Tuesday 29 March 2022

Mô hình nhà ở xã hội nào cho Việt Nam? (Bài đăng trên KTSG, 27/3/2022)

https://thesaigontimes.vn/mo-hinh-nha-o-xa-hoi-nao-cho-viet-nam/

Những thành phố và trung tâm kinh tế lớn của cả nước đang đau đầu với bài toán phát triển nhà ở xã hội. Khó khăn, trở ngại thì có vô số mà thuận lợi thì hầu như là con số 0 tròn trĩnh.

Xin nói về phía thuận lợi trước. Thành thực mà nói thì người viết không tìm ra được điểm thuận lợi nào, ngoài những điểm thuận lợi... tiềm năng, ở thì tương lai... rất xa! Có thể kể ra ở đây là những giải pháp kiểu đánh thuế bất động sản (vào bất động sản sở hữu từ thứ hai trở đi) để lấy đó làm nguồn lực hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội. Hoặc đó cũng có thể là ý chí quyết tâm của một bộ phận giới lãnh đạo ở một số địa phương nhìn thấy nhu cầu lớn về nhà ở xã hội nên cũng đang cố gắng tìm giải pháp nào đó khả dĩ.

Chuyện ý chí quyết tâm với quyết liệt thì xin không bàn tới, vì khó mà biết nó hiệu quả đến đâu, được hiện thực hóa ở mức nào.

Về giải pháp đánh thuế bất động sản để lấy tiền phát triển nhà ở xã hội, giải pháp này cũng tương tự như “sáng kiến” lấy tiền thu từ xuất khẩu dầu thô để bù giá cho xăng dầu nội địa mà người viết đã từng phản đối bởi lối tư duy “đồng này mua mắm, đồng này mua muối”. Nói gọn lại thì tiền thuế bất động sản cũng là tiền thu ngân sách như mọi loại thuế phí khác và phải được đưa vào ngân sách, được cân đối chung với các khoản thu chi ngân sách khác, chứ không được tách biệt rạch ròi kiểu thu từ nguồn/lĩnh vực nào thì (ưu tiên) chi cho nguồn/lĩnh vực đó.

Chuyển qua các khó khăn, trở ngại phổ biến hay được nêu ra. Đó là quỹ đất hạn hẹp và ngày càng khan hiếm, kể cả ở ven đô và ngoại ô; người (thu nhập thấp) thì ngày càng đông lên (tức nhu cầu nhà ở xã hội thì ngày càng lớn lên); chủ đầu tư không có mấy động lực xây dựng nhà ở xã hội (do trần lợi nhuận thấp, do bị thu tiền sử dụng đất...); thiếu vốn cho vay ưu đãi để chủ đầu tư xây dựng và người có thu nhập thấp có thể mua được nhà ở xã hội...

Những khó khăn, trở ngại trên là đúng, có thật. Nhưng chúng phần nhiều là hậu quả của tư duy phát triển nhà ở xã hội, nói nhẹ thì là, chưa phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay và kể cả nhiều năm sau này.

Xin nói chuyện ngoài lề một chút. Bản thân người viết đã từng có kinh nghiệm sống tại một dạng nhà ở xã hội ở cả Nhật và Singapore. Ở Nhật, lúc đang là Nghiên cứu sinh tiến sĩ, tuy được học bổng toàn phần của Chính phủ Nhật nhưng người viết vẫn được liệt vào dạng không có thu nhập vì học bổng không phải là thu nhập ở Nhật. Sau khi lập gia đình, sau đôi lần bắt thăm thất bại, người viết đã rất may mắn bắt và trúng được một căn hộ thuộc sở hữu và quản lý bởi chính quyền địa phương (gọi là Danchi). Xin nhấn mạnh là người viết và các gia chủ may mắn tương tự chỉ được thuê chứ không phải là được mua các căn hộ Danchi này. Giá thuê thì rất rẻ nếu gia chủ không có thu nhập và sẽ tăng lên tỷ lệ thuận với mức thu nhập của họ, thậm chí lên ngang/cao hơn mức thuê ngoài thị trường (làm cho người thuê sẽ không còn động lực thuê tiếp nữa). Và cũng xin nhấn mạnh là số căn hộ này rất ít so với nhu cầu của dân chúng nên ai bắt thăm trúng được thì cũng coi như trúng số.

Khi chuyển sang Singapore, người viết cũng lại may mắn khi có ngay được “thẻ xanh” chỉ sau mấy tháng làm việc tại đây. Khi đã có thẻ xanh, người viết nghiễm nhiên được quyền mua một căn hộ (cũ) do Chính phủ xây dựng và quản lý, gọi là căn hộ HDB (trên 80% dân Singapore sống trong những căn hộ loại này, nên cũng khó gọi là nhà ở xã hội, dù ngoài ra thì cũng có một số ít căn hộ mà chính quyền dành cho thuê ngắn hạn trong những trường hợp đặc biệt). Đáng chú ý là tuy mang tiếng được mua và đã trả đủ tiền (đến cả chục tỷ đồng hoặc hơn) để mua xong, nhưng căn hộ HDB thực chất là căn hộ được nhà nước cho người dân thuê trong 99 năm, kể từ lúc được bán mới lần đầu. Việc mua bán, chuyển nhượng, sang tên các căn hộ này chịu rất nhiều quy định chặt chẽ, từ mức trần thu nhập đến tư cách pháp lý/chủng tộc của người mua, người bán...

Điểm chung của các loại nhà xã hội do chính quyền xây dựng và quản lý ở Singapore và Nhật là nguồn cung hoặc rất nhỏ nhoi so với nhu cầu, chỉ dành cho những người... may mắn, và/hoặc chỉ có một số loại người mua/thuê tiềm năng nào đó mới được thuê/mua. Quan trọng hơn, thực chất các loại nhà này chỉ là nhà thuộc sở hữu nhà nước/chính quyền địa phương đem cho thuê, chứ không phải là mua đứt bán đoạn như kiểu ở Việt Nam. Chính quyền có quyền và luôn đặt ra các điều kiện, có các giải pháp hợp pháp (tất nhiên là công khai, công bố trước) để người thuê/mua sẽ phải trả lại nhà khi không còn đáp ứng được các điều kiện tiếp tục thuê nữa, nhất là về thu nhập.

Điểm chung nữa của nhà ở xã hội ở Nhật và Singapore là chúng được xây dựng ngay cả tại trung tâm thành phố chứ không chỉ ở vùng ngoại ô nơi vẫn còn “quỹ đất” như ở Việt Nam. 

Quay trở lại với Việt Nam. Nhà ở xã hội tại Việt Nam trước hết cần xác định rõ phải là nhà dành cho thuê (có thể là thuê dài hạn) chứ không phải là bán đứt cho người mua rồi... xong. Nhà này phải kèm điều khoản có thể lấy lại khi người thuê hiện tại không còn thỏa mãn các điều kiện được tiếp tục thuê. Như thế mới đúng nghĩa là nhà ở xã hội, tức giúp cho người khó khăn về nhà ở có chỗ ở “tạm” cho đến lúc không còn, không áp ứng được điều kiện thuê nữa và dành chúng cho những người khó khăn hơn. Như thế cũng sẽ giúp giải quyết được vấn đề muôn thuở không chỉ ở Việt Nam là nhu cầu thì luôn lớn và rất lớn, còn nguồn cung nhà với giá (thuê) “mềm” thì luôn khan hiếm.

Và cũng cần phải thực tế rằng, trên thế giới, có lẽ trừ Singapore, tỷ lệ nhà ở xã hội là vô cùng nhỏ nhoi so với tổng cung và tổng cầu về nhà ở nên nhà ở xã hội nếu có ít ở Việt Nam thì cũng nên coi là thực tế phải chấp nhận.  

Về vấn đề chủ sở hữu thực sự của nhà ở xã hội, như ở Singapore và Nhật cho thấy, thực chất chúng là nhà của nhà nước, đem cho người dân thuê có thời hạn (dù có thể là rất dài). Nhưng ở Việt Nam có thể kết hợp theo kiểu nhà này thuộc sở hữu của chủ đầu tư, cho thuê theo giá thị trường và nhà nước bù phần chênh lệch giá thuê cho người thuê theo các chính sách xã hội của mình.

Xin nhấn mạnh thêm rằng chính sách nhà ở xã hội hiện nay của Việt Nam có sự “nửa nạc nửa mỡ” ở góc độ là ngân sách vẫn phải gián tiếp chi ra nhưng trên bề mặt thì lại thấy dường như nhà nước đang sử dụng nguồn lực tư cho lĩnh vực này. Cụ thể, để có quỹ đất, ví dụ chủ đầu tư phải dành 20% diện tích của các dự án nhà ở thương mại, thì nhà nước thực chất phải dành mảnh đất đó cho chủ dự án thay vì sử dụng vào các mục đích khác. Và dù trên danh nghĩa thì nhà ở xã hội là do chủ đầu tư tư nhân phát triển và bán cho người dân nhưng nhà nước phải thu xếp hoặc yêu cầu ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi cho chủ đầu tư (và cho người mua) mà rốt cuộc cái giá phải trả là nguồn in tiền từ Ngân hàng Nhà nước. Và để tạo thêm động lực cho chủ đầu tư, nhà nước cũng chịu tổn phí khi không thu tiền sử dụng đất (là điều mà trên thực tế vẫn được thực hiện nhưng đang được đề xuất bãi bỏ) (1).

Nếu thực hiện theo hướng nhà nước sở hữu nhà ở xã hội do mình tự xây dựng, hoặc đặt hàng các chủ đầu tư xây dựng, chuyển giao hoặc kinh doanh (cho thuê) hộ mình, và nhà nước bù phần chênh lệch giá thuê cho người thuê thì sẽ tránh được chuyện nhập nhằng công tư dễ kèm theo bất minh, thất thoát này.

Một điều cuối cùng thay lời kết nữa là chỉ khi nào chính sách và cơ chế quản lý thu nhập của công dân đủ hiệu lực để nắm chắc được thu nhập của hộ dân thì chính sách nhà ở xã hội mới không bị lạm dụng theo kiểu người mua/thuê lại đi ô tô (hạng sang). Mà chuyện này ở Việt Nam thì...   

(1) https://diendandoanhnghiep.vn/hai-diem-nghen-nha-o-xa-hoi-218257.html    

Thursday 10 March 2022

Các yếu tố giúp Singapore trở thành trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu (Bài đăng trên KTSG, 6/3/2022)

https://thesaigontimes.vn/cac-yeu-to-giup-singapore-tro-thanh-trung-tam-tai-chinh-quoc-te-hang-dau/

TP.HCM hiện đang xúc tiến xây dựng “Đề án phát triển TP.HCM thành trung tâm tài chính quốc tế”. Tìm hiểu và phân tích các yếu tố giúp Singapore trở thành một trung tâm tài chính không chỉ của quốc tế mà còn là một trong những trung tâm tài chính hàng đầu trên thế giới (liên tục xếp hạng 3 về tính cạnh tranh, hạng 2 về Chỉ số về thành phố có cơ hội, và hạng 6 về trung tâm quản lý tài sản lớn nhất thế giới của các tổ chức xếp hạng) sẽ là hữu ích cho TP.HCM trong việc đánh giá đúng và đầy đủ các cơ hội và hạn chế mà thành phố này có để tự định vị được vị thế trong tương lai của mình trong kịch bản hoàn hảo nhất có thể.

Đầu mối thương mại, hàng không và hàng hải quốc tế

Singapore hay các trung tâm tài chính quốc tế khác đều có khởi nguồn trên nền tảng là một đầu mối hội tụ các hoạt động thương mại và hàng hải quốc tế và khu vực. Những hoạt động này làm nảy sinh nhu cầu về các dịch vụ tài chính “ăn theo” như ngoại hối, bảo hiểm hàng hải, và tài trợ hàng hải để rồi từ đó lại làm nảy sinh và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tài chính liên quan như ngân hàng thương mại và đầu tư, và sở giao dịch chứng khoán.

Ngành hàng không ra đời và phát triển càng bổ túc cơ hội và vị thế của các trung tâm tài chính khu vực và thế giới nếu trung tâm này cũng là các trung tâm trung chuyển, chuyên chở hàng hóa và con người bằng đường hàng không. Tất nhiên, Singapore, một phần nhờ vị thế địa chiến lược của mình, cũng đã từ lâu trở thành một trung tâm hàng không của khu vực và thế giới.

Nền kinh tế mang tính cạnh tranh toàn cầu

Singapore liên tục được xếp hạng nhất về tính cạnh tranh toàn cầu trong những năm gần đây. Đồng thời, với môi trường thân thiện với nền kinh tế số, cơ sở hạ tầng chất lượng cao, và nỗ lực hấp thu công nghệ lớn, Singapore cũng là nước được IMD xếp hạng cao nhất về chỉ số thành phố thông minh và hạng nhì về cạnh tranh số của thế giới năm 2019. Ở các xếp hạng khác về đổi mới sáng tạo hay tính cạnh tranh về trung tâm dữ liệu quốc tế, Singapore cũng luôn trong top đầu.

Tính kết nối quốc tế cao

Singapore có hơn 20 hiệp định thương mại tự do cung cấp sự tiếp cận thị trường của các nước đối tác với rào cản thấp hoặc không có. Với hơn 80 hiệp định tránh đánh thuế hai lần (DTA) Singapore hấp dẫn các tổ chức tài chính muốn sử dụng Singapore như là trụ sở toàn cầu hay khu vực.

Vị trí địa lý cũng cho phép Singapore giao dịch 24/24 giờ với toàn bộ các châu lục khác trong các ngành như ngoại hối và chứng khoán.

Lực lượng lao động chất lượng cao

Singapore đứng hạng thứ nhất ở châu Á và thứ ba trên thế giới về chỉ số Cạnh tranh Nhân tài toàn cầu năm 2020 do INSEAD xếp hạng. Singapore cũng đứng hạng thứ nhất về khả năng đào tạo và thu hút nhân tài. Họ thiết lập, phối hợp và cùng với các nhà tuyển dụng triển khai chính sách tái đào tạo lực lượng lao động trong nước vào những lĩnh vực và vị trí công việc mà người lao động có thể làm trong tương lai trong ngành tài chính. Các tổ chức tài chính sẽ nhận được sự hỗ trợ của Chính phủ nếu tuyển dụng và đào tạo, cũng như trợ giúp quá trình chuyển đổi lực lượng lao động. Nhân lực trong ngành tài chính cũng sẽ nhận được hỗ trợ tài chính từ Chính phủ để phát triển nghề nghiệp và kỹ năng.

Môi trường thân thiện với doanh nghiệp

Singapore được WB xếp hạng thứ hai về môi trường kinh doanh năm 2020. Môi trường thể chế của Singapore rất thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động công ty. Họ cũng có một cơ sở hạ tầng, hệ thống trung gian tài chính, và nền tảng pháp luật về thực thi hợp đồng hữu hiệu và ổn định để trợ giúp việc khởi nghiệp. Đồng thời, tuy tạo dựng môi trường thân thiện với doanh nghiệp như vậy nhưng Singapore luôn tăng cường giám sát thể chế để phòng chống rửa tiền, tội phạm tài chính và tài trợ khủng bổ - những phẩm chất cần có của một trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu.

Liên hệ với TP.HCM

Xét về yếu tố là đầu mối thương mại, hàng không và hàng hải tầm cỡ quốc tế, thì vị trí địa lý cũng như quy mô của nền kinh tế làm cho Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng không phải là cửa ngõ cho một khu vực kinh tế rộng lớn và năng động nào, hay nơi hội tụ lý tưởng của các dòng chảy thương mại, giao thông vận tải đường biển và đường không quốc tế. Không nói đến Singapore, TP.HCM còn phải cạnh tranh dài dài với những thành phố trong khu vực cũng có nhiều tiềm năng như Kuala Lumpur, Bangkok..., hoặc xa hơn là Sydney.

Về tính cạnh tranh toàn cầu, khác với Singapore, TP.HCM không phải là một quốc gia độc lập. TP.HCM sẽ không thể phát triển bứt phá quá xa so với cái nền chung của Việt Nam trừ khi, tối thiểu là TP.HCM được trao quy chế như một đặc khu của Việt Nam tương tự các đặc khu như Thâm Quyến ở Trung Quốc, với toàn quyền hoạch định và thực thi chính sách phát triển. Nhưng vị thế đó liệu có thành hiện thực, và nếu có thành hiện thực thì TP.HCM liệu nhất thiết sẽ trở thành và có nên trở thành một trung tâm tài chính tài chính hay là một cái gì khác thì hơn, chẳng hạn như trung tâm công nghệ cao như Thâm Quyến?

Về tính kết nối quốc tế, tương tự như trên, TP.HCM không thể tự mình quyết định tính kết nối của mình với khu vực và thế giới vượt quá khuôn khổ mà Việt Nam đã và sẽ đạt được, nên sẽ thiếu đi một yếu tố hấp dẫn các tổ chức tài chính quốc tế đặt trụ sở của mình tại đó. Hơn nữa, với vị thế của người đến sau, TP.HCM sẽ làm được gì để các tổ chức này ham muốn chuyển trụ sở của họ từ, chẳng hạn, Singapore sang?    

Với hai yếu tố còn lại là môi trường kinh doanh thân thiện và nguồn nhân lực chất lượng cao, điều này cũng chỉ có thể xảy ra khi TP.HCM được “rào kín” bằng thể chế riêng biệt với toàn quốc (và theo cả nghĩa đen như từng xảy ra với Thâm Quyến) để hấp dẫn bền vững các nguồn đầu tư và nhân lực đến từ mọi nơi.

Tóm lại, có nhiều yếu tố thuộc về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” quyết định một thành phố hay một lãnh thổ có phải là trung tâm tài chính quốc tế hay không. Nên chỉ có một số ít được gọi là trung tâm tài chính quốc tế như New York, London, Zurich, Singapore, Tokyo và Hong Kong. Còn lại thì chỉ nên gọi là trung tâm tài chính quốc gia, và tốt hơn thế nữa thì được gọi là trung tâm tài chính khu vực. Do đó, TP.HCM cần xác định mục tiêu của đề án liên quan một cách thực tế, có tính khả thi hơn. 

Friday 4 March 2022

Quản lý để ngăn chặn "lùa gà" đầu tư vào tài sản ảo như thế nào? (Bài đăng trên KTSG, số 8-2022 ngày 24/2/2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-8-2022-the-gioi-so-va-nghe-nghiep-so/

Chuyện “lùa gà” qua việc mời chào nhà đầu tư cá nhân mua tài sản ảo hoặc góp vốn vào quỹ đầu tư kinh doanh tài sản ảo để rồi đến một hôm nào đó những người mời chào thì biến mất, còn quỹ đầu tư thì tuyên bố thua lỗ hết tiền, xem ra vẫn sẽ còn tiếp diễn dài kỳ. Làm thế nào để các cơ quan chức năng ngăn chặn được chuyện này? Kinh nghiệm từ Singapore sẽ là một số gợi ý cho nhà làm chính sách của Việt Nam.

Điều cần biết trước tiên là Singapore không thừa nhận tiền mã hóa, dạng tài sản ảo phổ biến nhất, là tiền pháp định, tức là không được phép sử dụng tiền mã hóa để thanh toán tại Singapore. Nhưng họ cũng không chế tài tiền mã hóa. Khi ai đó sử dụng tiền mã hóa để thanh toán thì việc này được coi là giao dịch hàng đổi hàng. Hàm ý rút ra ở đây là quản lý tiền mã hóa không phải là cấm đoán cực đoan như kiểu cấm hoàn toàn việc sở hữu, sử dụng, mua bán, thanh toán, và đầu tư vào/bằng tiền mã hóa. Thay vào đó, Singapore chế tài chặt chẽ các chủ thể cung cấp tiền mã hóa và dịch vụ.

Tiền mã hóa được MAS, cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore, phân thành 3 loại: security token, utility token, và digital payment token (DGP). Security token là sự thể hiện dưới dạng số các loại chứng khoán truyền thống như trái phiếu, cổ phiếu, các hợp đồng phái sinh, các hợp đồng ngoại hối giao ngay... Loại tài sản ảo này có chung đặc tính là hứa trả lợi tức cho nhà đầu tư nên chịu chung các chế tài đối với chứng khoán như các chứng khoán truyền thống khác. Do đó, nếu có sàn giao dịch tiền ảo nào đó cho phép mua bán kinh doanh security token thì nó sẽ bị chế tài bởi Luật Chứng khoán và (hợp đồng) Tương lai (SFA).

Với quy định trên, MAS ngăn chặn và cấm mọi hình thức huy động vốn thông qua ICO (phát hành ra công chúng lần đầu tiên tiền mã hóa được tạo ra bởi người phát hành) mà không đăng ký theo quy định của SFA. Ngoài ra MAS cũng cấm các sàn giao dịch chưa có giấy phép từ MAS được giao dịch security token, kèm theo đó là những hình phạt nặng nề nếu không tuân thủ.

Loại tiền mã hóa thứ hai, utility token, theo định nghĩa của MAS, là sự thể hiện dưới dạng số của quyền đối với một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó (chẳng hạn phiếu mua hàng dạng số). Đây thường là loại tiền được phát hành qua ICO và được sử dụng trong nội bộ nền tảng phát hành ra nó. Dù tiền này không bị MAS chế tài nhưng chủ thể nào giao dịch loại tiền ảo này sẽ phải được phép của MAS nếu như loại tiền ảo đó có thuộc tính của các sản phẩm trên thị trường vốn (như chứng khoán, cổ phiếu, sản phẩm phái sinh...) và, do đó, bị chế tài theo SFA.   

Trên thực tế, các quy định trên đã được MAS vận dụng để ngăn chặn các vụ ICO vi phạm SFA, buộc chủ đầu tư phải trả lại tiền đã huy động, và cảnh cáo một số sàn giao dịch tiền mã hóa được xác định như chứng khoán mà không tham vấn trước với nhà chức trách (1). Nếu áp dụng tương tự thì Việt Nam sẽ ngăn chặn và giảm thiểu được từ sớm số vụ lừa đảo của các “sàn”, các quỹ tự phát mọc lên, chào mời nhà đầu tư cá nhân vào các loại tài sản ảo, tiền ảo để rồi khi đã “lùa” được một số tiền kha khá thì đóng cửa, biến mất như đã và vẫn đang tiếp tục xảy ra.

Loại tiền mã hóa thứ ba, DPT, chính là các coin (đồng tiền) thường được biết đến trong thế giới tiền mã hóa, ví dụ như Bitcoin hay Etherium. Nó được Singapore định nghĩa là sự thể hiện dưới dạng số, được mã hóa, của giá trị được sử dụng hoặc có ý định sử dụng như một phương tiện trao đổi.

Gần đây MAS ban hành Luật Dịch vụ thanh toán (PSA) có liên quan đến tiền mã hóa. Theo đó, hầu hết các công ty hoặc sàn giao dịch cung cấp dịch vụ liên quan đến DPT và phát hành DPT cần phải được cấp phép để hoạt động ở Singapore. Đồng thời, MAS cũng ban hành quy định về phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa tài trợ khủng bố trong ngành dịch vụ DPT. Dịch vụ DPT nói ở đây bao gồm: mọi dịch vụ giao dịch DPT, dịch vụ chuyển giao DPT, dịch vụ ví lưu giữ DPT, và dịch vụ hỗ trợ trao đổi DPT mà người cung cấp dịch vụ DPT không cần phải có tiền pháp định hay DPT. 

Như vậy, ngoài một số loại trừ tạm thời, hầu  mọi nhà cung cấp tiền mã hóa và dịch vụ hầu như đều phải được cấp phép hoạt động bởi MAS và còn chịu thêm chế tài theo SFA nếu họ giao dịch các sản phẩm như security token. Cũng nên biết rằng việc xin được giấy phép của MAS hoàn toàn không dễ dàng, với một tỷ trọng đáng kể nhà cung cấp dịch vụ DPT phải rút lại đơn sau khi đã “tham vấn” MAS (tính đến giữa năm 2021 có 170 đơn thì có 30 đơn được rút lại), và một số khác thì bị từ chối. Lý do chủ yếu bởi nhiều nhà cung cấp không đáp ứng được yêu cầu về phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa tài trợ khủng bố. Cho đến tháng 8/2021, chỉ có 2 nhà cung cấp dịch vụ DPT được MAS cấp phép hoạt động trên nguyên tắc.

Cần chú ý là Singapore hầu như không có quy định pháp luật nào về bảo vệ người tiêu dùng. MAS không có trách nhiệm bảo vệ tài sản ảo của nhà đầu tư hay phải đảm bảo rằng các giao dịch tiền ảo sẽ phải diễn ra đúng cách. Thay vào đó, MAS yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ DPT nói rõ với khách hàng rằng nhà cung cấp dịch vụ này là người được MAS cấp phép cung cấp dịch vụ DPT, tuy nhiên điều này không có nghĩa rằng tiền hay DPT mà khách hàng trả cho nhà cung cấp dịch vụ có thể sẽ lấy lại được hoàn toàn khi nhà cung cấp dịch vụ DPT phá sản, đóng cửa; rằng khách hàng không nên giao dịch bằng DPT nếu họ không hiểu biết rõ về DPT và/hoặc công nghệ mà nhà cung cấp dịch vụ DPT sử dụng; và rằng khách hàng nên nhận thức rõ rằng giá trị DPT dao động rất mạnh, và khách hàng chỉ nên mua DPT khi sẵn sàng chấp nhận rủi ro mất toàn bộ số tiền đã đầu tư vào DPT.  

Tóm lại, trong khi Singapore khá cởi mở với tiền mã hóa và tài sản ảo, họ lại rất khắt khe trong việc cấp phép và quản lý rất chặt các nhà phát hành và cung cấp dịch vụ tiền mã hóa để đảm bảo rằng mọi hoạt động phải tuân thủ pháp luật, qua đó giảm thiểu khả năng phát sinh gian lận, lừa đảo, lạm dụng từ phía nhà cung cấp. Về phía người tiêu dùng, nhà chức trách chỉ khuyến cáo mà không có bất cứ biện pháp ngăn cản hay cam kết trách nhiệm nào.

-----

(1) https://www.businesstimes.com.sg/banking-finance/mas-turns-up-heat-on-crypto-currency-exchanges-and-icos

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).