu.

Bởi vậy, việc tăng lãi suất của NHNN là tất yếu, không thể tránh khỏi. Nhưng không chỉ có tác dụng giảm áp lực lạm phát và lạm phát kỳ vọng, tăng lãi suất tất nhiên còn hỗ trợ tỷ giá nên gián tiếp giảm áp lực lạm phát. Do đó, không cần thiết phải tranh luận mục đích tăng lãi suất để làm gì mà chỉ cần biết tăng lãi suất là điều bắt buộc phải làm, thậm chí còn được làm khá muộn ở Việt Nam.

Nhìn về phía trước, khả năng Fed có thêm các đợt tăng lãi suất trong năm nay và đầu năm tới là cao nên NHNN cũng khó tránh khỏi phải tăng lãi suất điều hành (hoặc ít ra thì ngầm để lãi suất tăng trên thị trường mà không công bố chính thức, như đã chứng kiến). Nói cách khác, lãi suất dù trên thực tế hay danh nghĩa của Việt Nam đều sẽ tăng nếu Fed tăng lãi suất của họ. Doanh nghiệp vay vốn cũng sẽ tất yếu phải chịu mức lãi vay cao hơn (ngầm định và/hoặc chính thức), bất chấp động thái trấn an của NHNN gần đây rằng sẽ “bình ổn” lãi suất cho vay.

Điều đáng nói ở đây là chuyện lãi suất tăng này không phải là “ngày tận thế” với doanh nghiệp. Nếu có tăng một vài điểm % thì mức lãi suất cho vay này vẫn không phải là cao đột biến so với diễn biến trong quá khứ, đã từng có lúc lên đến gần 20%/năm. Cũng xin đừng ai lập luận rằng lợi nhuận doanh nghiệp làm ra chỉ quanh quẩn 7%-10%/năm hoặc thấp hơn mà phải trả lãi vay tới, ví dụ, 12%/năm thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ và phá sản. Chuyện này đã được nói đến nhiều và được chứng minh là một quan niệm sai lầm rồi.

Ngoài ra, để biết doanh nghiệp có chịu được mức lãi suất cao như thế không thì cần nhìn vào triển vọng kinh tế trong thời gian tới. Doanh nghiệp sẽ chịu được hầu như bất kỳ mức lãi suất đi vay cao như thế nào, miễn là họ chuyển được chi phí vay đắt đỏ này vào giá bán và tiêu thụ được sản phẩm của mình, cũng tương tự như khi lạm phát cao nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn sống khỏe.

Một trong những căn cứ để Fed mạnh tay và kiên định với chính sách thắt chặt tiền tệ của mình là diễn biến tích cực của nền kinh tế Mỹ, được thể hiện một phần qua chỉ số tạo việc làm mới. Chỉ số này tiếp tục được duy trì, cải thiện có nghĩa là việc tăng lãi suất của Fed không ảnh hưởng “chết chóc” đến nền kinh tế Mỹ, đến doanh nghiệp Mỹ nói chung.

Điều tương tự cũng cần được xem xét ở Việt Nam. Việc tăng lãi suất không chính thức ở Việt Nam từ đầu năm vẫn không cản bước Việt Nam đạt được các con số tăng trưởng GDP ấn tượng qua các quý cho đến nay. Trong các quý tới, NHNN sẽ phải dự báo, quan sát diễn biến của nền kinh tế thực (chứ không phải, ví dụ, tỷ giá) để quyết định tần suất và mức độ tăng lãi suất của mình.

Nếu tăng trưởng chững lại, thậm chí quay đầu nhanh chóng thì NHNN nhiều khả năng sẽ phải ngừng việc điều chỉnh lãi suất bất chấp Fed có tiếp tục tăng lãi suất nữa hay không. Nhưng lúc đó cũng đừng lo quá về áp lực tỷ giá hay lạm phát, bởi đơn giản là khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại cũng đồng nghĩa với tổng cầu tăng trưởng chậm lại, sẽ góp phần giảm áp lực tỷ giá hay lạm phát.   

Friday 21 October 2022

Mục đích nới biên độ tỷ giá (Bài đăng trên KTSG, 21/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/muc-dich-noi-bien-do-ty-gia/ 

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 17-10-2022 đã quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay đô la Mỹ/tiền đồng từ mức +/-3% lên +/-5%, có hiệu lực ngay cùng ngày.

Bối cảnh của động thái này, cũng như NHNN cho biết, là xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất của Fed (ngân hàng trung ương Mỹ) và các ngân hàng trung ương trên thế giới.

Đồng thời, cũng cần nhận thức được thêm một bối cảnh nữa đằng sau động thái này của NHNN là sự liên tục chạm trần tỷ giá của tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng tại các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây, cho thấy hoặc biên độ tỷ giá, hoặc bản thân tỷ giá trung tâm do NHNN công bố hàng ngày, đã trở nên không còn phù hợp với biến động tỷ giá hiện nay.

Sự không còn phù hợp này cũng sẽ hoặc là dẫn đến sự bùng phát của thị trường ngoại tệ “chợ đen” khi ngân hàng thương mại không thể nâng cao giá mua/bán đô la Mỹ quá mức mà thị trường đòi hỏi, hoặc sẽ dẫn đến việc “lách luật” của ngân hàng thương mại, tiến hành mua/bán với giá cao hơn giá trần, làm cho việc quy định biên độ tỷ giá trở nên vô nghĩa.

Tỷ giá trung tâm của NHNN tuy được xây dựng dựa trên sự tham chiếu tỷ giá của một rổ tiền, nhưng nó vẫn không hoàn toàn khách quan bởi vẫn chứa đựng các yếu tố chủ quan gồm “các cân đối kinh tế vĩ mô và tiền tệ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ (của NHNN)”. Nên có thể coi tỷ giá trung tâm là một công cụ điều hành của chính sách tiền tệ thiên về phần chủ quan của NHNN.

Để cải thiện tính khách quan, tính thị trường cho tỷ giá ngân hàng, NHNN áp dụng biên độ tỷ giá. Do được biến động trong một phạm vi nhất định giữa sàn và trần lãi suất (dựa trên tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá) nên tỷ giá ngân hàng gần với tỷ giá thị trường, tỷ giá chợ đen hơn so với tỷ giá trung tâm. Biên độ tỷ giá càng lớn thì mức chênh lệch của tỷ giá ngân hàng với tỷ giá thị trường/chợ đen càng nhỏ, đặc biệt những lúc căng thẳng tỷ giá.

Trong bối cảnh tỷ giá có xu hướng gia tăng do Fed tăng lãi suất và việc can thiệp bán đô la Mỹ cũng như nâng lãi suất tiền đồng của NHNN không có nhiều tác dụng trong việc chặn đà tăng này, NHNN chắc chắn đã phải đi đến quyết định “lỏng cương” với tỷ giá.

Nhưng do bị ràng buộc bởi yêu cầu “ổn định vĩ mô”, NHNN cũng không thể điều chỉnh quá mạnh tỷ giá trung tâm dù cần thiết, bởi có thể bị thị trường nhìn nhận như một hành động “phá giá” tiền đồng – một từ “húy” và nhạy cảm đối với nhiều người.

Do vậy, cách tốt nhất để tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng tăng mạnh hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ trói buộc của cơ chế tỷ giá trung tâm và biên độ tỷ giá trước đó, là điều chỉnh mạnh biên độ tỷ giá, chứ không phải tỷ giá trung tâm.

Tỷ giá tại ngân hàng thương mại có tăng mạnh thêm, ví dụ, 1% chủ yếu bởi nới biên độ sẽ là dễ giải thích (“do cung cầu thị trường”), dễ được chấp nhận và cũng dễ được thực hiện hơn là tăng tỷ giá trung tâm thêm 1% trong khi lại giữ nguyên biên độ tỷ giá. Đây chính là lý do dẫn đến sự điều chỉnh biên độ tỷ giá hôm 17-10.      

Nâng biên độ tỷ giá chắc chắn sẽ mở đường cho tỷ giá ngân hàng tiếp tục tăng mạnh hơn đáng kể so với hiện nay trong các tháng tới mà không cần phải phụ thuộc quá nhiều vào tỷ giá trung tâm.

Nhờ đó, NHNN một mặt không còn phải bận tâm chạy theo thị trường hàng ngày và “đau đầu” với việc đặt tỷ giá trung tâm bao nhiêu là phù hợp để vừa không trói tay quá mức ngân hàng thương mại hoặc dẫn đến các hành vi lách luật, vừa vẫn không làm thị trường bị sốc hoặc hoảng loạn nếu tăng quá mạnh, chẳng hạn 1% thay vì chỉ vài (chục) đồng/ngày như vẫn diễn ra cho đến nay.

Mặt khác, NHNN không còn phải tự làm khó mình thêm nữa với nghĩa vụ phải bán ra đô la Mỹ để can thiệp khi tỷ giá ngân hàng căng thẳng, chạm trần tỷ giá, đơn giản bởi tỷ giá bán can thiệp của NHNN có thể đặt cao hơn trong biên độ tỷ giá cao hơn so với trước đây mà không gây ra mấy thắc mắc, “tâm tư” gì cho hệ thống ngân hàng. Tỷ giá bán của NHNN càng cao thì nhu cầu/cơ hội mua đô la Mỹ của ngân hàng thương mại từ NHNN đương nhiên càng giảm đi, giúp ngăn cản sự cạn kiệt thêm nhanh chóng dự trữ ngoại hối quốc gia vốn đã giảm rất mạnh trong mấy tháng gần đây.   

Nhìn chung, việc nâng mạnh biên độ tỷ giá như hôm 17-10 cũng tương đương với một bước đi đáng kể tiến đến gần hơn với chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát tương tự như ở nhiều nước khác, thay vì chính sách tỷ giá neo gắn tiền đồng với đô la Mỹ (chính sách tỷ giá ổn định) mà Việt Nam nỗ lực theo đuổi suốt bao năm qua cho đến nay dù thường xuyên dẫn đến các đợt căng thẳng về tỷ giá và vẫn không tránh được xu hướng phải “phá giá” tiền đồng đáng kể qua từng năm.

Monday 17 October 2022

Lạm bàn về doanh nhân (Bài đăng trên KTSG, 13/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/lam-ban-ve-doanh-nhan/

Doanh nhân, theo wikipedia, là người giải quyết các vấn đề cho người khác để kiếm lợi nhuận. Ở Việt Nam, doanh nhân là một từ được giới truyền thông sử dụng để xác định một tầng lớp gắn với thành phần kinh tế tư nhân và chủ nghĩa tư bản xuất hiện sau những năm 1990.

Lần lại lịch sử ở Việt Nam, có lẽ giới doanh nhân có tiền thân là giới công thương, và Ngày Doanh nhân Việt Nam, 13/10, được ra đời từ năm 2004 dưới thời Thủ tướng Phan Văn Khải, cũng chính là ngày Bác Hồ gửi thư cho giới công thương Việt Nam (ngày 13/10/1945).

Thời điểm năm 1945 đương nhiên là không có khái niệm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và/hoặc thành phần kinh tế nhà nước. Nên cũng đương nhiên là giới công thương/doanh nhân chỉ gồm những người có tư bản (nhà tư bản), bỏ vốn thuê người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nào đó.

Năm 2011, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 09 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (1). Nghị quyết này dường như cũng xác định giới doanh nhân là giới tư bản, chủ doanh nghiệp tư nhân, không liên quan gì đến DNNN hay khu vực kinh tế nhà nước.

Vào thời điểm được xây dựng, Nghị quyết 09 hay trước đó là Quyết định của Thủ tướng Phan Văn Khải, Việt Nam đã có một nền kinh tế đa sở hữu, gồm cả DNNN và DNNN được cổ phần hóa (tư hữu hóa) nhưng có một phần sở hữu của Nhà nước, hay DNNN liên doanh với doanh nghiệp tư bản nước ngoài... Ngay đối với doanh nghiệp tư nhân, cũng có doanh nghiệp 100% thuộc sở hữu cá nhân hoặc doanh nghiệp/công ty cổ phần, nơi các cá nhân chỉ nắm sở hữu một phần doanh nghiệp thông qua phần góp vốn của mình.

Nếu coi doanh nhân là chủ nhân của các doanh nghiệp, theo đúng nghĩa đen là sở hữu 100% doanh nghiệp, thì chắc giới doanh nhân Việt Nam sẽ bị tổn hại đáng kể về mặt số lượng thành viên. Nên chắc Bộ Chính trị hay Thủ tướng Chính phủ hồi đó cũng không chặt chẽ gì câu chữ mà xác định giới doanh nhân bao gồm luôn cả giới chủ sở hữu... một phần của mọi doanh nghiệp tư nhân (phi nhà nước). Và tất nhiên là giới chủ một phần này chắc cũng phải tham gia lãnh đạo, điều hành sản xuất kinh doanh để được gọi là doanh nhân, chứ không thì chỉ là... cổ đông, dù là phổ thông hay chi phối.

Nhưng như vậy thì lại không thể bỏ sót giới vừa là quản lý, vừa là chủ sở hữu một phần ít nhất là các DNNN đã được cổ phần hóa (nhưng Nhà nước vẫn nắm đa số sở hữu) hoặc doanh nghiệp liên doanh với DNNN, thậm chí DNNN được thành lập mới có một phần vốn nhà nước. Trong các doanh nghiệp này, không ít trường hợp người quản lý, lãnh đạo cũng đồng thời là cổ đông/chủ sở hữu, thậm chí còn nắm một cổ phần đáng kể (nhờ được mua với giá ưu đãi).

Cùng với quá trình cổ phần hóa, con số doanh nghiệp loại này sẽ ngày càng tăng, càng... đòi hỏi tính công bằng trong việc “trả lại tên” cho giới lãnh đạo doanh nghiệp này là... các doanh nhân cho tương xứng với giới doanh nhân bên ngoài.

Nhưng đến đây rồi thì lại cần sự công bằng trên khía cạnh sở hữu chi phối. Doanh nhân trong các DNNN hoặc doanh nghiệp liên quan đến DNNN (cổ phần hóa, liên doanh, nơi Nhà nước vẫn nắm trên, ví dụ, 50% sở hữu) vẫn phải chịu sự chi phối của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, khó mà đánh đồng với sự hầu như là tự tung tự tác của giới doanh nhân ở các doanh nghiệp tư nhân, phi nhà nước.    

Do đó, cũng cần phải có sự phân biệt giới doanh nhân thành doanh nhân... nhà nước (quốc doanh) và doanh nhân tư nhân những lúc cần phải vậy, tương tự như khi cần phải phân biệt DNNN với doanh nghiệp tư nhân, mà không thể gọi chung là doanh nghiệp được (chẳng hạn trong vấn đề lương).  

Nhân Ngày Doanh nhân 13/10, giữa thời buổi muôn trùng khó khăn “thập diện mai phục” như hiện nay, nếu được hỏi ước muốn và được tôn vinh bằng cách cho lựa chọn, chắc có một số doanh nhân muốn mình là doanh nhân nhà nước (doanh nhân quốc doanh)!

Cũng là doanh nhân, nhưng doanh nhân quốc doanh thì “sướng” hơn doanh nhân tư nhân nhiều. Bởi vẫn có cơ hội biến “của công thành của ông”, trong khi thua lỗ thì được Nhà nước “treo” ở đó, hoặc tìm mọi cách hà hơi tiếp sức từ năm này sang năm khác mà không “nỡ” để chết. Thậm chí, lúc thua lỗ triền miên đến âm nặng cả vốn chủ sở hữu mà vẫn có thể thản nhiên đòi chi thưởng cho cán bộ công nhân viên với lý do “để động viên” tinh thần (tất nhiên người lao động trực tiếp được một thì “doanh nhân” lãnh đạo được vài phần).

Tất nhiên, chuyện rạch ròi và ước muốn về tên gọi như trên là điều có lẽ ít ai nghĩ tới hoặc bận tâm. Nhưng như vậy thì nó lại chỉ ra tính hình thức của tên gọi và sự tôn vinh “doanh nhân”.

Nếu thực sự muốn đề cao, tôn vinh, động viên tinh thần doanh nhân, tinh thần khởi nghiệp, dám dấn thân, không ngại mạo hiểm, khó khăn, dốc hết tâm sức và tài lực để làm giàu cho bản thân và xã hội thì chí ít hãy tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng, minh bạch để những doanh nhân chân chính không phải “tâm tư”, không phải bất an với hiện trạng dường như pháp luật không bảo vệ mình, và cũng không phải xấu hổ hay chạnh lòng khi phải đứng chung hàng ngũ với mấy “doanh nhân quốc doanh” kể trên.     

(1)    https://hatinh.gov.vn/y-nghia-ngay-doanh-nhan-viet-nam-13-thang-10#:~:text=Vi%E1%BB%87c%20Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7,Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20c%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a.

Thursday 13 October 2022

Phân tích, dự báo vĩ mô bị... lỗi nhịp (Bài đăng trên KTSG, ngày 17/10/2022)

https://thesaigontimes.vn/phan-tich-du-bao-vi-mo-bi-loi-nhip/

Ngày 23/9, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức tăng các lãi suất điều hành thêm 1 điểm %. Trước việc tăng lãi suất này, nhiều tổ chức nghiên cứu, phân tích vĩ mô, thị trường đã tỏ ra bất ngờ, lúng túng, bởi các phân tích, dự báo trước đó của họ đã nhận định NHNN không tăng lãi suất năm nay, hoặc trước quý 4, hoặc, nếu có, sẽ chỉ tăng ở mức khiêm tốn, không đến 1 điểm % như đã thấy. Hầu như không có báo cáo nào dự báo chính xác NHNN sẽ tăng lãi suất ngay trong quý 3 này, và, nếu có, thì ở mức độ 1 điểm % này.

Chẳng hạn, Maybank dự báo Việt Nam chỉ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm % vào cuối năm nay (1). Tương tự, VnDirect “có đôi chút bất ngờ” về mức tăng 1 điểm % lãi suất điều hành, cao hơn so với dự báo trước đó của tổ chức này là 0,5 điểm % cho năm 2022. Chứng khoán Bản Việt (VCSC) thì cũng không khá hơn khi hồi đầu năm kỳ vọng trần lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng sẽ chỉ tăng 0,5 điểm % lần lượt trong năm 2022 và 2023.

Một số chuyên gia, học giả thì “cập nhật” đánh giá của mình về động thái tăng lãi suất đã rồi của NHNN một cách vớt vát theo kiểu "tăng lãi suất điều hành thời điểm này là phù hợp” (3), “(việc tăng lãi suất) là một trong biện pháp hành động trước, đi trước một bước để sau này không phải đối mặt với những căng thẳng” (4).

Lãi suất (sớm) tăng là điều tất yếu, có thể khẳng định chắc chắn từ sớm

Một trong những bất cập, yếu kém chính của các loại phân tích, dự báo trên là đã thất bại trong việc nhìn thấy hành động tăng lãi suất điều hành của NHNN sớm là điều không thể tránh được.

Ngay từ cuối năm trước, trong khi mọi người vẫn dự báo một mặt bằng lãi suất thấp hơn trong năm 2022 để hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tác giả đã dự báo “ngược dòng” rằng: “Sự mạnh lên của đô la Mỹ và áp lực gia tăng giá cả sẽ buộc NHNN hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài thắt chặt trở lại chính sách tiền tệ của mình. Nhưng, mức độ thắt chặt trở lại có thể sẽ không quá lớn bởi NHNN không muốn gây ra một sự đổ vỡ trong nền kinh tế nội địa khi sự phục hồi còn chưa vững chắc. Do đó, lãi suất tiền đồng năm 2022 có chiều hướng sẽ tăng lên, tuy ở mức độ nhỏ, hoặc ít nhất thì sẽ khó có chuyện lãi suất sẽ giảm tiếp so với mức hiện nay” (5).

Tiếp theo đó, một mặt đã sớm nhận định, chỉ ra rằng xu hướng thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất của NHNN thực tế đã xảy ra ngay từ quý 1, mặt khác, tác giả đã phân tích lý do tại sao NHNN vẫn ngần ngại công khai về xu hướng thắt chặt tiền tệ này, tuy họ có thể biết rõ họ hầu như chẳng còn công cụ chính sách nào khác (6).    

Để khẳng định lại việc NHNN cần thiết phải sớm công bố tăng lãi suất điều hành ngay từ lúc “bão giá” đã bắt đầu hoành hành ở Việt Nam trong các quý trước, tác giả đã mượn trường hợp chống lạm phát của Singapore để cho thấy chỉ có công cụ chính sách tiền tệ (tức nâng lãi suất) mới là giải pháp hữu hiệu để chống lạm phát, chứ không phải là các giải pháp hành chính, phi kinh tế, phi thị trường (7).

Đáng kể hơn, tác giả đã chỉ ra dấu hiệu rõ rệt của việc NHNN đã bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ, nâng lãi suất từ hồi tháng 6 (8). Tuy nhiên, tại thời điểm đó, NHNN vẫn khẳng định “tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành”. Điều này làm cho nhiều tổ chức/cá nhân phân tích, dự báo (gồm các tổ chức/cá nhân nêu đầu bài) tin một cách khá... ngây thơ rằng chính sách tiền tệ sẽ không bị thắt chặt, và nếu có (nếu tăng lãi suất điều hành) thì chỉ diễn ra vào quý 4. Với các phân tích của mình, tác giả kết luận rằng NHNN sẽ phải sớm công bố nâng các mức lãi suất điều hành (tức là trước quý 4/cuối năm 2022 mà đa phần dự báo khác đưa ra).

Để củng cố thêm lập luận về hành động phải sớm tuyên bố nâng lãi suất điều hành của NHNN, tác giả đã phân tích lý do chính đằng sau mặt bằng lãi suất đã và đang tăng lên ở Việt Nam trong các tháng trước, mà cụ thể là do NHNN đã giảm cung tiền (M2) nhằm siết chặt chính sách tiền tệ trong nỗ lực giảm lạm phát và chặn đà tăng của tỷ giá (9).

Bài học

Như vậy, việc NHNN tăng lãi suất điều hành là điều hoàn toàn có thể dự báo sớm với xác suất hầu như tuyệt đối nếu các tổ chức/cá nhân hiểu rõ và bám chắc vào các nguyên lý tiền tệ và kinh tế học vĩ mô. Tất nhiên, không thể loại trừ ý thức thuần phục, không thoát khỏi nếp nghĩ rằng “người ta” đã nói vậy thì chắc là vậy làm cho họ không thể có khả năng, không dám đưa ra các dự báo ngược dòng dù có thể họ cũng có nhận biết được chút gì đó vô lý ở đây.

Không chỉ thất bại trong việc nắm bắt các xu hướng tất yếu, các phân tích, dự báo có trên thị trường còn gây thất vọng ở chỗ đã không kịp thời cập nhật, sửa đổi các dự báo, phân tích của mình khi các yếu tố, điều kiện thị trường đã thay đổi một cách rõ rệt, làm cho các dự báo của họ trở nên lỗi thời, sai lầm.

Chẳng hạn, cũng chuyện lãi suất trên thực tế đã tăng mạnh, không chỉ ở lãi suất huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại, mà đặc biệt còn thể hiện qua lãi suất mà NHNN áp dụng với các ngân hàng thương mại trên thị trường mở và tín phiếu, hoặc lãi suất liên ngân hàng vốn đã tăng vọt tới dăm điểm % từ cả mấy tháng trước, thậm chí lên mức kỷ lục cả chục năm nay, lẽ ra những tổ chức đã may mắn dự báo đúng được việc NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất, nhưng lại chỉ dự báo mức tăng có 0,25 hoặc 0,5 điểm phần trăm như nêu trên cần phải thấy ngay rằng mức tăng theo dự báo của họ là quá nhỏ, không thể đúng trên thực tế để rồi thấy “có đôi chút bất ngờ” khi chuyện đã rồi!       

Để cứu vãn uy tín, mang lại chút giá trị gia tăng nào đó, xin khuyến nghị rằng ít nhất thì các tổ chức/cá nhân đã và đang có các báo cáo phân tích, dự đoán về xu hướng lãi suất trong phần còn lại của năm và sang năm sau ở mức không thay đổi, hoặc có tăng chỉ ở mức khiêm tốn, ví dụ 0,5 điểm %, nên nhanh chóng sửa lại các dự báo này nếu không muốn bị rơi vào tình thế “bất ngờ” một lần nữa.

 ----

(1)    https://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-tang-lai-suat-chinh-sach-tien-te-binh-thuong-hoa-hau-dai-dich-20220923205652009.chn

(2)    https://cafef.vn/nhnn-tang-lai-suat-quyet-liet-hon-du-bao-gioi-phan-tich-lo-bien-loi-nhuan-ngan-hang-bi-thu-hep-20220923120418971.chn

(3)    https://cafef.vn/ts-truong-van-phuoc-viet-nam-tang-lai-suat-dieu-hanh-thoi-diem-nay-la-phu-hop-20220923071224417.chn

(4)    https://cafef.vn/nang-lai-suat-viet-nam-rut-ra-bai-hoc-nhin-tu-cau-chuyen-cua-fed-20220923065911409.chn

(5)    https://thesaigontimes.vn/trien-vong-kinh-te-the-gioi-va-viet-nam/

(6)    https://phan-minh-ngoc.blogspot.com/2022/04/tang-lai-suat-cho-vay-ngan-hang-khong.html

(7)    https://thesaigontimes.vn/kiem-che-lam-phat-hieu-dung-de-ky-vong-dung-va-hanh-dong-phu-hop/

(8)    https://thesaigontimes.vn/lai-suat-dieu-hanh-chua-tang-nhung-chinh-sach-tien-te-da-bat-dau-that-chat/

(9)    https://thesaigontimes.vn/tai-sao-lai-suat-lai-tang/

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).