Sunday 29 May 2022

Sở hữu có thời hạn chung cư, nhìn từ Singapore (Bài đăng trên KTSG, 27/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/so-huu-co-thoi-han-chung-cu-nhin-tu-singapore/

Trong đề cương Luật Nhà ở (sửa đổi) mới đây, Bộ Xây dựng đề xuất cấp sổ hồng cho căn hộ chung cư có thời hạn 50-70 năm. Bộ cho rằng ở nhiều nước đang áp dụng chính sách quyền sử dụng đất là lâu dài còn tài sản trên đất (là nhà ở, chung cư) thì có thời hạn sử dụng (1).

Không rõ “nhiều nước” mà Bộ Xây dựng đề cập bên trên là nước nào, nhưng ít nhất ở Singapore thì không lằng nhằng, phức tạp như thế.

Singapore có hai loại sở hữu bất động sản là sở hữu có thời hạn (leasehold) và sở hữu trong thời gian không xác định (freehold). Cần lưu ý rằng ở Singapore (chắc cũng giống hầu hết các nước trên thế giới), đất đai thuộc dạng freehold của ai đó là đất thực sự được sở hữu vĩnh viễn, không có thời hạn. Ở Singapore, không có khái niệm “quyền sử dụng đất” như ở Việt Nam. Chỉ riêng về mặt này cũng đã làm cho so sánh của Bộ Xây dựng với các nước nói chung và Singapore nói riêng trở nên khập khiễng.

Đối với đất đai, bất động sản thuộc dạng leasehold, về bản chất đây là đất thuê, người chủ sẽ mất quyền sở hữu khi bất động sản đó hết hạn cho thuê, phải trả lại người chủ ban đầu. Có hai loại thời hạn thuê chính là 99 năm và 999 năm. Tuy 999 năm là khoảng thời gian dài không tưởng nhưng về mặt kỹ thuật thì bất động sản loại này vẫn là bất động sản thuê.

Hơn 75% đất đai ở Singapore thuộc sở hữu của nhà nước. Do vậy, đa phần nhà/căn hộ chung cư do tư nhân xây dựng hoặc do nhà nước xây dựng (gọi là căn hộ HDB) là thuộc dạng leasehold. Thời hạn thuê thông thường là 99 năm, nhưng cũng có các thời hạn khác là 30, 60 thậm chí là 999 năm. Khi hết hạn thuê, quyền sở hữu mảnh đất đó được trả lại cho nhà nước, và các quyền lợi của người sở hữu bất động sản (công trình xây dựng, nhà cửa) trên mảnh đất đó cũng sẽ không còn nữa. Nhà nước không có nghĩa vụ bồi thường cho chủ sở hữu công trình, nhà cửa trên mảnh đất đó.

Đối với loại đất đai, bất động sản có thời hạn thuê đất 99 năm, người chủ bất động sản (chính xác hơn, người thuê) có hai lựa chọn liên quan đến thời hạn thuê. Thứ nhất, họ có thể nộp thêm tiền trực tiếp cho cơ quan chức năng của nhà nước (Cục Đất đai) để gia hạn hợp đồng thuê đất. Giả sử hợp đồng thuê đất chỉ còn 50 năm, các chủ sở hữu bất động sản trên mảnh đất đó có thể trả tiền để kéo dài thời hạn hợp đồng thêm 49 năm nữa thành hợp đồng thuê mới 99 năm như ban đầu.

Cục Đất đai sẽ xem xét nhiều yếu tố để cho ra được một mức tiền cụ thể mà các chủ sở hữu bất động sản phải trả để được kéo dài thời gian thuê. Nếu được phê duyệt, chủ sở hữu bất động sản tiếp tục chiếm hữu, sử dụng bất động sản của mình trong thời hạn được gia hạn mới là 99 năm. Tuy nhiên, thường thì mức tiền mà Cục Đất đai đưa ra là quá đắt đỏ với nhiều người bình thường nên thường cũng chỉ có các công ty mới chọn con đường này.

Cục Đất đai cũng có quyền từ chối cho tăng thời gian thuê nếu, ví dụ, họ thấy việc tăng thời gian cho thuê là không phù hợp với quy hoạch đất đai hoặc việc sử dụng hiện tại mảnh đất đó là không tối ưu.

Lựa chọn thứ hai là chủ sở hữu bất động sản trên mảnh đất thuê (cùng với những chủ sở hữu khác trong cùng chung cư, mảnh đất) bán chung cư của mình cho chủ đầu tư thứ ba. Với lựa chọn này, các chủ sở hữu hiện tại đẩy gánh nặng xin gia hạn hợp đồng thuê với nhà nước sang cho chủ đầu tư thứ ba, là những người có khả năng chi trả hơn. Tất nhiên khi thực hiện lựa chọn này thì chủ sở hữu căn hộ hiện tại sẽ không còn quyền được ở lại căn hộ của mình nữa mà nó thuộc về chủ đầu tư mới. Đổi lại, chủ sở hữu căn hộ hiện tại thu được một số tiền từ chủ đầu tư mới, về danh nghĩa là bồi thường cho căn hộ của mình trên mảnh đất đó, so với việc không làm gì và để cho hợp đồng thuê đất hết hạn, phải trả lại mảnh đất đó cho nhà nước và ra đi tay trắng.   

Cả hai lựa chọn trên phải được tất cả chủ sở hữu khác cùng thực hiện (bán tập thể), và không thể tiến hành trên cơ sở từng cá nhân chủ sở hữu.

Như vậy, có thể thấy ở Singapore, trước hết, cái gọi là thời hạn sử dụng căn hộ chung cư thực ra chỉ là thời hạn thuê đất (phần lớn từ nhà nước). Khi hết hạn thuê đất thì chủ sở hữu căn hộ chung cư phải ra đi mà không được đền bù gì. Tuy nhiên, cần lưu ý, không phải mảnh đất nào cũng là của nhà nước, cũng là đất thuê, nên các mảnh đất thuộc sở hữu tư nhân này sẽ không có thời hạn thuê, và, do đó, về mặt kỹ thuật, cũng không có thời hạn sử dụng căn hộ, công trình xây dựng trên đó.

Tiếp đó, ở Singapore cũng không có khái niệm thời hạn sử dụng căn hộ, từ 50 đến 70 năm như đang đề xuất ở Việt Nam. Nếu là đất đi thuê của nhà nước, và nếu chung cư xây dựng trên đó trở nên quá cũ kỹ, không hợp thời (chứ hiếm khi xảy ra tình trạng mất an toàn không thể ở được như ở Việt Nam, do chất lượng xây dựng và công tác bảo trì tốt) thì các chủ sở hữu chung cư đó có thể lựa chọn cùng bán tập thể căn hộ của mình cho một bên thứ ba, để họ làm thủ tục xin gia hạn hợp đồng thuê mảnh đất và tiến hành xây mới (hoặc sửa chữa).

Liên hệ với đề xuất của Bộ Xây dựng. Có lẽ mục đích của đề xuất này chủ yếu nhằm xử lý các chung cư cũ, mất an toàn. Nếu chỉ có vậy thì thay vì áp đặt thời hạn sử dụng chung cư 50-70 năm (ở Việt Nam thậm chí chỉ sau một hai chục năm thì nhiều chung cư đã xuống cấp lắm rồi), chỉ cần hoàn thiện, bổ sung thêm vào luật các quy định về hoàn trả đất đai có công trình xây dựng trên đó về cho nhà nước khi hết hạn hợp đồng giao/cho thuê đất (cũng từ 50 đến 70 năm) mà nhà nước không phải bồi thường cho chủ sở hữu các công trình xây dựng trên đất đó. Người mua chung cư xây trên các mảnh đất này cần (được) biết về tính chất thuê này để tính toán và quyết định có nên mua hay không, với giá bao nhiêu.

Đối với các mảnh đất giao/cho thuê không thời hạn, hoặc thuộc quyền sử dụng của tư nhân, quy định về thời hạn sử dụng chung cư trên càng bất cập, càng không nên được áp dụng. Giả sử các chung cư này của Việt Nam cũng giống như các tòa nhà xây dựng ở nước ngoài, tuy đã ra đời cả trăm năm trước nhưng vẫn có chất lượng tốt thì vẫn cứ phải bị (lạm dụng) xếp vào diện hết hạn sử dụng, và do đó phải bị thu hồi, phá dỡ (và người chủ không được đền bù gì) hay sao? 

Nếu lo lắng về sự an toàn của chung cư thì vấn đề này không nhất thiết liên quan đến quy định thời hạn sử dụng hay thời hạn thuê đất, mà phải dựa vào các quy định tiêu chuẩn an toàn trong ngành để có quyết định phù hợp, gồm thu hồi, giải tỏa, tháo dỡ chung cư. Kèm theo đó là các quy định cụ thể về đền bù thỏa đáng cho chủ sở hữu căn hộ chung cư nếu không có mắc mớ gì về thời hạn thuê đất (hoặc đền bù theo thời gian còn lại trong hợp đồng thuê đất nếu là đất thuê của nhà nước).

----

(1) https://thanhnien.vn/ap-nien-han-su-dung-can-ho-chung-cu-post1460823.html?io_utm_social=fanpage

Friday 27 May 2022

Thời hạn sở hữu không phải là lời giải cho bài toán… chung cư cũ (Bài đăng trên KTSG, 27/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/thoi-han-so-huu-khong-phai-la-loi-giai-cho-bai-toan-chung-cu-cu/

Bộ Xây dựng đang đề xuất trong đề cương Luật Nhà ở (sửa đổi) việc cấp sổ hồng cho căn hộ chung cư sẽ có thời hạn từ 50-70 năm.

Theo bộ này, đề xuất trên dựa trên một số căn cứ pháp lý. Thứ nhất, thời hạn sử dụng công trình được xác định theo hồ sơ thiết kế hoặc theo thời hạn sử dụng thực tế. Thứ hai, theo quy định của pháp luật về dân sự thì quyền sở hữu tài sản chấm dứt khi tài sản bị tiêu hủy. Thứ ba, thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức thực hiện dự án không quá 50-70 năm. Thứ tư, trường hợp xây dựng nhà chung cư để bán, cho thuê, thuê mua, thời hạn giao đất cho chủ đầu tư xác định theo thời hạn dự án, người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài. Như vậy, về quyền sử dụng đất thì sử dụng lâu dài, nhưng đối với tài sản trên đất là công trình xây dựng, nhà ở lại có thời hạn sử dụng.

Ngoài ra, tuy không phải là căn cứ pháp lý nhưng Bộ Xây dựng vạch ra thực tế rằng, trong quá trình thực hiện chính sách cải tạo chung cư cũ xây dựng từ trước năm 1994, công tác thu hồi, di dời, phá dỡ thời gian qua rất khó khăn. Thực tế này cho thấy cần có quy định phù hợp, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước thực hiện thu hồi, phá dỡ, xây dựng lại chung cư cũ, hết thời hạn sử dụng (1).

Như vậy, có thể nói đề xuất trên chủ yếu nhằm giải quyết việc thu hồi, di dời, phá dỡ chung cư (cũ). Ở đây xin không bàn đến tính hợp pháp, hợp lý, thỏa đáng của việc thu hồi, di dời, phá dỡ chung cư (cũ), dù trong nhiều trường hợp sẽ có chuyện lùm xùm, lợi ích nhóm, tương tự kiểu nhà nước thu hồi đất của dân với giá rẻ để giao cho nhà đầu tư phát triển bất động sản rồi bán lại cũng cho dân với giá gấp hàng trăm lần.

Trở lại với các căn cứ pháp lý của đề xuất trên. Thứ nhất, thời hạn sử dụng công trình, dù buộc phải có, cũng không liên quan gì đến quyền sở hữu căn hộ, trừ khi trước khi xây dựng và bán căn hộ cho người ở/sở hữu, có quy định rõ ràng rằng quyền sở hữu căn hộ sẽ chấm dứt khi công trình (căn hộ) hết thời hạn sử dụng.

Lưu ý thêm, công trình có thể có thời hạn sử dụng, nhưng cũng có thể được (phép) gia hạn sử dụng (chẳng hạn qua tu sửa, nâng cấp), nên không thể dựa vào thời hạn sử dụng công trình để đưa ra thời hạn sở hữu căn hộ (tất nhiên cũng ngoại trừ trường hợp có quy định rõ trước khi mở bán căn hộ rằng công trình này sẽ không được/không có khả năng tu sửa, nâng cấp khi hết hạn sử dụng).

Và cũng (sẽ) có nhiều trường hợp chung cư hết hạn sử dụng nhưng được chủ đầu tư khác mua lại, phá dỡ, xây dựng mới và bán ra thị trường. Nên không thể vận dụng thời hạn sử dụng chung cư để tước đoạt quyền sở hữu của chủ sở hữu hiện tại mà không phải làm cái gì để đảm bảo quyền lợi cho họ (trừ khi có quy định trước trong hợp đồng mua bán về chuyện này).

Thứ hai, tuy theo luật thì quyền sở hữu tài sản chấm dứt khi tài sản bị tiêu hủy, nhưng vấn đề ở đây là tại sao tài sản lại “bị tiêu hủy”? Nếu bị tiêu hủy một cách bất hợp pháp thì người sở hữu được (quyền) đòi bồi thường từ kẻ tiêu hủy bất hợp pháp. Nếu cho rằng chung cư đã cũ nên “bị tiêu hủy” là hợp pháp, theo, ví dụ, quy định pháp lý về thời hạn sử dụng công trình nêu trên thì việc này vẫn không nhất thiết là... hợp pháp, bởi rất có thể việc tiêu hủy này đã không đếm xỉa gì đến các thỏa thuận khác giữa chủ sở hữu căn hộ và chủ đầu tư/phát triển công trình và/hoặc nhà nước (người tiến hành cưỡng chế tiêu hủy, thu hồi công trình), chẳng hạn chủ sở hữu sẽ được đền bù một diện tích tương đương, một số tiền nhất định để di chuyển chỗ ở...

Nói cách khác, trong căn cứ pháp lý thứ nhất và thứ hai nêu trên, thời hạn sử dụng chỉ là một vế, một điều kiện cần chứ không phải cũng là cả điều kiện đủ để mà “vô tư” thu hồi, “tiêu hủy” chung cư cũ (rồi chiếm đoạt, sang tên quyền sử dụng mảnh đất đó cho người khác).

Với căn cứ pháp lý thứ ba về thời hạn giao/cho thuê đất đối với tổ chức thực hiện dự án không quá 50-70 năm, căn cứ này, về lý, chỉ có thể được phép vận dụng đối với các chung cư mà mặt bằng được giao/cho thuê từ nhà nước, và chủ đầu tư phải nêu rõ trong hợp đồng mua bán chung cư với người sở hữu. Đương nhiên là căn cứ này không thể được vận dụng vào trong những trường hợp chung cư được xây dựng từ nguồn đất mà chủ đầu tư đã có quyền sử dụng đất không qua mua/thuê trực tiếp từ nhà nước (ví dụ, thông qua mua lại từ chủ sở hữu khác trên thị trường). 

Về căn cứ thứ tư, nó cũng chỉ đúng với trường hợp chủ đầu tư được giao/thuê đất (trực tiếp) từ nhà nước có thời hạn, kèm theo những điều khoản trong hợp đồng mua bán căn hộ nêu rõ khi chung cư hết hạn sử dụng thì nó sẽ “bị tiêu hủy” ra sao, chủ sở hữu sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ gì khi đó...

Về thực tế khó khăn trong giải quyết chung cư cũ, đây là điều đang tồn tại nhưng thực ra lại không liên quan gì đến thời hạn sử dụng chung cư. Vấn đề là ở chính sách đền bù, di dời cho người dân đang sống trong các chung cư này chưa hợp lý, chưa đạt được đồng thuận tối đa trong cộng đồng dân cư sinh sống ở đó (tất nhiên là từ góc nhìn của người dân).

Cũng trên thực tế sẽ có nhiều chung cư vẫn còn... trẻ, nhưng Nhà nước buộc phải thu hồi, tháo dỡ vì một lý do hợp lý nào đó, chẳng hạn đáp ứng quy hoạch vùng/khu vực. Lúc này, rõ ràng là quy định về thời hạn sử dụng chung cư là vô tác dụng. Để thu hồi thì Nhà nước có thể vận dụng các căn cứ pháp luật khác nào đó nhưng mấu chốt vẫn phải là giải quyết quyền lợi của người sở hữu hợp pháp trong chung cư đó, cũng giống như công tác đền bù, giải phóng mặt bằng cho người dân khi mở đường.     

Tóm lại, với lý do an toàn thì Nhà nước có thể/nên xem xét, áp đặt thời hạn sử dụng chung cư nói chung. Khi chung cư hết hạn sử dụng (và không thể cải tạo được) thì Nhà nước có đủ cơ sở pháp lý để buộc “tiêu hủy” chúng. Tuy nhiên, thời hạn sử dụng chung cư không nhất thiết đồng nghĩa với thời hạn quyền sở hữu chung cư, cũng như (lý do của) việc tiêu hủy chung cư cũ không nhất thiết là (lý do của) việc tước đoạt quyền sở hữu chung cư.

----

(1) https://thanhnien.vn/ap-nien-han-su-dung-can-ho-chung-cu-post1460823.html?io_utm_social=fanpage

Tuesday 24 May 2022

Ổn định thị trường: ổn định cái gì và như thế nào? (Bài đăng trên KTSG, 24/5/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/on-dinh-thi-truong-on-dinh-cai-gi-va-nhu-the-nao/

Lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) mới đây đã gửi thông điệp qua giới truyền thông về các giải pháp nhằm ổn định thị trường chứng khoán trong nước (1).

UBCK có kỳ vọng lớn rằng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ hồi phục và tăng trưởng trở lại trong năm 2022. Nhưng trong bối cảnh thị trường có thể còn có sự biến động mạnh, cơ quan quản lý đang đặc biệt ưu tiên các giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ thị trường ổn định trở lại, trấn an tâm lý nhà đầu tư.

Cũng theo ủy ban này, “Chúng tôi đang dõi sát diễn biến tình hình kinh tế - chính trị, động thái chính sách của các nước trên thế giới, đánh giá tác động, ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam để kịp thời có các giải pháp phù hợp nhằm ổn định thị trường chứng khoán trong nước. Đồng thời, tích cực thông tin tuyên truyền nhằm ổn định tâm lý của nhà đầu tư, tăng cường lòng tin của các chủ thể tham gia thị trường, công chúng đầu tư trong và ngoài nước vào quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ Tài chính trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường chứng khoán minh bạch, công khai, an toàn, hiệu quả".

Hai đoạn trích thông điệp nói trên đều có hai chữ “ổn định” và chúng đều gắn liền với hai chữ khác là “thị trường” nên đương nhiên việc ổn định ở đây có thể hiểu là ổn định thị trường chứng khoán. 

Nhưng vậy thì ổn định thị trường chứng khoán cụ thể là ổn định cái gi? Phải chăng UBCK muốn ổn định chỉ số chứng khoán? Hay họ muốn ổn định tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán để nhà đầu tư bớt sợ hãi mà bán tháo cổ phiếu và/hoặc rời bỏ thị trường? Hay họ muốn cả hai điều này?

Nếu câu trả lời là UBCK muốn ổn định chỉ số chứng khoán thì câu hỏi tiếp theo là họ muốn chỉ số chứng khoán ngừng xu hướng lao dốc, chững lại ở điểm hiện tại (và, do đó, đạt được sự “ổn định”), hay họ muốn chỉ số này không chỉ ngừng lao dốc mà còn đảo chiều tăng lên (mức đỉnh cũ đạt được gần đây)?

Nếu UBCK trả lời rằng họ muốn chỉ số chứng khoán ngừng giảm và chững lại thì họ phải có cách nào đó, làm cái gì đó để ít nhất là một số cổ phiếu, nhóm cổ phiếu ngừng giảm giá. Đây là tham vọng quá tầm của UBCK, dù họ có thực hiện các giải pháp nêu ở trên hoặc bất cứ giải pháp nào có thể nghĩ ra, kể cả giải pháp mang ngân sách nhà nước ra để đỡ giá chứng khoán (xin được nói thêm về điều này ở đoạn cuối của bài).

Chẳng hạn, dù ủy ban có thành công trong việc ổn định tâm lý và lòng tin của nhà đầu tư, nhưng nếu triển vọng lạm phát gia tăng, lãi suất tăng, tỷ giá giảm, khẩu vị của nhà đầu tư (nội, ngoại) thay đổi vì một số nhóm cổ phiếu đã/sẽ trở nên không còn hấp dẫn nữa (tương tự điều xảy ra với nhóm cổ phiếu công nghệ ở Mỹ)... thì sẽ không thể tránh được có nhiều cổ phiếu bị áp lực tiếp tục bán tháo.

Nói cách khác, thành công của việc ổn định giá chứng khoán phụ thuộc vào không chỉ ý chí quyết tâm của nhà quản lý. Nỗ lực này của họ chắc chắn sẽ chỉ thành công khi kiểm soát được lạm phát, lãi suất, tỷ giá không biến động đáng kể và thị trường chứng khoán trong nước hoàn toàn không liên thông với thị trường chứng khoán nước ngoài. Dễ thấy là tất cả các điều kiện cần này đều đang bị vi phạm và/hoặc ở mức độ rủi ro lớn. Ví dụ, lạm phát của Việt Nam không chỉ phụ thuộc các điều kiện trong nước mà còn các điều kiện không kiểm soát được ở nước ngoài.   

Nếu UBCK lại còn muốn chỉ số chứng khoán đảo chiều tăng lên thì đồng nghĩa với việc các điều kiện cần nêu trên càng phải ít rủi ro hơn nữa và, do đó, sự “ổn định” càng chỉ là ý chí chủ quan của nhà quản lý.

Nếu UBCK muốn ổn định thị trường ở góc độ ổn định tâm lý nhà đầu tư, cụ thể bằng biện pháp thông tin tuyên truyền, đây không phải là biện pháp tồi. Điều đáng nói là ủy ban tuyên truyền thế nào để nhà đầu tư đỡ sợ hãi hơn?

Sự tuyên truyền này không thể trái ngược với thực tế, chỉ toàn màu hồng mà không hề có gam màu tối. Xin hãy rút bài học kinh nghiệm để tránh lặp lại hành động tuyên truyền theo kiểu trước đây của một vị chức sắc, khi thị trường chứng khoán Việt Nam cũng lao dốc mạnh, rằng “nếu có tiền thì tôi cũng mua vào chứng khoán”.

Những căn cứ màu hồng cho công tác tuyên truyền, ví dụ như quyết tâm của các cơ quan hữu trách trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường chứng khoán lành mạnh... chưa thể là căn cứ bởi quyết tâm này lúc nào cũng vẫn ở đó, vẫn được tuyên bố dày đặc như thường lệ, và, quan trọng là, kết quả của nó (sự quyết tâm) vẫn (sẽ) chỉ là ở thời tương lai.

Minh họa cho khả năng can thiệp hạn hẹp của nhà quản lý vào xu hướng lao dốc của thị trường là việc UBCK trong thông điệp về quyết tâm ổn định thị trường nêu trên cũng chỉ có thể nêu rất mơ hồ rằng: “Chúng tôi đang dõi sát diễn biến tình hình kinh tế - chính trị, động thái chính sách của các nước trên thế giới, đánh giá tác động, ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam để kịp thời có các giải pháp phù hợp nhằm ổn định thị trường chứng khoán trong nước”.

Vấn đề đặt ra là thị trường đã trên đà lao dốc từ đầu tháng 4 rồi đó mà sao họ không “kịp thời” có các giải pháp phù hợp nào đi, sao vẫn còn mãi “dõi sát”...? Liệu họ có kịp thời cho ra đời cái giải pháp nào đáng gọi là giải pháp trước khi thị trường tự điều chỉnh, ổn định trở lại (ở mức thấp) không?  

Để bổ trợ cho lập luận về khả năng can thiệp hạn hẹp của nhà quản lý, mà tốt nhất là không can thiệp gì, xin được nêu về thái độ khá là khách quan và thậm chí là... “dửng dưng” của Bộ trưởng Ngân khố Mỹ Janet Yellen về các biến động mạnh hiện nay trên thị trường chứng khoán. Theo đó, “bà và các quan chức tài chính hàng đầu không ngạc nhiên khi chứng kiến thị trường biến động mạnh đến hết mùa hè do đại dịch và xung đột Nga – Ukraine có thể gia tăng sức ép lên kinh tế toàn cầu” (2). Ở ý này cũng có mấy yếu tố khách quan được nhắc đến là đại dịch và xung đột Nga – Ukraine như ngầm minh họa cho sự “bất lực” của chính quyền Mỹ đối với chính thị trường của họ.

Không muốn nói là đến nhà chức trách Mỹ còn không muốn, không thể can thiệp để thị trường của họ thôi biến động mạnh thì, trừ khi có phép lạ, xin đừng tuyên bố duy ý chí về thị trường chứng khoán Việt Nam. Tất nhiên, lại trừ khi, đó là việc phải làm (cho có).         

--------

(1) https://cafef.vn/thong-diep-nong-cua-lanh-dao-uy-ban-chung-khoan-nha-nuoc-giua-luc-thi-truong-chung-khoan-giong-bao-20220513082543109.chn

(2) https://cafef.vn/vi-sao-co-phieu-cong-nghe-rot-tham-20220513135423648.chn

Monday 23 May 2022

Có tiền, phải tiêu, nhưng tránh tiêu bằng mọi giá (Bài đăng trên KTSG, 23/5/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/co-tien-phai-tieu-nhung-tranh-tieu-bang-moi-gia/

Việc phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công đang diễn ra rất chậm. Đến nay vẫn còn đến 11 bộ, ngành và 3 địa phương chưa phân bổ vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân 4 tháng đầu năm đạt 18,48% tương đương cùng kỳ năm 2021, trong đó 17 bộ, cơ quan trung ương chưa giải ngân.

Ngoài phân bổ, giải ngân chậm vốn đầu tư công, căn bệnh, nói theo cách nói của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, “có tiền mà không tiêu được” (1) còn được thể hiện ở sự chậm chễ tương tự trong việc thực hiện Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết 43 của Quốc hội, trong đó có gói chính sách tiền tệ, tài khóa 347 ngàn tỷ đồng, cũng như ba Chương trình mục tiêu quốc gia...

Trước khi chuyển sang phần chính của bài, cần lưu ý mệnh đề “có tiền mà không tiêu được” thực ra không hoàn toàn đúng, bởi tiền ở đây có là có một phần không nhỏ từ tiền đi vay (tức của người khác). Nên cái sự “tiêu không được” nhiều khi lại là điều tốt, nhất là so với khi tiêu vào những “lỗ đen”.

Theo ông Huệ thì mấu chốt (của việc “tiêu tiền” chậm chễ này) là “do khâu chuẩn bị đầu tư còn yếu, không kỹ lưỡng, chưa đáp ứng yêu cầu”.

V nguyên nhân này, có mấy điều cần nói. Nếu các bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị (kế hoạch) đầu tư và đã trình các cấp mà không được duyệt thông qua thì nguyên nhân đương nhiên là nằm ở sự yếu kém về năng lực của các cơ quan chức năng cấp dưới ở các bộ, ngành, địa phương.

Trong tình huống này, một mặt cần xác định được cụ thể nơi yếu kém, phê bình, có biện pháp xử lý người đứng đầu các cơ quan chức năng về năng lực bản thân họ và khả năng tổ chức xây dựng bộ máy lập kế hoạch đầu tư có đủ khả năng của họ.

Nói là phải xử lý người đứng đầu vậy thôi chứ hầu như chẳng có khi nào có “người đứng đầu” nào bị “điểm danh” và chịu chế tài xử lý, kỷ luật gì cả. Ngay trong các văn bản pháp luật liên quan, trong phần quy định về trách nhiệm của các chủ thể liên quan, chỉ thấy có quy định trách nhiệm dưới dạng cơ quan này phải làm việc này, việc kia, mà không bao giờ thấy có quy định chế tài cụ thể nếu các quy định về trách nhiệm bị vi phạm.   

Mặt khác, cần hoan nghênh động thái dứt khoát không phê duyệt các kế hoạch “dưới chuẩn” của các cấp, người đứng đầu có thẩm quyền phê duyệt. Sự chậm chễ phân bổ, giải ngân đầu tư công trong những trường hợp này thậm chí còn là điểm tích cực nếu so với việc cố gắng thúc đẩy phân bổ, giải ngân bằng mọi giá để rồi dẫn đến lãng phí, thất thoát lớn. Cũng không thể loại trừ khả năng có chủ ý kéo dài việc chuẩn bị (kế hoạch) đầu tư nhằm mục đích làm các dự án, kế hoạch đầu tư chất lượng xấu, có động cơ trục lợi lồng ghép trong đó được thông qua vào phút chót trong sự vội vàng hoàn thành kế hoạch mà bất chấp, bỏ qua các bước tuân thủ trong lập và triển khai kế hoach đầu tư công.

Sự việc sẽ khác đi nếu các bộ, ngành, địa phương vì một lý do nào đó mà vô trách nhiệm, cố tình không lập kế hoạch đầu tư, không thúc ép lập kế hoạch và triển khai đầu tư, hoặc họ chỉ làm cho có, để đối phó. Thực ra, cũng về nguyên tắc, sự thờ ơ với đầu tư công kiểu này là hơi... lạ, bởi, nói không phải quá lời, đầu tư công trong nhiều trường hợp được coi là “chùm khế ngọt” và, bởi vậy, các chủ thể liên đới thông thường sẽ phải tích cực giành giật và thúc đẩy đầu tư công để... có tiền.

Có thể nghĩ đến một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Chẳng hạn như tâm lý nhiệm kỳ làm cho người có chức trách không có động cơ triển khai và thúc đẩy đầu tư công. Hoặc họ phải đối mặt với những trở ngại chủ quan và khách quan trong việc này, dẫn đến tâm lý thà tránh còn hơn là “đâm đầu vào” để rồi lãnh trọn trách nhiệm khi mọi việc diễn ra không theo đúng ý muốn, kế hoạch.

Trong những trường hợp này thì vấn đề năng lực có thể tạm gác qua một bên và biện pháp xử lý cũng không thể đơn giản chỉ là thay thế người đứng đầu bằng những người có năng lực, trách nhiệm hơn. Chẳng hạn, Chính phủ cần xem lại như chính sách bổ nhiệm, hoặc sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư công (trong một lĩnh vực cụ thể) để có thể khai thông đầu tư công.

Thực tế thì các giải pháp này không phải là mới, và Chính phủ năm nào cũng bày tỏ quyết tâm, quyết liệt tháo gỡ các khó khăn để thúc đẩy giải ngân, đối phó tình trạng giải ngân năm sau... chậm như năm trước (ví dụ như trong quý 1 năm nay). Nhưng rồi sự việc vẫn không mấy tiến triển.  

Từ góc độ của Chính phủ, Phó thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, lý do việc triển khai chậm là vì “quá nhiều việc” (2). Tuy nhiên, ông cũng khẳng định trong gói 347.000 tỉ đồng thì tới nay cơ bản đã triển khai hết, như gói 38.400 tỉ đồng tín dụng xã hội hay 40.000 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất với doanh nghiệp, hợp tác xã…chỉ còn lại danh mục dự án đầu tư. Ông Khái thêm rằng: “Trong thời gian hơn 3 tháng làm được những chính sách này có thể nói là các bộ, ngành đã rất cố gắng mới được. Còn chậm ở đây là chậm ở các dự án cơ sở hạ tầng, trong đó có cơ sở giao thông”. Ông cũng hứa “sẽ chỉ đạo các bộ, ngành làm sớm việc này.

Ở đây có sự nhầm lẫn. Chẳng hạn, về gói 40 ngàn tỷ đồng hỗ trợ lãi suất, hiện tại thì Ngân hàng  Nhà nước vẫn “đang gấp rút xây dựng các văn bản hướng dẫn để cụ thể hóa các chủ trương chung” (3). Không rõ có phải vì “quá nhiều việc” hay không mà một bộ phận nhiệm vụ đầu tư công đã bị... bỏ quên, nhầm lẫn nên đầu tư công vì thế mà mãi cứ ậm ạch?

Nếu cứ từ nguyên nhân suy ra giải pháp thì e rằng giải pháp trong trường hợp này khó thực hiện. Chẳng hạn, không lẽ lại kiến nghị Quốc hội trước khi muốn ra nghị quyết gì, trao nhiệm vụ gì cho Chính phủ thì phải hỏi xem ý Chính phủ thế nào, có “kham” nổi hay không? Dẫu sao, Quốc hội cũng cần rút kinh nghiệm để không kỳ vọng quá nhiều vào Chính phủ, ít nhất trong lĩnh vực đầu tư công, trong bối cảnh năm nào cũng thấy lặp lại (nhiều lần) điệp khúc giải ngân chậm, bất chấp các lời hứa và quyết tâm của Chính phủ.

ờng như Quốc hội cũng đã và đang ít nhiều tư duy theo hướng trên. Với gói 347 ngàn tỷ đồng, ông Huệ nhấn mạnh: “Theo tinh thần nghị quyết của Quốc hội, đến 2023 nếu không giải ngân được thì trình Quốc hội chấm dứt chứ không có chuyện đưa vào gói sau đó chuyển nguồn để làm lại. Nó không đúng tính chất gói kích thích kinh tế” (2).

Giải pháp chấm dứt này là hợp lý, không chỉ từ góc độ tránh thúc ép giải ngân bằng mọi giá như đề cập ở trên. Xét trên khía cạnh cấp thiết và nguồn lực thực thi gói này, thì gói tung ra vào thời điểm năm 2023 và quy mô 347 ngàn tỷ đồng trong bối cảnh ngân sách ngày càng căng thẳng sẽ là lỗi nhịp và quá rủi ro cho nền kinh tế lúc đó.

Tóm lại, căn bệnh kinh niên giải ngân chậm cho thấy năng lực hữu hạn của các nhiệm kỳ chính phủ là điều rất khó có thể thay đổi, vì nhiều nguyên nhân. Xét thêm thực tế về nguồn lực và tính hiệu quả hữu hạn của đầu tư công thì đầu tư công chỉ nên được triển khai ở quy mô mà năng lực ngân sách và khả năng đảm đương của Chính phủ cho phép. Thúc giục tăng mạnh quy mô và tốc độ giải ngân đầu tư công vượt quá những năng lực này thường sẽ chỉ mang đến sự thất vọng/bại và lãng phí ngân sách.         

------

(1)    https://thanhnien.vn/chu-tich-quoc-hoi-chung-ta-co-tien-ma-khong-tieu-duoc-thi-lang-phi-rat-lon-post1458599.html?io_utm_social=fanpage

(2)    https://thanhnien.vn/sot-ruot-vi-goi-ho-tro-kinh-te-347-000-ti-dong-giai-ngan-cham-post1457594.html

https://thoibaotaichinhvietnam.vn/goi-ho-tro-2-lai-suat-chinh-sach-dung-dan-tham-thau-vao-nen-kinh-te-104416.html

Wednesday 18 May 2022

Bài toán khó tỷ giá (Bài đăng trên KTSG, 18/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/bai-toan-kho-ty-gia/

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tăng lãi suất cơ bản thêm 0,5 điểm % đã làm tăng thêm sức hấp dẫn của đô la Mỹ. Điều này cùng với áp lực lạm phát tăng cao trên toàn cầu từ các đợt cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương trên thế giới trước đó và sự hiện diện của các cú sốc cung và tắc nghẽn logistics đã buộc nhiều ngân hàng trung ương phải siết lại chính sách tiền tệ của mình, vừa là để giảm áp lực lạm phát, đồng thời cũng gián tiếp củng cố tỷ giá bản tệ.

Tuy nhiên, có một số nước lại “lội ngược dòng” trào lưu này, tiếp tục duy trì, thậm chí là hạ lãi suất cơ bản, chủ yếu bởi quan ngại về sự phục hồi kinh tế trong nước có thể bị ảnh hưởng tiêu cực khi tỷ giá bản tệ so với đô la Mỹ mạnh lên. Điều này làm cho tỷ giá bản tệ của một số nước trong khu vực như Nhật, Malaysia, Trung Quốc, suy yếu đáng kể so với cuối năm trước (lần lượt là 13,49%, 4,72% và 4,61%; xem bảng), trong khi bản tệ của một số nước khác trong khu vực chỉ mất giá ở mức độ khiêm tốn hơn nhiều, mà điển hình là tiền đồng (VND chỉ giảm 1,02% như trong bảng).

Mức độ mất giá của một số bản tệ ở châu Á

 

31/12/2021

5/8/2022

+/-

CNY

6,37257

6,66653

4,61%

SGD

1,35207

1,38543

2,47%

IDR

14.272,5

14.482,5

1,47%

MYR

4,17352

4,37055

4,72%

JPY

115,068

130,59

13,49%

VND

22.766,4

22.999

1,02%

Nguồn: xe.com

Vì Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất vào Việt Nam nên sự mất giá mạnh của bản tệ của họ (CNY, 4,61%) so với tiền đồng (1,02%) rõ ràng đã và đang tạo ra lợi thế không nhỏ cho hàng hóa và dịch vụ của họ không chỉ trên thị trường trong nước của Việt Nam mà còn tại các thị trường quốc tế mà Việt Nam đang xuất khẩu sang, tất nhiên bao gồm cả thị trường Trung Quốc.    

Trước thực tế này, và như thường lệ, một số chuyên gia khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nhập khẩu sang/từ các nước ngoài Trung Quốc để tránh bất lợi trong sức cạnh tranh đến từ tỷ giá.

Dĩ nhiên là nói dễ hơn làm. Việc đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu đã được xúc tiến liên tục từ nhiều năm nay, như được thể hiện một phần qua việc ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương của Việt Nam với các nước và khu vực kinh tế trên thế giới, nhưng kết quả thì vẫn là sự... khẳng định vị trí và sức cạnh tranh thương mại khó có thể lung lay của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Ngoài ra, cần lưu ý rằng Trung Quốc cũng chính là một thành viên của RCEP, một hiệp định thương mại đa phương mới được ký kết gần đây mà Việt Nam cũng là một thành viên. Bởi vậy, công cụ đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam nhằm hóa giải sức cạnh tranh tăng lên từ Trung Quốc trong bối cảnh tỷ giá CNY suy yếu mạnh hơn so với tỷ giá VND thực sự đã trở nên không còn mấy ý nghĩa.

Trong bối cảnh này, một giải pháp hiển nhiên khác cần và có thể nghĩ đến là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để VND suy yếu mạnh tương đương hoặc hơn so với mức suy yếu của CNY, qua đó duy trì được cán cân sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam so với Trung Quốc.

Cái khó của giải pháp này là nó sẽ làm tăng áp lực lạm phát tại Việt Nam, vốn đang trên đà gia tăng mấy tháng gần đây.

Từ góc độ của NHNN, với sứ mệnh ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát vẫn có thể là một ưu tiên tại thời điểm hiện tại, bởi tăng trưởng kinh tế từ đầu năm đến nay vẫn đang tiếp tục rõ nét, và bởi nền kinh tế thực không có mấy dấu hiệu thiếu tiền nếu căn cứ vào sự sốt nóng của thị trường bất động sản (và thị trường chứng khoán, cho đến khi có các vụ bắt bớ) – là biểu hiện của sự dư thừa cung tiền và khả năng hấp thụ tín dụng có hạn của nền kinh tế thực.

Nhưng từ góc độ của một số nhà làm chính sách, tăng trưởng kinh tế từ đầu năm tuy đã khởi sắc nhưng chưa đủ để đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng đặt ra cho năm nay (6-7%), đặc biệt là khi NHNN phải tăng lãi suất tiền đồng để chặn lạm phát. Nên đối với những nhà làm chính sách này thì duy trì các biện pháp kích thích tăng trưởng, trong đó có chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng, vẫn phải là ưu tiên chính sách. Nói cách khác, họ không chấp nhận, không muốn đánh đổi mục tiêu tăng trưởng lấy mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, ít nhất cho đến khi đà tăng của GDP trong quý 2 và 3 đã được củng cố trong khi lạm phát bằng cách nào đó, chủ yếu là biện pháp hành chính, chưa xuất hiện trên các báo cáo chính thức ở mức độ “nguy hiểm”, có khả năng vượt xa mức mục tiêu 4% đặt ra.

Bởi các nhà làm chính sách theo hướng ưu tiên tăng trưởng kinh tế là số đông, và quan trọng hơn, có quyền chi phối định hướng chính sách của nền kinh tế nên rất có khả năng NHNN buộc phải duy trì một chính sách tiền tệ trung dung. Bản thân NHNN chắc cũng không muốn chứng kiến sự suy sụp của thị trường tài chính, bất động sản nếu chính sách tiền tệ được thắt chặt mạnh và nhanh kể cả khi lạm phát đã ngấp nghé ở mức cao.

Với khả năng trên, nếu đô la Mỹ tiếp tục mạnh lên và các đồng bản tệ khác tiếp tục suy yếu thì tiền đồng cũng sẽ chỉ được phá giá thêm ở mức độ rất khiêm tốn trong phần còn lại của năm nay so với đô la Mỹ.

Sunday 15 May 2022

Làm thế nào để ngăn chặn vi phạm công bố thông tin? (Bài đăng trên KTSG, 15/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/lam-the-nao-de-ngan-chan-vi-pham-cong-bo-thong-tin/

Ngày 6/5, Tập đoàn FLC đã gửi lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) và Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM tài liệu chứa các thông tin cần cải chính và công bố bổ sung theo quyết định xử phạt ngày 24/3.

Báo cáo của FLC bổ sung 51 nghị quyết Hội đồng quản trị (HĐQT) về giao dịch giữa FLC với các bên liên quan trong giai đoạn từ 24/3/2020 đến 13/5/2021. Đáng chú ý, đây là các thông tin phải công bố trong vòng 24 giờ theo Thông tư 96/2020 nhưng chỉ được FLC công bố ngày 6/5 khi bị yêu cầu theo quyết định xử phạt nói trên.

Vụ việc trên cho thấy FLC đã cố tình che giấu thông tin và họ đã có thể “thoát”, tức là không ai biết, kể cả cơ quan chức năng, nếu không bị vướng vào vụ việc lùm xùm vừa qua về thao túng chứng khoán dẫn đến bắt tạm giam ông Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch FLC và cùng với đó là cuộc điều tra FLC.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để ngăn ngừa và kịp thời phát hiện các vụ việc tương tự về che giấu, gian trá thông tin của doanh nghiệp, vốn sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của thị trường và quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư lương thiện.

Giải pháp trước tiên đương nhiên phải là nâng cao năng lực và trách nhiệm giám sát, kiểm tra và phát hiện sai phạm của cơ quan chức năng là UBCK. Nhưng trên thị trường chứng khoán có đến hàng ngàn doanh nghiệp phát hành, nên UBCK có thể nại lý do này để nói rằng họ sẽ không thể giám sát, thanh tra từng doanh nghiệp trong số hàng ngàn doanh nghiệp này để phát hiện ra sai phạm, và, do đó, vụ việc không công bố thông tin của FLC tuy “đáng tiếc” nhưng... bình thường.

Tuy lý do trên có phần hợp lý nhưng từ góc độ nhà quản lý, nó không thể là lý do, chí ít bởi thanh tra của UBCK đã có thể hoạt động tích cực và hiệu quả hơn để thanh tra và phát hiện sớm nhiều vụ việc tại nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có các biểu hiện bất thường. Sự tích cực và hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát của UBCK cũng sẽ là một yếu tố hữu hiệu góp phần giảm thiểu tâm lý làm liều, cố tình sai phạm của lãnh đạo doanh nghiệp.

Ngoài ra, giám sát, kiểm tra chỉ là một trong những công cụ chức năng mà UBCK có. Họ đã có thể làm cho các doanh nghiệp phải tự giác mà công bố thông tin nếu không muốn đánh đổi lấy những hậu quả pháp lý nghiêm trọng khi vi phạm quy định và bị phát giác.

Đáng tiếc là quy định pháp luật hiện tại có thể là quá nhẹ tay với những hành vi vi phạm kiểu này, và việc xử lý vi phạm cũng chỉ rộ lên trong thời gian gần đây chứ trước đó thì khá... yên tĩnh. Chẳng hạn, cũng FLC, cũng vi phạm cùng loại, họ chỉ bị phạt 100 triệu đồng hồi tháng 3. Rõ ràng là so với hàng loạt giao dịch giấu diếm với các bên liên đới ở quy mô lên đến hàng ngàn tỷ đồng mỗi giao dịch thì mức phạt/hậu quả pháp lý này là quá nhỏ nhoi so với cái lợi tiềm năng mà doanh nghiệp thu được từ sự gian dối này, nên không đủ sức răn đe doanh nghiệp làm bậy. Nói cách khác, các hành vi che giấu, gian dối thông tin cần phải được xử lý mạnh tay như hành vi thao túng thị trường và trần mức xử phạt cần được tăng mạnh hơn nữa, kể cả xử lý hình sự thì mới mong hạn chế và ngăn chặn phần nào các sai phạm kiểu này.

UBCK cũng đã có thể gián tiếp ngăn chặn các hành vi vi phạm công bố thông tin thông qua siết chặt trách nhiệm của các công ty kiểm toán. Về nguyên tắc, doanh nghiệp khó mà giấu/”chế biến” được các thông tin cần công bố nếu công ty kiểm toán làm việc chuyên nghiệp và có trách nhiệm cao. Tuy nhiên, ngay trong vụ việc vi phạm của FLC hồi tháng 3, FLC bị phạt 200 triệu đồng cho hành vi không trình bày khoản chênh lệch 70,13 tỉ đồng đánh giá tăng tài sản vào thu nhập khác, dẫn đến sai lệch số liệu trong báo cáo tài chính bán niên năm 2021 soát xét do FLC công bố nhưng công ty kiểm toán liên quan không thấy bị xử lý gì (1). Bởi vậy, UBCK nói riêng và Bộ Tài chính nói chung cần xây dựng và quy định các hình thức xử lý cụ thể với các công ty kiểm toán không thực hiện đúng và đầy đủ trách nhiệm kiểm toán doanh nghiệp của mình.

Sau cùng, UBCK đã có thể khắc phục hạn chế về năng lực giám sát và kiểm tra của mình đối với các doanh nghiệp niêm yết trên nhiều phương diện, gồm cả việc công bố thông tin, bằng việc khuyến khích, tăng cường “tai mắt nhân dân”, phát hiện và tố cáo các vi phạm của (lãnh đạo) doanh nghiệp, với các hình thức thưởng vật chất (thậm chí tỷ lệ với lợi ích mà doanh nghiệp sẽ thu được một cách phi pháp) và bảo vệ người tố giác thích hợp. Cơ chế khuyến khích tố giác này cần được đưa vào thành các quy định luật cụ thể.

-----

https://laodong.vn/kinh-te/hang-loat-doanh-nghiep-bi-xu-phat-nang-vi-vi-pham-cong-bo-thong-tin-1027891.ldo 

Thursday 12 May 2022

Ném chuột không để vỡ bình (Bài đăng trên KTSG số 18-2022 4/5/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-18-2022-ai-dang-nam-giu-trai-phieu-doanh-nghiep/

Việc lành mạnh hóa thị trường tài chính sau nhiều vụ lùm xùm xảy ra là một việc làm cần thiết và khẩn cấp. Tuy vậy, như là một phần hậu quả của công việc này, thị trường chứng khoán và bất động sản của Việt Nam dường như đã gánh chịu hậu quả không nhỏ, với giá nhiều cổ phiếu “nằm sàn” la liệt trong nhiều phiên, còn các doanh nghiệp bất động sản thì cũng lao đao, phải đối mặt với tương lai khá bất định bởi chủ trương siết chặt tác dụng ngân hàng vào ngành này. Chưa kể một số nạn nhân bất đắc dĩ của các vụ phạm luật như ở vụ Tân Hoàng Minh chẳng còn biết “bắc thang hỏi ai” ngoài căng băng rôn nơi cửa quan kêu cứu.

Có thể liên tưởng các động thái liên quan hiện nay của cơ quan chức năng trên thị trường tài chính của Việt Nam đến hành động “ném chuột”. Còn việc thị trường suy sụp, nhà đầu tư vô tội thì hoảng hốt và bất lực khi thấy tài sản của mình bốc hơi mà không biết kêu ai thì gợi đến hình ảnh chiếc bình có chuột đang lảo đảo chực rơi vỡ.

Cần làm gì và như thế nào để lũ chuột thì giảm thiểu, bị hốt còn cái bình thì vẫn an nhiên?

Về phía chính quyền, các cơ quan chức năng, câu hỏi cần trả lời trước khi tiến hành bất cứ hành động chế tài nào là hành động này có đúng luật không. Thiết nghĩ ở đây ta không cần phải bàn đến tầm quan trọng của việc tuân thủ luật pháp của ngay cơ quan chính quyền đối với việc giữ ổn định cái bình.

Từ góc độ tuân thủ luật pháp, một số hành động của cơ quan chức năng gần đây cho thấy câu trả lời cho câu hỏi trên (có đúng luật không) là... không, hoặc ít ra thì chưa hẳn. Chẳng hạn, đâu là cơ sở pháp lý cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định hủy bỏ 9 đợt phát hành trái phiếu của Tân Hoàng Minh? Theo ủy ban này, đó là “căn cứ vào hồ sơ, tài liệu và đề nghị của cơ quan có thẩm quyền về việc hủy bỏ các đợt phát hành trái phiếu do có hành vi công bố thông tin sai sự thật, che giấu thông tin trong hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ” (1). Nhưng việc “căn cứ” và cả cái sự “đề nghị” này cũng như cái sự tuân theo cái “đề nghị” đó để ra quyết định hủy bỏ phát hành có đúng luật không, căn cứ theo điểm nào, khoản nào, điều nào của luật nào?

Tiếp đó, trước khi ném chuột, tức thực hiện các hành động chế tài mà giả sử là đúng luật, nhà chức trách cần phải nhìn trước đến các hậu quả của hành động này để giảm thiểu khả năng đổ vỡ của cái bình. Họ cần thấy trước rằng sẽ có nạn nhân vô tội và một bầu không khí hoảng loạn bao trùm nếu không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra và đâu là sự thật. Họ cũng cần nhìn trước, chuẩn bị sẵn các giải pháp có thể để bảo vệ quyền lợi và/hoặc giảm thiểu thiệt hại cho các nạn nhân. 

Nhưng tiếc rằng, cũng lấy ngay ví dụ về vụ Tân Hoàng Minh, Ủy ban Chứng khoán lại đá quả bóng trách nhiệm sang Bộ Công an trước yêu cầu chính đáng về phương hướng giải quyết quyền lợi của các nhà đầu tư “lỡ mua” trái phiếu Tân Hoàng Minh, mặc dù chính ủy ban là nơi đưa ra quyết định hủy bỏ phát hành chứ không phải Bộ Công an. Diễn tiến này càng bôi đậm thêm dấu hỏi về sự tuân thủ pháp luật và nỗ lực minh bạch hóa, cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan chức năng.

Về phía doanh nghiệp, nếu không muốn mình thành những con chuột xấu xa thông thường, hoặc tệ hơn, chuột bị chọn ra để làm mẫu (thí điểm), trong mắt “giới ném chuột” thì tốt nhất hãy lấy mấy chữ “đạo đức kinh doanh” làm đầu. Dù vẫn có thể bị hàm oan trong một bầu không khí hừng hực đấu tố, quyết liệt truy tìm tội đồ, nhưng những doanh nghiệp kinh doanh lương thiện, đúng luật vẫn có nhiều khả năng thoát nạn, bình yên vô sự hơn hẳn các doanh nghiệp “có mùi”, bởi luật pháp ít nhiều vẫn là của chung, vẫn tồn tại chứ không luôn chỉ là của riêng của ai đó, mặc sức múa may.

Sự kịp thời phát hiện và cương quyết thực thi một cách đúng đắn các quy định pháp luật của các cơ quan chức năng xử lý các hành vi phạm pháp của các doanh nghiệp cũng là một biện pháp tự nhiên tiết chế sự sinh sôi nẩy nở của lũ chuột. Đây hiện vẫn là một lĩnh vực còn rất nhiều bất cập và đã được đề cập sơ bộ trong số báo trước.

Về phía nhà đầu tư, họ đa phần là nạn nhân, nhưng lẫn trong số họ cũng có không ít chuột. Không nói đến những con chuột bự trong các vụ lũng đoạn thị trường đến hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng, có không ít nhà đầu tư xấu xa cỡ chuột nhắt tiến hành các vụ gian lận chỉ từ vài trăm triệu đồng đang hòa lẫn vào đám đông nhà đầu tư, rất khó để cơ quan chức năng nhận biết và xử lý. Để làm được việc này thì cần xây dựng, củng cố và khuyến khích cơ chế tố cáo và xử lý các tố cáo hữu hiệu trên thị trường tài chính. Nhà đầu tư cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp chân chính cần cho thấy được quyền lợi sát sườn của mình hiện hữu trong cơ chế tố cáo và xử lý gian lận, phạm pháp trên thị trường tài chính này.

------

(1) https://plo.vn/nong-huy-bo-9-dot-chao-ban-trai-phieu-cua-tap-doan-tan-hoang-minh-post674390.html  

Monday 9 May 2022

Đấu giá quyền sử dụng biển số ô tô – chuyện cũ viết lại (Bài đăng trên KTSG, 10/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/dau-gia-quyen-su-dung-bien-so-o-to-chuyen-cu-viet-lai/

Nói là chuyện cũ viết lại bởi cách đây đúng 5 năm, hồi cuối tháng 4/2017, người viết đã đăng bài “Cần nhanh chóng thực hiện đấu giá biển số xe” trên Kinh tế Sài Gòn (1) viết về cùng đề tài, nhân chuyện tại thời điểm đó Bộ Công an đã họp với đại diện các bộ Tài chính, Tư pháp để lấy ý kiến, xây dựng dự thảo đề án đấu giá biển số xe.

Bài viết trên nhấn mạnh đấu giá biển số xe là việc cần thiết và cần làm ngay, dựa trên những lợi ích mà nó sẽ mang lại. Một mặt, biển số xe, nhất là những biển số thuộc hạng “hiếm”, “độc”, và “đẹp” là một nguồn thu ngân sách lớn có giá trị. Một số ví dụ được nêu ra, gồm biển số xe cổ “S 32 H” ở Singapore được chốt ở mức giá quy theo tiền Việt tại thời điểm đó là 5,4 tỷ đồng. “Khủng” nhất có lẽ là biển số “1” có giá lên tới 111 tỷ đồng tại Saudi Arabi.

Ngoài ra, trong xã hội luôn có nhu cầu có biển số xe theo ý muốn, có thể không hẳn là phải hiếm, độc, đẹp nhưng lại hợp với vận mệnh, phong thủy hoặc sở thích riêng của người chủ xe.

Mặt khác, cách thức cấp biển số xe theo kiểu bấm số lựa chọn ngẫu nhiên trên hệ thống đăng ký như của Việt Nam, tuy mang tiếng là ngẫu nhiên những vẫn không... ngẫu nhiên, bởi người có chức trách vẫn có thể can thiệp được. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều “siêu xe” của các đại gia lại được gắn biển hiếm, độc, đẹp.   

Bởi vậy, cách thức hợp lý, hợp lòng người và phù hợp lợi ích của các bên nhất chính là đấu giá biển số xe để người thích và có khả năng tài chính thì sẽ được cấp biển như ý, trong khi nhà nước lại có thêm được một nguồn thu đáng kể, đồng thời đảm bảo được tính khách quan, minh bạch, tránh được tình trạng trục lợi của một số quan chức trong ngành.

Tuy nhiên, chẳng rõ vì lý do gì và kết quả cuộc họp giữa Bộ Công an và các bộ khác nêu trên ra sao mà đến tận đúng 5 năm sau Bộ Công an mới... nhích thêm được một bước là đưa ra dự thảo nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá.

Thời gian thai nghén dài như vậy nhưng dự thảo này vẫn có nội dung không rõ ràng liên quan đến một trong những vấn đề và cũng là vướng mắc chính trong việc triển khai đấu giá biển số xe. Đó là quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trúng đấu giá biển số xe ô tô. Vấn đề này có trong phạm vi điều chỉnh của dự thảo, như nêu rõ ở điều 1 dự thảo. Nhưng đáng nói là ở điều 2 của dự thảo về quyền và nghĩa vụ của người trúng đấu giá biển số xe ô tô thì lại không thấy có quy định gì liên quan, mà chỉ có mấy dòng nói về sự thiếu vắng các quy định pháp lý cụ thể, gồm quy định về quyền và nghĩa vụ của người trúng đấu giá biển số.

Quy định về quyền và nghĩa vụ của người trúng đấu giá biển số xe ô tô thực ra chỉ được nêu, và cũng chỉ nêu một phần trong tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội về Đề án thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá đính kèm với dự thảo. Nói là chỉ được nêu một phần bởi mục 6 của phần nội dung cơ bản của tờ trình chỉ nêu về quyền mà không đề cập gì đến nghĩa vụ của người trúng đấu giá. Điều quan trọng là dự thảo nghị quyết nói trên của Quốc hội lại không hề có một dòng nào đề cập đến đề án thí điểm này của Chính phủ.

Như vậy, về nguyên tắc, dự thảo nghị quyết một khi được thông qua trong tình trạng khiếm khuyết như hiện tại sẽ không cung cấp một định hướng rõ ràng cho Chính phủ trong việc trao quyền và nghĩa vụ gì đối với người trúng đấu giá biển số xe. Cũng bởi vậy, Chính phủ, nơi tổ chức  và báo cáo tổng kết thực hiện nghị quyết cũng không thể thực hiện được các nhiệm vụ này.

Xin nói thêm về hai phương án đang được xem xét về quyền và nghĩa vụ của người trúng đấu giá biển số xe tại Việt Nam. Theo đó, phương án thứ nhất, “biến số xe đi theo xe”, cho phép người trúng đấu giá biển số xe được sử dụng nhưng cấm mua bán, trao đổi biển số. Đây là phương án đang được áp dụng ở Việt Nam hiện nay.

Có ý kiến cho rằng nhược điểm của phương án này là “hiệu quả đấu giá không cao, tài sản công sẽ không được khai thác tối ưu”. Có lẽ ý kiến này được hình thành từ nhận định rằng nếu không cho phép chuyển nhượng thì người đấu giá không muốn trả giá cao cho biển số mang ra đấu giá vì khó thu được lợi nhuận (cao) từ việc đấu giá và bán lại biển số (kèm xe).

Về nhược điểm này, có thể tham khảo cách làm ở Singapore. Ở nước này, người trúng đấu giá chỉ được giữ biển số khi nó được đăng ký cho một chiếc xe cụ thể nào đó, tức là sẽ không có những trường hợp, ví dụ, tháo biển ra giữ lại làm của để dành hoặc bán nó cho người khác. Để có thể bán/chuyển nhượng biển số một cách hợp pháp, người trúng đấu giá sẽ đăng ký biển số này cho một chiếc xe cũ, hỏng, rẻ tiền nào đó. Sau đó, người trúng đấu giá bán chiếc xe cũ này với biển số gắn trên nó cho người chủ mới, với một số chi phí trả cho Chính phủ gắn kèm với việc bán này. Người chủ mới của biển số có thể dùng cách tương tự để đăng ký biển này cho một cái xe nào đó như ý muốn. Trong trường hợp đấu giá biển số cổ “S 32 H” ở Singapore nói trên, biển số này từng được gắn trên một chiếc xe cổ nhưng tại thời điểm đấu giá nó đang được gắn cho một chiếc xe hiệu Mercedes C180. Việc chuyển biển số như thế này có thể tái diễn một hoặc nhiều lần như vậy nữa.

Theo cách trên của Singapore thì phương án thứ nhất cần thay đổi một chút, từ “biển số đi theo xe” (một chiếc xe duy nhất) sang “biển số gắn với xe” (bất kể xe nào), và người chủ của biển số (và xe) được phép chuyển nhượng cho người chủ mới.

Phương án thứ hai được đề xuất là “biển số xe đi theo người”. Người trúng đấu giá sẽ được sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, cho tặng, thế chấp biển số trúng đấu giá. Người sở hữu biển số khi bán phương tiện vẫn có thể giữ lại biển số để đăng ký cho phương tiện khác của mình. Nhược điểm của phương án này được cho là nó sẽ tạo ra thị trường mua bán, đầu cơ biển số.

Thực tế thì phương án thứ nhất như nói ở trên cũng vẫn tạo ra thị trường mua bán, đầu cơ biển số, thông qua việc chuyển nhượng sở hữu một cách gián tiếp. Nên đây sẽ không phải là nhược điểm để loại bỏ phương án thứ hai. Thay vào đó, nhược điểm của phương án thứ hai này chính là cho phép chuyển nhượng, thậm chí thừa kế, thế chấp biển số mà không cần phải gắn nó với một chiếc xe cụ thể nào, là một việc hoàn toàn trái với ý nghĩa và bản chất của việc cấp biển số xe.   

Bởi vậy, cân nhắc thiệt hơn thì phương án thứ nhất vẫn nên được áp dụng. Việc chuyển nhượng sẽ được đảm bảo/tạo thuận lợi nếu chủ sở hữu biển số (và xe) được quy định có nghĩa vụ phải làm thủ tục sang tên chuyển quyền sở hữu nếu không muốn phải chịu hoàn toàn các hậu quả pháp lý khi xe và/hoặc biển số này vướng vào rắc rối pháp lý nào đó.

(1) http://www.thesaigontimes.vn/159430/Can-nhanh-chong-thuc-hien-dau-gia-bien-so-xe.html

Friday 6 May 2022

Siết cho vay bất động sản chưa hẳn đã làm giảm rủi ro (Bài đăng trên KTSG, 6/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/siet-cho-vay-bat-dong-san-chua-han-da-lam-giam-rui-ro/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện kiểm soát các khoản cấp tín dụng với lĩnh vực rủi ro, trong đó có lĩnh vực bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp. Bài viết này tập trung vào phân tích rủi ro của việc ngân hàng cho vay với lĩnh vực bất động sản, kèm đó là các giải pháp thích hợp.

Làm tăng nạn đầu cơ?

Tín dụng đổ vào bất động sản thường được cho là làm tăng nạn đầu cơ bất động sản (1). Bởi, khi vốn vay ngân hàng dễ dãi và dễ tiếp cận, ai cũng có thể thành “nhà đầu tư” bất động sản, lướt sóng, mua bán nhanh kiếm chênh lệch, càng làm giá bất động sản tăng nhanh hơn, mạnh hơn, gây sốt đất. Nên giải pháp đương nhiên là phải siết tín dụng ngân hàng vào bất động sản.

Tuy nhiên, giải pháp siết tín dụng ngân hàng vào bất động sản lại gây ảnh hưởng tiêu cực đến những người mua bất động sản với nhu cầu thật, ở thật, chứ không phải là đầu cơ, đầu tư. Mà số lượng này chắc chắn không ít, nên không thể áp dụng chính sách “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” này. Ngoài ra, chính sách siết tín dụng vào bất động sản cũng gây khó cho các doanh nghiệp bất động sản, làm giảm cung, dẫn đến áp lực gia tăng giá bất động sản trong tương lai, càng kích thích nạn đầu cơ (bằng nguồn tiền hợp pháp hay “lách”, như nêu thêm dưới đây).

Ở nước ngoài, ví dụ như Singapore, siết tín dụng ngân hàng được tiến hành một cách có chọn lọc. Theo đó, nhu cầu vay ngân hàng để mua bất động sản sẽ được ngân hàng thương mại xem xét dựa trên mức thu nhập của hộ gia đình, số bất động sản đã và đang sở hữu (theo diện trả góp), tổng số tiền phải trả góp hàng tháng cho các loại tài sản như bất động sản, ô tô, thẻ tín dụng... Số tiền mà ngân hàng có thể cho vay hộ gia đình này sẽ được tính bằng cách lấy lượng tiền có thể vay tối đa (ví dụ, 70% tổng thu nhập của hộ gia đình) trừ đi tổng mức trả góp hàng tháng.

Bằng cách trên, ngân hàng vẫn có thể tiếp tục cho vay, bất kể đó là người/nhà đầu tư, đầu cơ, hay là người có nhu cầu (ở) thật. Mà suy cho cùng, ranh giới giữa đầu tư với đầu cơ và kể cả là để ở thật là rất mong manh, bởi người ta hoàn toàn có thể “tự diễn biến” thành các loại “đầu” khác nhau tùy theo cơ hội và lợi nhuận tiềm năng từ bất động sản đang nhắm đến.

Còn người dân vẫn có thể tiếp tục tiếp cận được vốn vay ngân hàng cho các nhu cầu thật hay ảo của mình, miễn là có thu nhập, nhưng số tiền cho vay cũng chỉ nằm trong khả năng chi trả của họ.      

Tín dụng sẽ đi vào sản xuất, kinh doanh?

Một rủi ro lớn khác nữa là nếu ngân hàng “say sưa” cấp tín dụng cho lĩnh vực bất động sản thì sẽ “lơ là” với và không còn nhiều vốn để cho vay sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên. Nên giải pháp đương nhiên là phải siết tín dụng ngân hàng vào bất động sản để dành vốn cho sản xuất, kinh doanh.

Giải pháp trên là không hoàn toàn thỏa đáng với ngân hàng thương mại. Với tư cách là một doanh nghiệp luôn theo đuổi tối ưu hóa lợi nhuận, ngân hàng thương mại có quyền tự chủ trong việc cho vay của mình sao cho có hiệu quả nhất. Để khuyến khích ngân hàng cho vay các lĩnh vực ưu tiên thì NHNN phải tạo cơ chế ưu đãi cho việc này. Nếu không, hoặc nếu NHNN cấm cản thẳng thừng thì ngân hàng thương mại sẽ tìm cách “lách”, tiếp tục cho vay bất động sản nhưng không thể hiện trên sổ sách đúng như vậy, miễn là tăng trưởng tín dụng chung của ngân hàng đó không vượt quá mức được NHNN phê duyệt. Chắc NHNN cũng biết hiệu quả của việc cấm cản nên chỉ dừng lại ở việc “yêu cầu” các ngân hàng “thực hiện kiểm soát” các khoản cấp tín dụng vào bất động sản, là giải pháp đã có từ nhiều năm nay và/nhưng vẫn không ngăn được sốt đất, thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.   

Kinh tế vĩ mô sẽ ổn định hơn?

Cấp tín dụng dễ dãi gây sốt đất. Sốt đất thì sẽ phải có lúc hết sốt. Khi đó, nhà đầu tư/đầu cơ mắc kẹt, khó “thoát hàng”, còn ngân hàng thì ôm một mớ bất động sản thế chấp với giá “trên trời” nên cũng khó thoát ra được mà không gây ra nợ xấu. Một loạt rủi ro vĩ mô sẽ tiếp nối, gồm cạn kiệt thanh khoản, lãi suất tăng cao, nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng lôi kéo theo cả nền kinh tế... Nên chặn tín dụng ngân hàng vào bất động sản quả sẽ là “một công đôi việc”, vừa chống bất ổn vĩ mô, vừa chống nạn đầu cơ, tăng giá bất động sản để người mua thật có thể mua được. 

Như đã phân tích ở trên, siết tín dụng ngân hàng vào bất động sản sẽ có ít hiệu quả nếu ngân hàng thương mại vẫn thấy bất động sản là lĩnh vực béo bở, và họ vẫn còn dư địa để tăng tín dụng vào bất động sản (cả hợp pháp hoặc “lách”). Nên giải pháp căn cơ vẫn luôn phải là tránh để tiền tràn ngập trong nền kinh tế nếu không muốn thấy những cơn sốt từ bất động sản đến chứng khoán và các loại tài sản khác. Trong báo cáo của mình hồi quý 1, Bộ Xây dựng đã từng chỉ ra nguy cơ  sốt đất trong thời gian tới vì chính lý do này (2). Chính sách tiền tệ của NHNN sẽ quyết định việc tiền có vừa đủ hay quá nhiều trong nền kinh tế.   

Thị trường sẽ minh bạch hơn?

Thị trường bất động sản được cho rằng sẽ minh bạch hơn khi tín dụng ngân hàng vào bất động sản bị chặn lại. Lúc đó, nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nhỏ lẻ, không sử dụng đòn bảy tài chính để đầu tư vào bất động sản được nữa mà sẽ chọn các kênh đầu tư phù hợp hơn. Họ cũng không còn lao vào đầu tư kể cả những bất động sản không đầy đủ pháp lý mà chuyển sang đầu tư các dự án đầy đủ pháp lý, phù hợp hơn (với túi tiền của mình) (1).

Cũng như đã nói ở trên, không chỉ ngân hàng sẽ tìm cách “lách” để cho vay bất động sản khi thấy có lợi hơn. Bản thân nhà đầu tư/đầu cơ nếu thấy “cơ hội” thì sẽ tìm cách “lách” thông qua việc khai sai mục đích vay vốn của mình. Ngân hàng dù có biết cũng sẽ coi như không biết.

Trên hết, khi đã xảy ra việc nhà đầu tư (tích cực) dùng đòn bảy tài chính hoặc lao đầu vào cả những dự án không đầy đủ pháp lý thì có nghĩa là tiền đang “rẻ”, lãi suất đang thấp, nhà đầu tư tranh thủ cơ hội để đầu tư/đầu cơ. Nên nếu muốn thị trường minh bạch hơn, không còn cảnh “mua tranh bán cướp”, mua cả những bất động sản rủi ro pháp lý cao, thì phải chặn bằng chính sách vĩ mô, tức làm cho các khoản vay trở nên đắt đỏ hơn, lãi suất cao hơn. Nói cách khác, giải pháp thích hợp cho rủi ro này cũng vẫn phải là siết lại chính sách tiền tệ.

-----

(1)    https://vov.vn/kinh-te/siet-cho-vay-bat-dong-san-se-giam-dau-co-post937593.vov

https://cafef.vn/con-sot-dat-dien-cuong-nhanh-chong-bi-dap-tat-20220210165925362.chn

Sunday 1 May 2022

Lành mạnh hóa thị trường tài chính một cách… lành mạnh! (Bài đăng trên KTSG, 1/5/2022)

https://thesaigontimes.vn/lanh-manh-hoa-thi-truong-tai-chinh-mot-cach-lanh-manh/

Gần đây, các thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm làm trong sạch, lành mạnh hóa thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp liên tục được đưa ra, từ cấp cao nhất trong hệ thống chính quyền đến các bộ, ngành và cơ quan chủ quản. Châm ngòi cho diễn biến này là vài ba vụ việc phạm luật dẫn đến bắt bớ xảy ra trên thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp.

Nguồn cơn

Nguồn cơn trực tiếp của các vụ vi phạm pháp luật dẫn đến bắt bớ hẳn nhiên là sự... vi phạm pháp luật của một số cá nhân liên đới, là lãnh đạo tại một số doanh nghiệp. Nhưng, hỏi một cách cắc cớ, tại sao điều này (sự vi phạm) lại xảy ra? Câu trả lời đương nhiên sẽ là, tại các cá nhân này... cố tình vi phạm.

Tuy nhiên, sự thật/nguyên nhân không chỉ có thế.    

Ví dụ với vụ việc bán cổ phiếu FLC không công bố trước của ông Trịnh Văn Quyết gần đây. Đây là sự vi phạm pháp luật lần thứ hai. Nếu như lần vi phạm lần trước xảy ra cách đây vài năm, tuy ở quy mô nhỏ hơn lần thứ hai này nhưng bản chất vi phạm là như nhau, mà bị xử lý mạnh tay như lần này thì ông Quyết không chắc đã được tự do ở ngoài đời để mà tiến hành một vụ thao túng thị trường trắng trợn thứ hai là lần này.

Vậy, một trong những nguồn cơn làm thị trường tài chính Việt Nam phát triển không an toàn, lành mạnh chính là thái độ dung túng, sự vô trách nhiệm của các cơ quan chức năng với những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của các cá nhân và tổ chức tham gia thị trường.

Với vụ ông Đỗ Anh Dũng, Chủ tịch, Tổng Giám đốc của tập đoàn Tân Hoàng Minh bị khởi tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do “đã có hành vi gian dối, sử dụng các công ty thành viên phát hành 9 đợt trái phiếu trái quy định pháp luật, tổng trị giá 10.300 tỉ đồng, để huy động tiền của nhà đầu tư nhưng không sử dụng vào các hoạt động kinh doanh theo hồ sơ phát hành trái phiếu”, có thể thấy cái “tội” này (xin không bàn đến là đúng hay sai ở đây) đã diễn ra công khai trước mắt các cơ quan chức năng trong một thời gian không phải là ngắn (từ tháng 7/2021) và quy mô không phải là nhỏ. Vậy nhưng chỉ đến gần đây hơn thì Bộ Tài chính mới “chỉ đạo” và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới ban hành quyết định hủy bỏ 9 đợt phát hành trái phiếu này căn cứ vào “đề nghị của cơ quan có thẩm quyền” (1).

Nói các khác, hành vi vi phạm của ông Dũng (sử dụng tiền phát hành trái phiếu không đúng mục đích nêu trong hồ sơ phát hành trái phiếu) đã được quy định rõ trong luật định hiện hành nhưng chỉ được phát hiện và xử lý khi có đề nghị của cơ quan có thẩm quyền (Bộ Công an?), chứ không phải bởi cơ quan quản lý, giám sát trực tiếp là Ủy ban Chứng khoán và trên đó là Bộ Tài chính. Sự bất cập này, nếu không phải là sự bao che, vô trách nhiệm, thì hẳn phải là sự yếu kém về nghiệp vụ quản lý, theo dõi, giám sát thị trường của cơ quan chức năng khi đã để lọt lưới hành vi phạm pháp.

Giải pháp

Như đã phân tích ở trên, một phần nguồn cơn để các vụ vi phạm pháp luật xảy ra chính là sai phạm, bất cập từ phía các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, những điều bất cập này đã không được nhận biết và thừa nhận để lấy đó làm bài học và khắc phục. Một minh chứng rõ ràng là hầu như chưa có cá nhân nào, cơ quan nào bị quy trách nhiệm và bị xử lý một cách nghiêm túc, mạnh tay vì đã để xảy ra hết lùm xùm này đến lùm xùm khác.

Thay vào đó, dư luận lại được định hướng vào những vấn đề ngoài trách nhiệm của phía cơ quan chức năng như nhà đầu tư không chuyên nghiệp, hành vi gian lận để trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp, mua trái phiếu thông qua các hợp đồng đầu tư... Phía doanh nghiệp cũng bị quy cho nhiều vấn đề như phát hành với khối lượng lớn, lãi suất cao vượt quá năng lực tài chính của doanh nghiệp, vi phạm quy định về công bố thông tin, sử dụng vốn sai mục đích đã công bố, sai phạm của các tổ chức cung cấp dịch vụ trong việc cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch, chính xác...(2).

Hiển nhiên là những vấn đề về phía nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành, cung cấp dịch vụ như nêu trên là có thật, đã và đang tồn tại. Nhưng như thế thì mới cần đến sự quản lý, thanh tra, giám sát và ngăn chặn của cơ quan chức năng, và các cơ quan này mới có lý do để tồn tại và liên tục phình to.

Việc “đánh bùn sang ao” này không chỉ làm cho các vấn đề tiêu cực vẫn sẽ tiếp tục phát sinh vì không được khắc phục tận gốc rễ (sự yếu kém, bất cập của cơ quan chức năng). Điều đáng lo, quan ngại nhất là cơ quan chức năng sẽ cho ra đời những “giải pháp” theo hướng xiết chặt một cách không thỏa đáng, không liên quan gì đến những tồn tại và yếu kém chủ quan về phía cơ quan chức năng.

Ví dụ về các “giải pháp” này là thu hẹp quy định về mục đích phát hành trái phiếu, yêu cầu về tỷ lệ an toàn tài chính khi phát hành, quy định rõ loại trái phiếu nhà đầu tư cá nhân được mua và giao dịch...(2). Những quy định xiết chặt này thậm chí còn làm toát lên tinh thần “không quản được thì cấm”, vốn sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến sự phát triển bình thường của các thị trường tài chính như thông lệ trên thế giới mà tác giả đã đôi lần đề cập đến trước đây.

Quan trọng không kém, cho dù có được viện dẫn với mục đích lành mạnh hóa thị trường thì việc áp dụng thêm nhiều quy định theo hướng xiết chặt lại như thế này cũng chỉ làm khó những doanh nghiệp và nhà đầu tư lương thiện chứ không làm khó được những ai cố tình vi phạm bởi năng lực quản lý, giám sát và ngăn chặn của các cơ quan chức năng cũng chỉ đến thế và nếu họ không thực tâm, thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục, sửa đổi để nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình.

-----

(1)    https://www.anninhthudo.vn/xu-ly-nghiem-to-chuc-tu-van-phat-hanh-dai-ly-phat-hanh-trai-phieu-tan-hoang-minh-neu-phat-hien-vi-pham-post501008.antd

https://dangcongsan.vn/kinh-te/siet-chat-quan-ly-giam-sat-de-phat-trien-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep-an-toan-607758.html

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).