Friday 28 July 2017

Nâng trần lãi suất USD lên bao nhiêu còn phụ thuộc nhiều yếu tố! (Bài đăng trên CafeF, 29/7/2017, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

http://cafef.vn/nang-tran-lai-suat-usd-len-bao-nhieu-con-phu-thuoc-nhieu-yeu-to-20170729111201022.chn

Thời gian qua Chính phủ đã đôi lần yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nghiên cứu giải pháp phù hợp để huy động nguồn vốn vàng, ngoại tệ nhàn rỗi trong dân, để biến thành vốn đưa vào sản xuất, kinh doanh. Và mới tuần trước đây, trong buổi làm việc với NHNN, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng một lần nữa nhắc lại yêu cầu này.

Không rõ chủ trương hưởng ứng yêu cầu trên của NHNN ra sao, nhưng xem ra nếu hưởng ứng thì NHNN không có mấy lựa chọn, ngoài việc nâng trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ lên trên mức hiện tại là 0%/năm như đề xuất của một số chuyên gia. Nhưng đến đây thì lại có thêm sự chia rẽ trong giới chuyên gia khi người thì cho rằng cần nâng lên 0,5%/năm trong khi người khác thì đề xuất nâng lên tới 2-2,5%/năm.

Vậy đâu là cơ sở để quyết định một mức trần lãi suất tiền gửi USD phù hợp?

Để trả lởi câu hỏi này, điều trước tiên cần nhận thức rõ, khẳng định rõ với nhau rằng không có cái gọi là nguồn vốn vàng và ngoại tệ “nhàn rỗi” trong dân. Vì chủ đề của bài này là về USD nên ở đây chúng ta cũng chỉ nói đến USD và khẳng định lại là không có USD “nhàn rỗi” trong dân.

USD bản thân là tiền, thậm chí còn là đồng tiền có lợi thế hơn nhiều so với VND, vì USD không chỉ “tiêu” được ở Việt Nam mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Nên, theo lý thuyết và cả thực tế, nó sẽ (dễ dàng) “chảy” đến chỗ nào, ở trong hoặc ngoài nước, mang lại lợi nhuận cao nhất cho chủ sở hữu. VND đã không “nhàn rỗi” thì càng không thể kỳ vọng USD sẽ “nhàn rỗi” được. Bởi vậy, dù là ở Việt Nam, bị khống chế bởi trần lãi suất tiền gửi 0%, nhưng chắc chắn không mấy người nắm giữ USD lại cam chịu gửi tiền vào ngân hàng để không được cái gì cả, vì họ dễ dàng và hoàn toàn có khả năng bắt số USD mình nắm giữ sinh lời.

Một trong những ví dụ minh họa cho lợi thế của USD và khả năng sinh lợi ở Việt Nam mà báo chí đã “phanh phui” là chuyện người nắm giữ USD sẽ gửi vào ngân hàng và dùng chứng chỉ tiền gửi này để thế chấp vay VND chính tại ngân hàng đó, với lãi suất ưu đãi, ví dụ là 5%/năm để rồi lại đem gửi chính số VND vào ngân hàng đó để hưởng lãi suất 7%/năm, tức là vẫn thu được lợi nhuận 2%/năm (tính theo lượng VND vay được) từ khoản nắm giữ USD của mình, mặc dù trên danh nghĩa khoản tiền gửi USD vào ngân hàng Việt Nam không hề có lãi.

Như vậy, điều có thể rút ra ở đây là không những USD không nằm “nhàn rỗi” trong dân ở cái nghĩa là không sinh lời, mà thậm chí đang sinh lời ở mức không hề tệ. Bởi là mức không hề tệ nên mới có chuyện ngân hàng Việt Nam hiện vẫn đang tiếp tục huy động được khá nhiều để cho vay bằng USD, dù rằng, xin được nhắc lại, lãi suất tiền gửi USD là 0%/năm, và dù rằng Mỹ đã và đang vẫn tiếp tục “lăm le” nâng lãi suất USD ở bản quốc.

Từ đây, để tiếp tục trả lời câu hỏi Việt Nam cần phải nâng trần lãi suất USD lên bao nhiêu thì phải làm rõ vấn đề khác là nhu cầu vay USD ở Việt Nam nhiều đến mức nào?

Nếu là khối doanh nghiệp thì hiện nay nhu cầu và đối tượng vay USD đang bị khống chế bởi Thông tư 24. Về phía Chính phủ, không rõ họ có hay không kế hoạch phát hành trái phiếu, tín phiếu bằng ngoại tệ trong nước như đã từng làm trước đây. Nếu không có thì có nghĩa là nhu cầu vay/huy động USD ở Việt Nam trong thời gian này sẽ không có biến động gì nhiều, nếu nhìn từ cả góc độ công lẫn tư. Điều này cũng có nghĩa là NHNN không cần phải nâng trần lãi suất USD, vì mọi việc vẫn diễn ra bình thường, như cũ!

Ngược lại, nếu khu vực doanh nghiệp được nới lỏng điều kiện vay vốn bằng USD, còn Chính phủ thì quay trở lại với kế hoạch phát hành trái phiếu ngoại tệ lên đến hàng tỷ USD thì lập tức nhu cầu USD trong nước sẽ tăng vọt. Ở mức trần lãi suất 0% hiện tại (hoặc lãi suất thực tế cao hơn, thu được từ những cách “lách” như trên) số USD huy động được sẽ chỉ là “muối bỏ bể” so với nhu cầu tăng vọt, buộc NHNN phải tính đến việc nâng trần lãi suất.

Trong bối cảnh trên, trần lãi suất không thể chỉ được nâng lên ở mức “gọi là”, kiểu như 0,5% hay 1%/năm được, mà phải ở mức cao hơn nhiều, tỷ lệ thuận với nhu cầu vay vốn USD. Đến một quy mô nào đó, mức lãi suất huy động USD mà ngân hàng thương mại cần chào mời để hấp dẫn tiền gửi USD trong nước thậm chí có thể trở nên còn cao hơn cả nếu họ huy động từ nước ngoài. Tương ứng với đó là trần lãi suất tiền gửi USD mà NHNN áp đặt cũng phải “nới” hết cỡ, và trở nên không còn cần thiết vì đằng nào thì ngân hàng thương mại cũng đi vay từ nước ngoài cho rẻ hơn là huy động trong nước.


Nhưng có lẽ ít có khả năng NHNN mạo hiểm nới lỏng quy chế cho vay bằng ngoại tệ vì quan ngại nó sẽ làm trầm trọng thêm nạn đô la hóa, vốn là một trong những nguyên nhân làm giảm tác dụng của chính sách tiền tệ và gây bất ổn vĩ mô. Vậy câu trả lời chỉ còn nằm ở chủ trương và động thái phát hành trái phiếu, tín phiếu bằng ngoại tệ trong nước của Chính phủ.

Và cũng cần lưu ý thêm rằng mặc dù trên danh nghĩa chi phí huy động USD chỉ là 0%/năm nhưng thực tế ngân hàng phải trả cho người gửi USD một lãi suất cao hơn nhiều (2% như trong ví dụ trên) để rồi lãi suất cho vay USD còn cao hơn thế nữa, có thể là 4% hoặc hơn. Trong bối cảnh này, Chính phủ nếu muốn phát hành trái phiếu, tín phiếu ngoại tệ trực tiếp cho ngân hàng thương mại thì họ cũng phải chào mời một lãi suất cạnh tranh, không thấp hơn quá nhiều so với lãi suất mà ngân hàng cho vay doanh nghiệp. Bởi vậy, cũng sẽ không có chuyện Chính phủ sẽ huy động được USD với lãi suất không tưởng, ví dụ 1%, 2%/năm, cho dù trần lãi suất tiền gửi 0% vẫn được bảo lưu.

Do đó, nếu cân nhắc kỹ thì có lẽ Chính phủ cũng không nên quá lạc quan với kênh huy động USD trong nước và, do đó, NHNN cũng không bị lâm vào tình thế khó xử với chính sách trần lãi suất hiện nay của chính mình.

Làm được nhưng phải đánh đổi (Bài đăng trên TBKTSG, 28/7/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/162933/Lam-duoc-nhung-phai-danh-doi.html

Chỉ trong năm nay, Chính phủ đã hai lần yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nghiên cứu giải pháp phù hợp để huy động nguồn vốn vàng, ngoại tệ nhàn rỗi trong dân, để biến thành vốn đưa vào sản xuất, kinh doanh. Tuần trước, trong buổi làm việc với NHNN, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng một lần nữa nhắc lại yêu cầu này.

Hiện tại, NHNN đã thiết lập trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ là 0% nên để tăng cường huy động ngoại tệ thì có nhiều ý kiến đề nghị NHNN phải nâng trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ này lên trên mức này.

Một vấn đề đặt ra là cần phải nâng trần lên bao nhiêu để vừa đảm bảo hấp dẫn người dân gửi пgoạі tệ vào ngân hàng, đồng thời không làm chi phí huy động trở nên quá cao, nhất là khi so với vay ngoại tệ của nước ngoài. Câu trả lời là tùy thuộc vào nhu cầu vay ngoại tệ của nền kinh tế.

Nếu cả Chính phủ và doanh nghiệp đều “tích cực” vay ngoại tệ thì buộc hệ thống ngân hàng phải chào mời một lãi suất tiền gửi ngoại tệ rất hấp dẫn mới mong huy động đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vay vốn của Chính phủ và doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là trần lãi suất huy động ngoại tệ sẽ phải được nâng lên không chỉ là 0,25%, 0,5% mà sẽ phải cao hơn, thậm chí là có thể tiệm cận với mức huy động từ quốc tế.

Như vậy, việc NHNN nâng trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ để tăng cường huy động ngoại tệ trong dân chúng nhằm mục đích cung ứng vốn ngoại tệ giá rẻ cho Chính phủ hoặc doanh nghiệp là tự thân mâu thuẫn. May ra thì chỉ có ai “nhanh tay” vay được ngoại tệ ngay khi trần lãi suất được nâng lên theo lộ trình, ví dụ, lên 0,25%/năm là được hưởng lợi lớn, trước khi nguồn ngoại tệ huy động được ở mức lãi suất này cạn kiệt, buộc NHNN phải tiếp tục nâng nó lên từ từ và tiếp tục cho đến khi lãi suất huy động trong nước bằng hoặc cao hơn so với quốc tế và người vay chuyển sang vay trên thị trường quốc tế cho... rẻ!

Quan trọng hơn, sẽ không thể phủ nhận rằng việc nâng trần lãi suất như vậy sẽ làm tăng mạnh tình trạng đô la hóa vì người dân sẽ chuyển hóa tài sản của mình sang ngoại tệ để hưởng lãi cao hơn trong khi vẫn bảo toàn giá trị tài sản của mình. Đô la hóa trầm trọng sẽ làm vô hiệu hóa tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ, gây bất ổn cho tỷ giá, lãi suất và ổn định vĩ mô. Chính vì những lý do này mà NHNN trước đây đã phải áp đặt trần lãi suất 0%.

Nay, nếu NHNN nâng trần lãi suất lên chính là mở đường cho những bất ổn vĩ mô tràn vào.
Sự ổn định tương đối của tỷ giá trong thời gian qua một phần nhờ có chính sách trần lãi suất 0% của NHNN. Khi chính sách này được nới lỏng, các bất ổn vĩ mô lại trở thành vấn đề nóng chỉ còn là chuyện thời gian mà thôi.

Saturday 22 July 2017

Những nội dung đáng chú ý trong Quyết định phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (Bài đăng trên CafeF, 22/7/2017)

http://cafef.vn/nhung-noi-dung-dang-chu-y-trong-quyet-dinh-phe-duyet-de-an-co-cau-lai-he-thong-cac-to-chuc-tin-dung-giai-doan-2-20170722135216845.chn

Tuần trước Chính phủ vừa ra Quyết định 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” (trong bài này gọi tắt là Quyết định). Quyết định này có một số nội dung quan trọng, đáng chú ý như sau.

Thứ nhất, Quyết định quy định Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cùng với Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng phương án tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ đến năm 2020 để đáp ứng đủ vốn theo chuẩn mực vốn của Basel II.
Với quy định trên, trong vòng mấy năm tới đây có lẽ sẽ hiếm khi còn tình trạng Bộ Tài chính “đòi” các ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước phải chia cổ tức như đã từng xảy ra vừa qua, mặc dù đã không nhận được sự đồng thuận từ các ngân hàng này với giải trình rằng họ cần bổ sung vốn từ lợi nhuận kinh doanh để đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu cao hơn. Tất nhiên là các ngân hàng thương mại này cũng có thể tiếp tục chia cổ tức cho cổ đông Nhà nước nếu họ “ăn nên làm ra”, lợi nhuận thu được vượt mức cần có để bổ sung vốn theo phương án được phê duyệt, nhưng điều này là không chắc chắn, tùy thuộc điều kiện thị trường.

Thứ hai, Quyết định quy định Bộ Tài chính phối hợp cùng các bộ, ngành và địa phương nghiên cứu, xây dựng lộ trình và bố trí nguồn xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản có nguồn gốc từ ngân sách trung ương, địa phương và nợ xấu từ hoạt động cho vay theo chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng, khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Như vậy, Quyết định đã chính thức công nhận trách nhiệm của Nhà nước trong việc dùng ngân sách để xử lý nợ xấu, mặc dù trên nguyên tắc thì điều này không được phép theo Nghị quyết vừa qua của Quốc hội. Nói cách khác, Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến điểm này cần được hiểu theo (và cần nhận được sự đồng thuận rộng rãi trong xã hội) rằng nợ xấu do ai/tổ chức nào tạo ra thì người/tổ chức đó chịu trách nhiệm, và Nhà nước sẽ phải/chỉ dùng ngân sách để xử lý nợ xấu nếu nợ xấu phát sinh bởi chính quyền.

Thứ ba, Bộ Tài chính cũng được giao trách nhiệm nghiên cứu, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ và chuyển đổi các khoản nợ xấu thành chứng khoán để giao dịch công khai, minh bạch vào thời điểm thích hợp.
Theo quy định này, có thể thấy việc xử lý nợ xấu sẽ được thúc đẩy nhanh hơn và hiệu quả hơn khi Chính phủ đã mở ra một kênh xử lý mới, bên cạnh các kênh xử lý nợ xấu truyền thống như bán tài sản thế chấp, hoán đổi vốn cho vay thành cổ phần, trích lập và dùng dự phòng để xử lý… Tuy việc xử lý nợ xấu qua kênh chứng khoán hóa này là mới mẻ, chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam nhưng nó đã chứng tỏ tính hữu hiệu ở nhiều nước, mà điển hình mới đây là Ý nơi mà nợ xấu của một số ngân hàng yếu kém được chứng khoán hóa và chào bán ra thị trường với sự bảo lãnh phát hành của Chính phủ.

Thứ tư, Công an được quy định phối hợp, hỗ trợ các tổ chức tín dụng và VAMC, đảm bảo an ninh trật tự trong việc thu giữ, xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ. Như vậy, một trong những điểm nghẽn của việc xử lý nợ xấu mà cụ thể là sự chây ì, chống đối của người có tài sản đảm bảo đã chính thức được khai thông nhờ sự can thiệp của chính quyền. Nói cách khác, tranh chấp dân sự liên quan đến nợ xấu đã trở nên mang tính cưỡng chế dưới sự đảm bảo của công lực.
Thứ năm, Bộ Tài nguyên Môi trường có trách nhiệm nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến đăng ký điện tử về đất đai, trong đó có đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; xây dựng quy định và chỉ đạo thực hiện lộ trình cập nhật và công khai thông tin các giao dịch về quyền sử dụng đất đai, tài sản gắn liền với đất trên hệ thống thông tin điện tử của cơ quan tài nguyên và môi trường để các bên liên quan nắm bắt.

Nếu được thực hiện, quy định trên sẽ hạn chế những hành vi gian lận, phạm pháp điển hình liên quan đến thế chấp bất động sản và đất đai trong thời gian qua vốn là một trong những căn nguyên phát sinh nợ xấu. Ví dụ về những hành vi này có thể là cùng một mảnh đất hoặc bất động sản nhưng được thế chấp tại nhiều ngân hàng.
Quy định này còn có tác dụng trong những trường hợp ví dụ nhằm bảo vệ quyền lợi của người mua bất động sản hình thành trong tương lai khi chủ đầu tư đem thế chấp dự án để vay vốn ngân hàng nhưng vẫn tiến hành bán cho khách mà không cho biết tình hình thế chấp (và khách mua tiềm năng cũng không có cách gì để kiểm tra được tình trạng thế chấp này), dẫn đến rủi ro lớn cho khách mua trong tương lai khi chủ đầu tư không trả nợ cho ngân hàng. Hậu quả khác là làm nảy sinh tranh chấp giữa ngân hàng và khách hàng mua bất động sản sau này; trong trường hợp này ngân hàng cho vay chủ đầu tư có khả năng phải ôm một khoản nợ xấu vì tài sản thế chấp là dự án bất động sản đang có tranh chấp.

Friday 21 July 2017

Tách bạch giấy đăng ký và giấy sở hữu ô tô (Bài đăng trên TBKTSG, 20/7/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/162676/Tach-bach-giay-dang-ky-va-giay-so-huu-o-to.html

Nhiều chủ ô tô mua trả góp trong thời gian qua đã gặp rắc rối vì bị cảnh sát phạt do không có giấy (chứng nhận) đăng ký xe bản gốc, bởi nó đang bị thế chấp tại ngân hàng cho vay mua ô tô trả góp.

Do đều có các điều luật liên quan quy định (và hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh thực tế) rằng bên ngân hàng cho vay trả góp mua ô tô được quyền giữ giấy đăng ký xe bản gốc (nếu chủ ô tô và ngân hàng có thỏa thuận như vậy), và rằng khi tham gia lưu thông thì người lái ô tô phải mang theo giấy đăng ký xe bản gốc, nên rõ ràng trong trường hợp này người mua trả góp ô tô bị mắc kẹt giữa hai bên, chịu hoàn toàn rủi ro bị cảnh sát giao thông phạt khi lái xe mà không xuất trình được giấy đăng ký xe bản gốc.

Để giải quyết ổn thỏa vấn đề này, và cùng với vấn đề pháp lý liên quan đến nghĩa vụ trả nợ ngân hàng của người chủ ô tô khi mua xe theo kiểu trả góp bằng vốn vay ngân hàng, Việt Nam cần nhanh chóng bổ sung thêm một loại giấy tờ pháp lý là giấy chứng nhận quyền sở hữu ô tô, vốn phổ biến ở rất nhiều nước trên thế giới và là loại giấy tờ có giá trị pháp lý tương tự như “sổ đỏ” dùng để chứng nhận quyền sở hữu trong bất động sản ở Việt Nam.

Giấy chứng nhận quyền sở hữu ô tô nói trên chứa thông tin về chủ xe cũng như thông tin về chiếc xe đó như ngày mua, số khung và biển số xe, hoặc thậm chí có thêm thông tin liên quan như xe này được mua mới hay cũ... Giấy này có thể do người chủ ô tô hay ngân hàng cho vay giữ, tùy thuộc vào địa phương (nước) và tùy thuộc loại hình vay mua trả góp ô tô. Nhưng thường thì trên thực tế giấy này sẽ do ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính cho vay trả góp mua ô tô nắm giữ trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng vay mua xe. Sau khi người chủ xe trả hết nợ, ngân hàng hoặc tổ chức tài chính sẽ tiến hành làm thủ tục xóa tên ngân hàng, tổ chức tài chính khỏi giấy chứng nhận quyền sở hữu này và gửi giấy chứng nhận này đến cho người chủ xe.

Điều khác biệt với trường hợp của giấy đăng ký xe đang nói đến ở Việt Nam là dù người chủ ô tô có hay không có giấy chứng nhận quyền sở hữu này thì người đó vẫn được điều khiển chiếc xe này một cách hoàn toàn hợp pháp chừng nào có giấy chứng nhận đăng ký xe (và các loại giấy tờ liên quan như giấy phép được quyền chạy xe, như ở một số nước), và tất nhiên là chừng nào người chủ xe vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng cho vay (để không bị khởi kiện, giữ xe).


Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng người chủ ô tô giữ bản (sao) chứng nhận này sẽ không có nghĩa là người chủ này hoàn toàn sở hữu, toàn quyền quyết định chiếc ô tô đó. Bất kể ai nắm giữ giấy chứng nhận này, nếu một người khác là đồng sở hữu và có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu thì người đó cũng có quyền với chiếc ô tô này. Người đồng sở hữu này không chỉ có thể là ngân hàng, tổ chức tài chính cho vay mua trả góp mà còn có thể là người cùng bỏ tiền ra mua ô tô hay thậm chí là một thành viên trong gia đình trước đây từng có quyền sở hữu chiếc ô tô đó.

Để loại bỏ những người đồng sở hữu này và trở thành người chủ duy nhất và có toàn quyền quyết định chiếc ô tô thì người chủ hiện tại cần phải lấy được chữ ký của những người đồng sở hữu vào một văn bản chứng nhận từ bỏ quyền (đồng) sở hữu chiếc xe (và những người đồng sở hữu này trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu cho người chủ hiện tại nếu họ đang nắm giữ).

Khi đã thanh toán nợ nần xong với ngân hàng, người chủ xe lại có thể tiếp tục dùng giấy chứng nhận quyền sở hữu này để làm tài sản thế chấp vay tiền tại ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính. Nếu không trả nợ đầy đủ, ngân hàng hoặc tổ chức tài chính có quyền thu giữ xe.

Như vậy, Việt Nam cần sớm sửa các điều luật hiện hành và ban hành những luật mới liên quan đến chứng nhận đăng ký ô tô, và chứng nhận quyền sở hữu ô tô. Theo đó, giấy chứng nhận đăng ký ô tô cần phải luôn được nắm giữ bởi người lái ô tô để khi bị cảnh sát giao thông hỏi đến thì không bị phạt vì thiếu giấy này. Còn ngân hàng cho vay mua ô tô trả góp, để đảm bảo “nắm được tóc” thì cần (và được quyền) nắm giữ giấy chứng nhận sở hữu ô tô với tư cách là đồng sở hữu được ghi ngay trên giấy này (cùng với những đồng sở hữu khác, nếu có). Khi chiếc xe được bán, thế chấp, người mua hoặc người nhận thế chấp sẽ nhận biết được tình trạng sở hữu của chiếc ô tô căn cứ vào giấy chứng nhận sở hữu này (nếu ngân hàng đã trả lại cho người chủ hiện tại) và các giấy tờ liên quan (như giấy chứng nhận từ bỏ quyền đồng sở hữu của ngân hàng sau khi món nợ đã được thanh toán đầy đủ).

Wednesday 19 July 2017

Thêm trách nhiệm cho Ngân hàng Nhà nước (Bài đăng trên CafeF, 19/7/201)

http://cafef.vn/them-trach-nhiem-cho-ngan-hang-nha-nuoc-20170719110601781.chn

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, mới đây đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có giải pháp hạ lãi suất, tăng cường cho vay các doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp khởi nghiệp, đồng thời có giải pháp huy động ngoại tệ thay vì gửi với lãi suất 0% để hòa vào các nguồn lực khác cho đầu tư. Kèm với đó, mục tiêu tăng trưởng tín dụng được đặt ra là 18%-20%, cao hơn mức 18% mà NHNN tuyên bố mới đây sau động thái hạ các lãi suất điều hành hôm 7/7 vừa qua.

Nhiều ý kiến cho rằng, những yêu cầu đặt ra với NHNN sẽ giúp doanh nghiệp và nền kinh tế “dễ thở hơn”, tuy nhiên với ngành ngân hàng thì khó lại thêm khó. Xoay quanh vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với TS. Phan Minh Ngọc, một chuyên gia về kinh tế tài chính.

PV: Thưa ông, nhiệm vụ mà Chính phủ giao cho NHNN là điều hành chính sách phù hợp cùng mục tiêu tăng trưởng tín dụng 18-20% - cao hơn so với mục tiêu ban đầu NHNN đưa ra ở mức 18%, phải chăng điều này sẽ làm cho NHNN thêm gánh nặng?

TS. Phan Minh Ngọc: Đúng vậy. Có thể nói là trách nhiệm của NHNN lại càng trở nên nặng nề và khó khăn hơn. Bởi, một mặt, họ phải nới lỏng thêm chính sách tiền tệ để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng cao hơn so với trước, trong khi đó vẫn phải đặt ưu tiên lên hàng đầu việc kiềm chế lạm phát dưới 5% trong năm nay, trong khi lạm phát trung bình nửa đầu năm đã đạt trên 4%. Sự thận trọng trước nhiệm vụ khó khăn này cũng được minh họa ngay ở động thái cắt giảm lãi suất điều hành rất khiêm tốn, chỉ 0,25 điểm phần trăm hôm 7/7, trong khi NHNN chủ trương ổn định tăng trưởng tín dụng ở mức 18%.

Nếu không muốn nới lỏng chính sách tiền tệ quá mức làm tăng áp lực lạm phát, NHNN buộc phải dùng đến giải pháp hành chính buộc các ngân hàng thương mại phải giảm lãi suất cho vay 0,5 đến 1 điểm phần trăm/năm. Nhưng trong việc này, do sự hỗ trợ của NHNN dưới dạng cung cấp vốn đầu vào cho hệ thống ngân hàng thương mại chỉ có hạn (hiện tại mới chỉ giảm 0,25 điểm phần trăm lãi suất điều hành) nên việc buộc các ngân hàng thương mại phải giảm lãi suất ở mức nhiều hơn mức giảm của NHNN sẽ làm ảnh hưởng trầm trọng đến doanh thu và lợi nhuận của các ngân hàng thương mại.

Nhưng các ngân hàng vẫn phải tuân thủ theo mệnh lệnh của NHNN chứ?

Khi doanh thu và lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thương mại tụt giảm sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư, bổ sung vốn, củng cố tính an toàn của hệ thống, cũng như làm giảm mức độ nộp ngân sách thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp từ các ngân hàng.

Đó là chưa nói đến khả năng thực tế có thể xảy ra là các ngân hàng thương mại tuy một mặt sẽ chấp hành chỉ đạo cắt giảm lãi suất của NHNN, nhưng mặt khác lại thu hẹp cho vay trong những lĩnh vực mà NHNN chỉ đạo phải tăng cường cho vay, trong bối cảnh có sự thiếu vắng quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại phải dành tối thiểu bao nhiêu phần trăm dư nợ cho một lĩnh vực, ngành cụ thể nào đó. Hoặc cũng có thể các ngân hàng thương mại sẽ lách chỉ đạo này bằng cách áp dụng các loại phí, lệ phí lên khách hàng doanh nghiệp và cá nhân vay vốn để bù đắp vào phần lãi suất bị cắt giảm theo chỉ đạo của NHNN.

Chính phủ yêu cầu các ngân hàng tăng cho vay với nhóm doanh nghiệp mới thành lập hoặc khởi nghiệp, đây là một chủ trương rất đúng đắn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tiếp thêm sức mạnh cho họ. Về phía các ngân hàng liệu có vấn đề gì không thưa ông?

Với chỉ đạo của Chính phủ yêu cầu hệ thống ngân hàng tăng cường cho vay doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp khởi nghiệp, đây cũng là một khó khăn, thách thức lớn, đặc biệt với NHNN khi phải chỉ đạo và theo dõi việc cho vay của các ngân hàng thương mại.

Bởi các ngân hàng thương mại thường rất e dè cho các doanh nghiệp mới vay khi các doanh nghiệp này chưa hoặc mới bắt tay vào sản xuất, kinh doanh, chưa có lịch sử hoạt động và đủ thời gian để chứng tỏ năng lực, tính cạnh tranh, khả năng tồn tại, khả năng trả nợ v.v… Nếu không có các biện pháp hành chính, bắt buộc từ NHNN thì các ngân hàng thương mại sẽ luôn tìm cách giảm thiểu việc cho vay với những doanh nghiệp loại này.

Nhưng việc áp dụng biện pháp hành chính, bắt buộc của NHNN sẽ có khả năng được đối phó lại bởi các hành động lách quy định của ngân hàng thương mại như đối với trường hợp cắt giảm lãi suất cho vay đến một số lĩnh vực và ngành ưu tiên nói ở trên. Do đó, chủ trương tăng cường cho vay các doanh nghiệp mới và doanh nghiệp khởi nghiệp có thể sẽ không đạt được như ý muốn.

Chính phủ cũng chỉ đạo NHNN nghiên cứu biện pháp huy động ngoại tệ trong dân. Đối với việc này nhiều chuyên gia cho rằng sẽ khó khả thi vì lãi suất USD hiện nay bằng 0%. Còn ông nhận định thế nào?

Đối với chỉ đạo huy động ngoại tệ trong dân, đây cũng là một tình huống khó xử với NHNN. Chủ trương hạ lãi suất tiền gửi ngoại tệ về 0% trước đây là một động thái được cho là cần thiết để không chỉ giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế mà còn có mục đích quan trọng là giảm áp lực lên ổn định tỉ giá và lạm phát.

Nay, với chỉ đạo mới của Chính phủ, NHNN có thể sẽ sớm phải nâng trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ lên trên 0%. Và cái khó thêm ở đây là nếu chỉ nâng trần này lên ở mức “gọi là”, ví dụ, 0,25%/năm, thì mức này vẫn là chưa đủ để hấp dẫn người dân gửi ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, và tức là lượng ngoại tệ huy động qua kênh này sẽ hạn hẹp. Nhưng nếu nâng trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ lên cao quá thì lại có rủi ro không chỉ là làm trầm trọng thêm nạn đô la hóa cũng như đe dọa sự ổn định của tỉ giá, mà còn làm cho chi phí huy động qua kênh phát hành trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ (thông qua hệ thống ngân hàng) trở nên đắt đỏ hơn, không rẻ hơn nhiều so với nếu huy động từ nước ngoài.

Tóm lại, với các yêu cầu mới, ông cho rằng trách nhiệm của NHNN sẽ nặng nề và khó khăn hơn?

Đúng vậy. Trách nhiệm của NHNN trong thời gian tới sẽ trở nên nặng nề và khó khăn hơn nhiều khi họ trở thành chủ thể chính trong việc thúc đẩy tăng trưởng nhưng vẫn phải đảm bảo ổn định vĩ mô và an toàn hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh này, có lẽ NHNN buộc phải thực thi các chính sách “dò và tiến” vừa để Chính phủ thấy nỗ lực của mình đồng thời không làm tăng thêm đáng kể các rủi ro cho nền kinh tế.

Giảm lãi suất quan trọng thế nào? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 19/7/2017)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/giam-lai-suat-quan-trong-the-nao/1204083/

Sáng 18/7, dẫn đầu đoàn kiểm tra Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng giao, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng yêu cầu NHNN hạ lãi suất. Theo Bộ trưởng Dũng: “Tính toán phác thảo, dư nợ tín dụng của Việt Nam khoảng trên 5 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì các DN dành được 50.000 tỷ đồng, cứ tính 5 đồng vốn 1 đồng lãi thì chúng ta đã có 10.000 tỷ đồng, riêng tiền thuế thu nhập DN đã có 2.000 tỷ đồng và giúp tăng 0,25% GDP. Hay nợ công trong nước hiện khoảng 1 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì tiết kiệm từ ngân sách khoảng 10.000 tỷ đồng”. 


Nói thêm về tầm quan trọng của việc hạ lãi suất, Bộ trưởng Dũng cho biết nợ công hiện nay khoảng 1 triệu tỉ đồng. Theo Bộ trưởng thì nếu lãi suất cho vay giảm 1%/ năm thì "chúng ta tiết kiệm được cho ngân sách nhà nước 10.000 tỉ đồng", là một khoản bù đắp đầu tư phát triển rất tốt”. 
Những con số nêu trên dường như cho thấy dù chỉ giảm ở mức độ khiêm tốn là 0,5 đến 1 điểm phần trăm thì việc hạ lãi suất vẫn sẽ rất có ý nghĩa cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn một chút thì thấy có một số bất hợp lý trong những con số nếu trên. 
Thứ nhất, với dư nợ tín dụng của Việt Nam trên 5 triệu tỷ đồng thì đúng là nếu giảm lãi suất 1 điểm phần trăm tính trên 5 triệu tỷ đồng, sẽ giảm được 50.000 tỷ đồng tiền lãi nền kinh tế phải trả cho hệ thống ngân hàng thương mại hàng năm. Tuy nhiên, 5 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng này là con số cộng dồn dư nợ từ trước đến nay (và vẫn còn hiệu lực đến hiện tại). Và 5 triệu tỷ đồng này có nhiều kỳ hạn khác nhau, với nhiều mức lãi suất khác nhau, khó có thể cắt giảm theo kiểu “hồi tố” được, vì đã thể hiện và cam kết trong hợp đồng cho vay giữa ngân hàng với người vay. Nếu buộc ngân hàng phải tự nguyện cắt giảm theo kiểu hồi tố thì điều này có nghĩa là làm thiệt hại một cách bất công cho ngân hàng bởi họ cho vay với lãi suất cao thì cũng phải huy động với lãi suất cao. Vậy, 50.000 tỷ đồng mà doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng được hưởng lợi cũng chính là khoản thua lỗ mà các ngân hàng sẽ phải gánh chịu.
Chưa hết, lợi nhuận ngân hàng giảm sẽ dẫn đến hàng loạt hệ lụy lên tăng trưởng và ổn định vĩ mô như không có nguồn bổ sung, củng cố vốn an toàn tối thiểu nên làm tăng rủi ro đổ vỡ hệ thống; thiếu hụt nguồn vốn cho vay kết hợp với tỷ lệ an toàn vốn không được cải thiện sẽ làm cho tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế bị co hẹp lại; và phần trích nộp ngân sách dưới dạng thuế thu nhập doanh nghiệp và phân chia lợi nhuận cổ đông (với các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước) cũng bị suy giảm theo làm tăng thâm hụt ngân sách, giảm chi tiêu công và kích cầu, từ đó lại dẫn đến giảm tăng trưởng kinh tế…    


Giả sử việc cắt giảm lãi suất cho vay chỉ diễn ra với những khoản cho vay mới từ thời điểm này trở đi. Vì dư nợ cho vay mới chỉ là một phần của con số 5 triệu tỷ đồng trên (18%-20%, là tốc độ tăng trưởng tín dụng mục tiêu cho năm nay), con số “tiết kiệm” được, không phải trả lãi cho các ngân hàng cũng sẽ chỉ là một phần của con số 50.000 tỷ đồng nói trên (chính xác là 9-10.000 tỷ đồng), không lớn như tuyên bố. Đó là chưa kể việc “tiết kiệm” này cũng vẫn chính là phần lợi nhuận mà ngân hàng phải “cắt máu” cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, và cũng sẽ mang lại những hệ lụy cho tăng trưởng và ổn định như phân tích ở trên.
Thứ hai, giả sử cứ đầu tư 5 đồng thì thu được 1 đồng lãi, đúng như Bộ trưởng Dũng phát biểu thì từ 9-10.000 tỷ đồng “tiết kiệm” được như tính toán ở trên, “chúng ta” sẽ thu thêm được gần 2.000 tỷ đồng lãi. Trong số này, tiền thuế thu nhập doanh nghiệp thu được sẽ là 400 tỷ đồng (20% lợi nhuận), chứ không phải là 2.000 tỷ đồng như công bố của Bộ trưởng. Và xin nhắc lại là “chúng ta” thu thêm được 2.000 tỷ đồng tiền lãi và ngân sách thu thêm được 400 tỷ đồng thuế thu nhập nhưng thực chất những con số này sẽ bị ghi giảm trừ từ phần đóng góp của hệ thống ngân hàng thương mại do đã phải hy sinh lợi nhuận cho phần còn lại của nền kinh tế.


Thứ ba, Bộ trưởng Dũng nói 2.000 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp làm tăng 0,25% GDP. Nhưng lưu ý rằng GDP theo giá thực tế hiện là trên 5 triệu tỷ đồng. Con số 2.000 tỷ đồng này chỉ tương đương chưa đến 0,04% GDP mà thôi.
Thứ tư, về nợ công mà theo công bố trên là 1 triệu tỷ đồng. Cũng tương tự như đã phân tích, đây là dư nợ đến thời điểm hiện tại với kỳ hạn và lãi suất đã ấn định xong xuôi, không thể hồi tố được. Nên dù lãi suất huy động cho trái phiếu Chính phủ có giảm 1 điểm phần trăm thì không có nghĩa là ngân sách tiết kiệm được 10.000 tỷ đồng như trong lập luận của bộ trưởng. Có chăng, chỉ các khoản vay nợ công mới (kể cả để đảo nợ) từ nay trở đi mới được hưởng lãi suất thấp hơn này. Nhưng những khoản vay mới này cũng sẽ chỉ là một phần nhỏ của con số 1 triệu tỷ đồng nợ công hiện tại. Nói cách khác, giảm lãi suất 1 điểm phần trăm sẽ chỉ có tác dụng khiêm tốn hơn rất nhiều so với con số ước tính trên.


Và cũng không thể không nhắc lại một lần nữa rằng giảm được gánh nặng nợ công nhờ giảm lãi suất sẽ đi kèm với cái giá phải trả là phần nộp ngân sách từ hệ thống ngân hàng sẽ bị co hẹp lại tương ứng, chưa kể đến các hệ lụy đến tăng trưởng và ổn định vĩ mô như đã chỉ ra ở trên.
Tóm lại, việc cắt giảm lãi suất nếu không có giải pháp đi kèm để không làm thiệt hại đến doanh thu và lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thì sẽ không những không có (mấy) tác dụng mà thậm chí còn làm tổn hại đến tăng trưởng và ổn định vĩ mô.

Monday 17 July 2017

Để đường sắt Việt Nam “sống” được (Bài đăng trên TBKTSG, 17/7/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/162458/De-duong-sat-Viet-Nam-song-duoc.html

Mới đây, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) đã lần đầu tiên công bố thông tin chi tiết về tình hình kinh doanh của mình. Theo đó, doanh thu của VNR trong mấy năm qua liên tục sụt giảm, từ 8.700 tỉ đồng năm 2013 xuống còn 6.500 tỉ đồng năm 2016.

Cùng với đó, lượng hành khách và hàng hóa vận chuyển có xu hướng sụt giảm tương tự (trừ năm 2014, lượng hàng hóa vận chuyển tăng so với năm 2013).

Lý giải về kết quả kinh doanh yếu kém này, VNR đổ lỗi cho sự cạnh tranh của các hãng hàng không giá rẻ, ô tô chất lượng cao, và đặc biệt khi đường bộ cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Hà Nội - Lào Cai bắt đầu được khai thác.

Trước hết là tại mình

Phải đồng ý ngay với VNR rằng các chỉ tiêu kinh doanh của họ liên tục đi xuống đúng là do chủ yếu từ sự cạnh tranh của vận tải đường không và đường bộ. Nhưng sự cạnh tranh này có được không phải chỉ là do sự hấp dẫn nội tại của đường không và đường bộ, mà còn có phần lớn do bản thân VNR đã tự để mình xuống cấp, tụt hậu, ngày càng trở nên kém hấp dẫn khách hàng, làm cho đường không và đường bộ trở thành lựa chọn đương nhiên cho nhiều khách hàng tiềm năng.

Còn nhớ ấn tượng của người viết trong một lần đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng bằng tàu lửa cách đây vài năm. Cả chuyến tàu hàng chục toa có rất ít khách. Các trang thiết bị trên tàu vừa thiếu, vừa cũ kỹ, chắp vá, như là đã tồn tại từ thời bao cấp, rõ ràng là đã được sửa chữa, gia công bởi thợ vụng về, để cho có. Nhà vệ sinh trên tàu thì khỏi cần tả lại. Cũng may mà hành trình chỉ hơn hai giờ đồng hồ, không đủ dài để cho hành khách được trải nghiệm những ấn tượng để đời trong việc này. Gần đây, ngành đường sắt cũng đã nỗ lực thay đổi, nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút khách. Nhưng dường như những nỗ lực đó là chưa đủ.


So với ô tô giường nằm, ô tô chất lượng cao, và máy bay thì rõ ràng tàu lửa ở Việt Nam hầu như không có một ưu điểm nào để hấp dẫn được hành khách. Về tần suất, mỗi ngày một hoặc hai chuyến tàu trên các tuyến chính là một con số quá ít ỏi, so với hàng chục, hàng trăm chuyến xe khởi hành từ sáng đến tối của hàng chục hãng xe, đáp ứng nhu cầu đa dạng về thời gian của hành khách. Về mức độ an toàn, một trong những điểm cộng lớn nhất của vận tải đường sắt, thì ưu thế này đã bị lu mờ bởi nhiều vụ tai nạn đường sắt, dù nguyên nhân có cả chủ quan lẫn khách quan. Về sự tiện nghi và thoải mái thì tàu lửa Việt Nam, như đã nói, hầu như không có điểm cộng. Thời gian hành trình cũng là một điểm yếu khác của loại hình vận tải này, khi tốc độ trung bình toàn tuyến chỉ là vài chục ki lô mét/giờ do những giới hạn về hạ tầng đường sắt và chất lượng thiết bị chậm được đầu tư, đổi mới. Giá vé cũng không thuộc dạng hấp dẫn đến mức không đi không được.

Có thể làm được gì?

Trong báo cáo của mình, VNR đặt mục tiêu tăng sản lượng 8%/năm cho giai đoạn 2016-2020, với nhiều giải pháp mà người ngoài cuộc hoàn toàn có thể đoán được như nâng cao chất lượng dịch vụ, tiếp tục đầu tư cả về hạ tầng và phương tiện như mua đầu máy mới...

Tất nhiên là giải pháp nào đưa ra cũng đều cần đến tiền và nhiều tiền, trừ chuyện nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ của nhân viên. Vốn từ trước đến nay vẫn trông chờ vào ngân sách nhà nước cho các khoản đầu tư mua sắm, chắc chắn mọi kế hoạch đầu tư tham vọng của VNR trong các năm tới sẽ bị gác lại nếu nguồn tài chính chủ yếu vẫn chỉ là từ ngân sách đang ngày càng eo hẹp.

Trong bối cảnh như vậy, câu thần chú “xã hội hóa” tỏ ra sẽ được việc. Nhưng việc cổ phần hóa nửa vời tại các công ty con và công ty thành viên nơi VNR vẫn nắm quyền kiểm soát chỉ có tác dụng giúp cho VNR có thêm một chút vốn so với nhu cầu vốn đầu tư khổng lồ cần có, chưa kể về bản chất sau cổ phần hóa các công ty con và công ty thành viên vẫn hầu như không có nhiều thay đổi cần có và được kỳ vọng từ việc cổ phần hóa.

Bởi vậy, song song với việc tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa và thoái vốn, giảm thiểu vai trò chi phối của mình, VNR có thể cân nhắc thêm các động thái xã hội hóa khác đã và đang được thực hiện tại nhiều nước trên thế giới.

Tận dụng không gian trên các ga tàu

Đây là giải pháp có thể thực hiện được ngay tại nhiều ga, nhất là ở các thành phố lớn. Các ga tàu thường nằm ngay trung tâm thành phố và có khoảng không rất rộng lớn phía trên chưa được khai thác, đến hàng chục héc ta. Nếu có cơ chế mời gọi đầu tư hấp dẫn thì với công nghệ xây dựng hiện tại, các nhà đầu tư tư nhân không khó khăn gì để xây các trung tâm thương mại, khách sạn, tổ hợp bất động sản đa chức năng tận dụng các khoảng không này. Hình thức “đổi không gian lấy hạ tầng” này nếu thực hiện được sẽ mang lại cho ngành đường sắt một khoản vốn nhiều ngàn tỉ đồng dành cho đầu tư, trong khi bộ mặt và chất lượng nói chung của ngành đường sắt sẽ được “đẹp lây” lên nhiều.

Cho phép và thu hút FDI vào cơ sở hạ tầng đường sắt

Sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước hay vốn thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn của VNR sẽ không bao giờ giúp ngành đường sắt có đủ vốn để xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng đường sắt hiện đại như đường sắt khổ rộng, tốc độ cao mà chi phí lên tới nhiều tỉ đô la Mỹ. Để làm được việc này thì nhất thiết phải có sự tham gia của vốn FDI dưới dạng PPP (hợp tác công - tư).

Nhiều nước trên thế giới từng không cho phép FDI vào lĩnh vực này cũng như lĩnh vực khai thác dịch vụ đường sắt, nhưng nay đã phải thay đổi thái độ, mà điển hình trong đó là Ấn Độ. Nước này hiện nay cho phép sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong những lĩnh vực như đường sắt chuyên dụng vận chuyển hàng hóa, các dự án tàu cao tốc, sản xuất đầu máy, thiết bị và cơ sở duy tu, bảo dưỡng, hệ thống tín hiệu tự động, điện khí hóa đường sắt, kho bãi cho các ga hàng hóa, các viện đào tạo nhân viên kỹ thuật đường sắt, ga hành khách, cơ sở thử  nghiệm, nhà vệ sinh tự hủy trên tàu...

Tư nhân hóa các dịch vụ

Sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước cũng cần được khuyến khích trong lĩnh vực dịch vụ đường sắt, trong đó có dịch vụ ăn uống trên tàu, vốn là một trong những nỗi ngán ngẩm cùa hành khách đi tàu ở Việt Nam.

Bên cạnh những giải pháp trên, doanh thu của VNR sẽ được cải thiện mạnh nếu họ nỗ lực thu hút thêm khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng hóa của mình, vốn đã bị hấp dẫn bởi vận tải đường bộ. Sự tăng chuyến, tăng tải, đảm bảo đúng giờ là một vài trong số những yếu tố giúp thực hiện được mục tiêu này. Với vận tải hành khách, sự cải thiện trải nghiệm của hành khách liên quan đến các yếu tố vệ sinh như nhà vệ sinh tự hủy, chăn nệm, giường nằm và ghế ngồi, điều hòa, thông gió... luôn phải là ưu tiên thực hiện.

NHNN hạ lãi suất để hỗ trợ xuất khẩu? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 15/7/2017, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/nhnn-ha-lai-suat-de-ho-tro-xuat-khau/1203904/

Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bất ngờ giảm 0,25 điểm phần trăm các lãi suất điều hành của mình, đồng thời giảm 0,5 điểm phần trăm trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực và ngành kinh tế.

Nhận định về động thái trên của NHNN, có một số ý kiến trái chiều nhau. Trong khi một số người cho rằng đây là hành động nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN để hỗ trợ tăng trưởng, thì một số khác lại cho rằng đây là một tín hiệu bật đèn xanh để các tổ chức tín dụng hưởng ứng, cùng chia sẻ khó khăn với người đi vay, giảm gánh nặng về vốn trong sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.

Công bằng mà nói, hành động trên của NHNN không hẳn là nới lỏng chính sách tiền tệ, tức tăng cung tiền, nên vì thế cũng không có nhiều tác động đến tăng trưởng kinh tế. ĐIều này là bởi NHNN vẫn tiếp tục duy trì hạn mức tăng trưởng tín dụng chung cho nền kinh tế ở mức 18%, và tức là nguồn vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại cũng không thể tăng mạnh hơn trong năm nay từ mức đặt ra hồi đầu năm bởi NHNN.   

Còn nếu nói đó là hành động bật đèn xanh, để các ngân hàng thương mại tích cực hưởng ứng và thông qua đó cắt giảm lãi suất cho vay thì cũng không hoàn toàn đúng. Như đã nói, với hạn mức tăng trưởng tín dụng cho năm nay bị khống chế ở con số 18%, dẫu các ngân hàng thương mại được cung cấp một nguồn vốn với giá rẻ hơn trước đây từ NHNN nhưng họ cũng không thể đẩy mạnh cho vay với lãi suất thấp hơn được.

Thay vào đó, các ngân hàng thương mại vẫn sẽ chỉ tập trung vào cho vay các khách hàng doanh nghiệp và cá nhân truyền thống có khả năng chấp nhận lãi suất cho vay cao và có mức an toàn tín dụng chấp nhận được, thay vì mở rộng hơn nữa phạm vi và đối tượng cho vay, gồm cả những đối tượng khách hàng mới có rủi ro cao hơn, hoặc các đối tượng khách hàng ưu tiên theo yêu cầu của NHNN (gồm nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) nhưng ở mức lãi suất cho vay thấp.

Mặc dù NHNN cũng giảm 0,5 điểm phần trăm trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn trong một số lĩnh vực và ngành nghề, nhưng cần lưu ý rằng đây là lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại với các khách hàng trong những lĩnh vực và ngành nghề ưu tiên, chứ không phải là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHNN với các tổ chức tín dụng. Bởi vậy, tuy trên danh nghĩa, khi cho vay ngắn hạn các doanh nghiệp trong những lĩnh vực và ngành nghề ưu tiên này các ngân hàng thương mại phải cắt giảm lãi suất cho vay ít nhất là 0,5 điểm phần trăm (nếu lãi suất cho vay đã chạm trần cũ) nhưng trên thực tế điều này không có nghĩa là khách hàng vay vốn trong các ngành nghề và lĩnh vực ưu tiên này sẽ ngay lập tức là người hưởng lợi từ động thái cắt giảm lãi suất trên của NHNN.

Do NHNN không ban hành kèm theo quyết định cắt giảm lãi suất điều hành và trần lãi suất cho vay ngắn hạn nói trên một quyết định khác là bắt buộc các ngân hàng thương mại phải dành bao nhiêu phần trăm vốn cho vay cho các lĩnh vực ưu tiên, và NHNN cũng không có động thái bổ sung như hạ hơn nữa lãi suất điều hành áp dụng với các tổ chức tài chính nếu các tổ chức tín dụng này dành tối thiểu bao nhiêu phần trăm vốn cho vay cho các ngành nghề và lĩnh vực ưu tiên, nên các ngân hàng thương mại hoàn toàn có thể sẽ “lách” quy định mới về trần lãi suất cho vay ngắn hạn nói trên bằng việc không cho vay các khách hàng thuộc diện ưu tiên này nữa.

Giả sử NHNN nhận thức rõ các hạn chế của chính sách lãi suất mới của mình như đã phân tích ở trên, nhưng vẫn ban hành chính sách này. Vậy câu hỏi ở đây là động cơ thực sự đằng sau động thái cắt giảm lãi suất trên của NHNN là gì?

Ngoài tính biểu trưng, như là một phần trong động thái hưởng ứng yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ hỗ trợ cho tăng trưởng, rất có thể NHNN mong muốn hành động cắt giảm lãi suất của mình sẽ mang đến thêm một yếu tố tích cực hỗ trợ cho xuất khẩu và giảm nhập khẩu thông qua kênh tỉ giá.

Với việc hạ lãi suất điều hành thấp hơn, NHNN gián tiếp làm gia tăng áp lực lên tỉ giá VND/USD, dẫn đến VND tiếp tục suy yếu thêm so với USD trong bối cảnh tỉ giá giao dịch tại các ngân hàng thương mại rất ổn định như hiện tại, bất chấp nhập siêu gia tăng ở Việt Nam, và Fed đã tăng lãi suất ở Mỹ. Chủ trương làm yếu VND này cũng được thể hiện qua xu hướng tăng lên liên tục của tỉ giá trung tâm của NHNN trong thời gian gần đây. Rất dó thể trong bối cảnh sự điều chỉnh tỉ giá trung tâm này không lôi kéo theo được tỉ giá giao dịch thực tế tại các ngân hàng thương mại theo đúng ý đồ của mình nên NHNN buộc phải có thêm một động thái hỗ trợ khác, đó là hạ lãi suất điều hành, để làm suy yếu VND.

Thursday 13 July 2017

Ngân hàng Việt đang ở đâu so với khu vực? ̣(Bài đăng trên CafeF, 13/7/2017)

http://cafef.vn/ngan-hang-viet-dang-o-dau-so-voi-khu-vuc-20170713102547611.chn

Sau khi có thông tin nhiều ngân hàng ngoại rút vốn và thu hẹp hoạt động kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam, có nhiều ý kiến cho rằng tính hấp dẫn của hệ thống ngân hàng Việt Nam so với của các nước khu vực đang suy giảm. Vậy so với khu vực, ngân hàng Việt đang ở đâu?

Tốc độ tăng trưởng tín dụng

Số liệu dưới đây cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam đã bật tăng mạnh mẽ từ năm 2015, và thuộc hạng cao nhất trong số 12 nước khu vực. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là các nước đang phát triển cùng trình độ của Việt Nam như Ấn Độ, Indonesia và Philippines cũng ghi nhận tăng trưởng tín dụng tương đối cao trong năm 2016 và dự tính cho năm 2017, chỉ thấp hơn của Việt Nam 2 đến 3 điểm phần trăm. Nói cách khác, các nước có thu nhập trung bình thấp như Việt Nam có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng tín dụng để đạt tăng trưởng GDP cao hơn, mặc dù không thể phủ nhận rằng mức này ở Việt Nam đang dẫn đầu trong khu vực.


Tăng trưởng tín dụng của một số nước khu vực. Nguồn: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và BMI (cho các nước ngoài Việt Nam).
Tăng trưởng tín dụng của một số nước khu vực. Nguồn: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và BMI (cho các nước ngoài Việt Nam).

Tỷ trọng tín dụng trên GDP

Bảng dưới đây cho thấy Việt Nam có tỷ lệ tín dụng trên GDP cao nhất trong số các nước thu nhập trung bình thấp có cùng trình độ phát triển trong khu vực (đứng ở mức 122,3% cuối năm 2016). Tuy nhiên, đây là kết quả của suốt một quá trình kéo dài suốt từ cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực khi Việt Nam chủ trương bơm mạnh tín dụng để phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong những năm có chủ trương kích cầu theo đó tăng trưởng tín dụng được đẩy lên đến 20-30%/năm hoặc hơn.


Một số chỉ số hoạt động chính của ngân hàng thương mại (12/2016). Nguồn: NHNN và BMI.
Một số chỉ số hoạt động chính của ngân hàng thương mại (12/2016). Nguồn: NHNN và BMI.

Việt Nam cũng có tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản ở mức cao nhất trong khu vực, cho thấy hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam phụ thuộc nhiều hơn vào hoạt động cho vay so với ở các nước khác trong khu vực.

Xét trên chỉ số dư nợ tín dụng trên vốn huy động, với tỷ lệ 88,1%, Việt Nam chỉ đứng sau Indonesia trong số các nước cùng hạng. Điều này cho thấy căng thẳng về vốn ở Việt Nam cao hơn một cách tương đối so với các nước khác. Phần phân tích tiếp theo cho thấy rõ hơn điều này.

Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (CAR)

Theo số liệu dưới đây cho thấy, Việt Nam có mức CAR thấp nhất trong khu vực (11,8% năm 2016), kể cả so với những nước cùng hạng như Indonesia và Philippines, và có lẽ chỉ cao hơn của Ấn Độ. Và điều cần đặc biệt lưu ý ở đây là CAR của Việt Nam có lẽ vẫn đang được tính theo tiêu chuẩn Basel I, trong khi phần lớn các nước trong khu vực đã thực thi tiêu chuẩn Basel II, thậm chí là Basel III. Nếu tính theo các tiêu chuẩn cao hơn này thì CAR của Việt Nam sẽ lại càng thấp hơn nữa so với các nước khác trong khu vực.


CAR của ngân hàng thương mại trong khu vực. Nguồn: NHNN và Moody’s; Ghi chú: * Chỉ gồm ngân hàng thương mại cổ phần.
CAR của ngân hàng thương mại trong khu vực. Nguồn: NHNN và Moody’s; Ghi chú: * Chỉ gồm ngân hàng thương mại cổ phần.

Biên độ chênh lệch lãi suất huy động và cho vay (NIM)

Dựa trên số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính của 25 ngân hàng thương mại Việt Nam tính đến thời điểm tháng 4/2017, người viết tính được tỷ lệ NIM trung bình của 25 ngân hàng này là 2,4% vào cuối năm 2016, giảm nhẹ so với mức 2,5% năm 2015.

So với các nước khác cùng thứ hạng trong khu vực, NIM của các ngân hàng thương mại Việt Nam thuộc vào hạng thấp (thấp hơn Indonesia, Philippines và Thái Lan). Tất nhiên, so với các nước phát triển thì NIM của Việt Nam cao hơn rõ rệt.


NIM của ngân hàng thương mại trong khu vực. Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam; Moody’s cho các nước khác.
NIM của ngân hàng thương mại trong khu vực. Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam; Moody’s cho các nước khác.

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

Nếu so sánh mức sinh lợi bằng một chỉ tiêu khác là ROA thì có thể thấy rằng lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam là khá thấp. Tỷ suất ROA trung bình của 25 ngân hàng thương mại Việt Nam vào năm 2016 chỉ là 0,64%, chỉ cao hơn của Hàn Quốc và Đài Loan và thấp xa so với các nước ASEAN, kể cả Singapore.


ROA của ngân hàng thương mại trong khu vực. Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam; Moody’s cho các nước khác.
ROA của ngân hàng thương mại trong khu vực. Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam; Moody’s cho các nước khác.

Mặc dù hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã trải qua sự tăng trưởng mạnh về tài sản và vốn chủ sở hữu năm 2016 so với năm 2015 nhưng nhìn chung còn khá yếu về vốn chủ sở hữu nếu so với mức chung trong khu vực. Mức tăng trưởng tín dụng cao còn làm cho các chỉ tiêu an toàn về vốn càng thêm căng thẳng, phải phụ thuộc nhiều vào vốn huy động dẫn đến rủi ro hệ thống cao hơn. Và dẫu đã đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng nhưng các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chỉ đạt được một tỷ suất lợi nhuận khá khiêm tốn, thể hiện ở chỉ số NIM và ROA thấp hơn đáng kể so với nhiều nước khác trong khu vực, nhất là các nước cùng thứ hạng phát triển của ASEAN.

Tuy vậy, sự thua kém và nhiều rủi ro một cách tương đối của các ngân hàng thương mại Việt Nam so với các nước trong khu vực như nói trên không có nghĩa là tính hấp dẫn của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang suy giảm như một số chuyên gia và tổ chức đã nhận định vừa qua. Thực tế cho thấy ít nhất là các chỉ tiêu về lợi nhuận trong đó có NIM và ROA của các ngân hàng thương mại Việt Nam khá ổn định, thậm chí có cải thiện chút ít trong 2 năm qua (một số chỉ tiêu lợi nhuận khác không báo cáo ở đây).

Wednesday 12 July 2017

Lạm bàn về “phong trào” thoái vốn của ngân hàng ngoại (Bài đăng trên CafeF, 12/7/2017)

http://cafef.vn/lam-ban-ve-phong-trao-thoai-von-cua-ngan-hang-ngoai-20170710221923923.chn

Gần đây đã có một số ngân hàng nước ngoài muốn thu hẹp hoạt động hoặc rút vốn khỏi Việt Nam và điều này đã làm dấy lên lo ngại rằng đây là một xu hướng, cho thấy những dấu hiệu không tích cực về môi trường kinh doanh của ngành ngân hàng Việt Nam.

Bài viết này xin lạm bàn một số điểm liên quan đến “phong trào” thoái vốn ngân hàng hiện nay. Nói “lạm bàn” bởi người viết bài này cũng như các tác giả khác đều là người ngoài cuộc, không rõ nội tình của từng ngân hàng và từng thương vụ liên quan nên không thể biết rõ điều gì đã và đang xảy ra tại những ngân hàng ngoại này cũng như ý đồ thực sự đằng sau các động thái đó. Bởi vậy, cùng một hiện tượng thoái vốn nhưng sẽ được nhìn nhận một cách rất khác nhau bởi những con mắt khác nhau của người ngoài cuộc, dù là giới chuyên gia, mà nếu không cẩn thận sẽ rơi vào tình trạng “thầy bói mù xem voi”.

Tuy nhiên, có một số hiện thực khách quan để có thể đưa ra những nhận định mang tính xác thực cao hơn.

Trước tiên, nói là đang có một phong trào hay xu hướng thoái vốn bởi các ngân hàng ngoại khỏi các ngân hàng nội địa là hơi vội vàng. Điểm lại các trường hợp thoái vốn trong năm nay được giới truyền thông đưa tin thì rõ ràng là mới chỉ có ANZ bán lại mảng bán lẻ cho Shinhan, Standard Chartered Bank rút khỏi ACB; HSBC rút khỏi Techcombank và chi nhánh TP. HCM của CBA bán lại cho VIB. Mỗi trường hợp xảy ra trong một hoàn cảnh khác nhau, khó mà khái quát hóa, thậm xưng hóa thành “hàng loạt” như có người đã nhấn mạnh.

Trong các thương vụ trên, có thể loại ra ngay thương vụ ANZ bán lại mảng bán lẻ cho Shinhan ra khỏi “phong trào” hay “xu hướng” ngân hàng ngoại thoái vốn khỏi ngân hàng nội, nếu có, đơn giản vì ông chủ mới mua lại mảng bán lẻ của ANZ cũng là một ngân hàng ngoại. Nếu đứng trên quan điểm rằng các ngân hàng ngoại đang có cái nhìn bi quan vào hệ thống ngân hàng Việt Nam nên họ đang thoái vốn “hàng loạt” thì sẽ rất khó giải thích tại sao Shinhan lại mua lại một phần của ANZ.

Với 3 trường hợp còn lại, có lẽ là không đủ cả về số lượng lẫn bằng chứng để kết luận rằng ngành ngân hàng Việt Nam không còn là địa chỉ hấp dẫn với các ngân hàng ngoại nữa. Việc thoái vốn của 3 ngân hàng trên có thể là kết quả của nhiều nguyên nhân. Đó có thể là việc tái cơ cấu lại ngân hàng mẹ hoặc cả hệ thống ngân hàng đó trên toàn cầu, tập trung vào những mảng kinh doanh và thị trường cốt lõi, là thế mạnh của mình, hoặc để cắt giảm chi phí, thu hẹp quy mô để đối phó những rủi ro và thách thức mới hay đáp ứng chiến lược hoạt động mới.

Đó cũng có thể là hành động chốt lãi (hoặc cắt lỗ) sau một thời gian dài đầu tư và nắm giữ cổ phần các ngân hàng nội địa đối tác. Đó còn có thể là sự “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” trong mối quan hệ giữa các ngân hàng ngoại với đối tác của mình, hoặc sự khác biệt trong đường lối, chiến lược hoạt động trong hội đồng quản trị mà phía đại diện nước ngoài chỉ chiếm thiểu số, dẫn đến sự “dứt áo ra đi” của phía đối tác ngoại...

Cũng cần lưu ý rằng tình hình và triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam không nhất thiết là tương đồng với tình hình và triển vọng của từng ngân hàng riêng lẻ, hoặc ngược lại. Bởi vậy mới có chuyện các hãng đánh giá tín nhiệm quốc tế thường không mấy khi đồng loạt thay đổi xếp hạng tín dụng và triển vọng xếp hạng tín dụng của tất cả các ngân hàng của một quốc gia nào đó họ có đánh giá.

Do đó, cho dù một số ngân hàng đối tác nội địa có thể có tình hình và triển vọng kinh doanh không được khả quan buộc các ngân hàng ngoại phải thoái vốn khỏi những ngân hàng nội địa này, nhưng điều này không có nghĩa là hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và các ngân hàng nội địa khác nói riêng có triển vọng tiêu cực, rủi ro hơn, thiếu cơ hội và tiềm năng phát triển, sinh lợi.

Hàm ý của điều trên là không thể nhận định rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam đang rủi ro, sinh lợi thấp nên các ngân hàng ngoại thất vọng, chán ngán, hoặc hoảng sợ, thi nhau tháo chạy hàng loạt khỏi Việt Nam. Cần nói thêm rằng các hãng xếp hạng tín dụng quốc tế như Moody’s, Standard & Poors, và Fitch hiện đều đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở mức độ “Ổn định”.

Một hàm ý khác là, cũng không thể hoàn toàn loại trừ khả năng sau một thời gian nữa, chính các ngân hàng ngoại này lại tìm cách mua cổ phần của một vài ngân hàng nội địa khác đem lại khả năng sinh lợi cao hơn và an toàn hơn những đối tác nội địa trước đây của họ.

Tóm lại, hãy còn quá sớm để khái quát hóa các bước đi của một số ngân hàng ngoại hiện nay tại Việt Nam thành bất cứ một xu hướng nào đó. Trong bối cảnh hiện tại, điều có thể nói về việc thoái vốn của một số ngân hàng như vừa qua là có lẽ đó chỉ là những toan tính riêng rẽ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của họ mà thôi.

Sunday 9 July 2017

NHNN có thể duy trì mặt bằng lãi suất điều hành mới đến bao giờ? (Bài đăng trên CafeF, 9/7/2017, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

http://cafef.vn/nhnn-co-the-duy-tri-mat-bang-lai-suat-dieu-hanh-moi-den-bao-gio-20170709070011298.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã bất ngờ giảm lãi suất điều hành của mình (giảm 0,25 điểm phần trăm) và trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực và ngành kinh tế (giảm 0,5 điểm phần trăm).


Trên lý thuyết, việc cắt giảm các lãi suất điều hành này có thể được coi là sự nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN, tương tự như động thái của các ngân hàng trung ương khác trên thế giới. Nếu được truyền dẫn đầy đủ đến kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại cho nền kinh tế thì đây là một hành động rất có ý nghĩa với khách hàng doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng khi họ luôn phải trông ngóng, so đo từng số thập phân, từng phần lẻ của lãi suất cho vay.
Tuy vậy, trên thực tế, hành động cắt giảm lãi suất điều hành trên khó có thể coi là hành động nới lỏng chính sách tiền tệ. Điều này được thể hiện một phần không chỉ bởi mức cắt giảm lãi suất điều hành ở mức rất khiêm tốn, 0,25 điểm phần trăm, so với các mức lãi suất điều hành hiện tại đang ở mức cao (lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu là 4,5%/năm; còn lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng lên đến 7,5%/năm), mà còn được thể hiện ở việc NHNN vẫn tuyên bố là sẽ chốt hạn mức tăng trưởng tín dụng chung cả năm khoảng 18%. Đây là một chi tiết rất quan trọng để hiểu rõ bản chất của động thái nới lỏng trên của NHNN.  


Khi nguồn cung vốn từ NHNN có giá rẻ hơn, các ngân hàng thương mại sẽ có thêm thuận lợi để cho vay ra nền kinh tế với lãi suất thấp hơn. Điều này, đến lượt nó, sẽ kích hoạt nhu cầu vay mượn của các doanh nghiệp và cá nhân, dẫn đến tăng trưởng tín dụng được đẩy mạnh. Nếu quá đà, tăng trưởng tín dụng mạnh sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng tăng trưởng nóng, với đầu tư, tiêu dùng, nhập khẩu và lạm phát đều gia tăng mạnh mẽ.
Với chủ trưởng ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, NHNN chốt chặn tăng trưởng tín dụng chung cho nền kinh tế năm nay ở mức 18%, gần như không thay đổi so với trước đây. Việc này dẫn đến kết quả là sau động thái nới lỏng trên, tín dụng ngân hàng sẽ tăng tốc mạnh hơn trong các tháng tới đây, nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng chung sẽ chững lại và giảm dần sau đó, càng về gần cuối năm khi nó đạt đến mức trần khống chế 18% của NHNN. Lúc đó, dù lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại vẫn được duy trì ở mức thấp hơn như vậy nhưng các ngân hàng thương mại với “room” tăng trưởng tín dụng không còn là bao buộc phải trở nên rất lựa chọn khi tiếp tục cho vay vốn, tập trung hơn vào chất (lãi suất cao nhưng an toàn), thay vì chạy theo số lượng như trước.


Như vậy, bằng việc khống chế hạn mức tăng trưởng tín dụng, động thái hạ lãi suất điều hành của NHNN về bản chất không phải là hành động nới lỏng chính sách tiền tệ mà chỉ có tác dụng thay đổi cơ cấu cho vay của các ngân hàng thương mại.  
Do bản chất không phải là nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng cung tiền quá mức nên hành động hạ lãi suất điều hành trên của NHNN cũng vì thế, về nguyên tắc, sẽ không tạo ra thêm áp lực lạm phát. Áp lực lạm phát chỉ gia tăng thêm khi NHNN vừa duy trì mặt bằng lãi suất điều hành thấp hơn, vừa gia tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của  hệ thống ngân hàng thương mại cho vay ra nền kinh tế đang tăng lên nhằm mục đích, ví dụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi họ nhận thấy tốc độ tăng trưởng vẫn chưa đạt được mức kỳ vọng dù đã sử dụng hết room tăng trưởng tín dụng 18%.


Một câu hỏi liên quan ở đây là trong hoàn cảnh đó (áp lực lạm phát gia tăng khi cung tiền gia tăng), NHNN cần và có thể làm gì để giảm áp lực lạm phát trong khi vẫn đáp ứng được nhu cầu vốn gia tăng từ nền kinh tế?
Câu trả lời là, ngoài biện pháp quen thuộc là hướng tín dụng vào những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng trưởng chung nhưng lại cần nhiều vốn, ví dụ công nghiệp chế biến, chế tạo, NHNN cần điều chỉnh tỉ giá VND/USD tăng lên thông qua mua vào và bán ra USD với giá cao hơn giá thị trường để hỗ trợ xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Lượng tiền đồng bơm ra thị trường từ việc mua vào USD cần được trung hòa ở mức độ phù hợp (so với lượng USD bán ra và so với tốc độ tăng cung tiền) để đảm bảo việc làm yếu VND không ảnh hưởng đến tăng cung tiền và tín dụng.   


Một câu hỏi có liên quan khác là các mức lãi suất điều hành mới sẽ được duy trì đến bao giờ, và điều gì làm NHNN thay đổi chúng trong tương lai?
Câu trả lời phụ thuộc trước tiên vào diễn biến lạm phát và tiếp đó là các yếu tố bên ngoài. Nếu lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp thì NHNN càng có thêm dư địa để không những duy trì mà thậm chí còn cắt giảm thêm các lãi suất điều hành này, và ngược lại. Với các yếu tố bên ngoài, ví dụ, Fed tiếp tục tăng lãi suất trong năm nay, áp lực gia tăng lên tỉ giá VND/USD có thể sẽ buộc NHNN phải xem xét điều chỉnh trở lại các mức lãi suất điều hành này, nếu các yếu tố còn lại không thay đổi.

Saturday 8 July 2017

Thận trọng với một số đề xuất kích thích tăng trưởng (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 7/7/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/162196/Than-trong-voi-mot-so-de-xuat-kich-thich-tang-truong.html

Nền kinh tế đã đi qua nửa chặng đường của năm nay với tốc độ tăng trưởng khá thấp so với mục tiêu tăng trưởng 6,7% cả năm nay. Như thường lệ, hàng loạt đề xuất và giải pháp được đưa ra để vực tăng trưởng của nửa năm còn lại sao cho bù đắp được sự giảm sút tăng trưởng của nửa năm đầu và đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm.


Giải pháp đầu tiên hay được nhắc đến bởi một số chuyên gia và quan chức là tăng sản lượng khai thác dầu thô. Cần lưu ý là giải pháp này đã được đề cập đến từ nhiều năm qua, mỗi khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng “hụt hơi”. Tuy nhiên, giải pháp này nếu được thực hiện vào những năm trước, khi giá dầu còn ở mức cao, thì còn có thể hiểu được logic của nó. Nhưng hiện tại, giá dầu đang “lình xình” ở vùng thấp, quanh quẩn 50 đôla/thùng so với trên 100 đôla/thùng của vài ba năm trước, và chẳng có dấu hiệu gì sẽ bật tăng mạnh và bền vững trong nửa năm còn lại. Trong bối cảnh giá dầu thấp, thậm chí còn nằm trong vùng giá thành khai thác của Petro Vietnam, việc khai thác thêm hàng triệu tấn dầu có khác gì tự cắt thịt mình nấu cháo?
Tất nhiên, không loại trừ khả năng đề xuất tăng khai thác dầu thô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là xuất phát từ cách tính (sai, không hợp lý) GDP ở Việt Nam. Có lẽ từ trước đến nay cách tính GDP vẫn dựa vào mức tăng khối lượng, sản lượng của các ngành sản xuất và dịch vụ, tại một mức giá cố định, ví dụ, giá của năm 2010. Theo đó, bất kể giá thực tế của hàng hóa và dịch vụ diễn biến trên thực tế như thế nào thì mức đóng góp của các hàng hóa và dịch vụ vào tốc độ tăng trưởng chung sẽ tương đương với tốc độ tăng trưởng về lượng của các hàng hóa và dịch vụ đó. Biến động giá cả (do lạm phát v.v…) được loại trừ hoàn toàn vì người ta sử dụng giá cố định của năm 2010. Trên cơ sở này, kể cả giá dầu có tụt giảm một nửa so với trước đây nhưng nếu lượng dầu thô khai thác tăng gấp đôi thì vẫn cho ra kết quả tính toán là mức đóng góp của khai thác dầu thô vào GDP đã tăng lên gấp đôi!


Rõ ràng, nếu nhìn nhận bằng con mắt tỉnh táo, hiện thực thì khi tăng gấp đôi sản lượng dầu thô với giá bán giảm một nửa thì tổng giá trị thu được từ khai thác dầu thô sẽ không thay đổi, và sẽ chẳng có thêm chút giá trị gia tăng nào tạo thêm ra để đóng góp vào tăng trưởng GDP hết. Chưa dừng ở đó, vì giá bán cũng bằng hoặc gần bằng giá thành khai thác, nên nếu cộng thêm đủ loại chi phí liên quan đến khai thác như chi phí tài chính, quản lý, khấu hao… thì thậm chí còn bị lỗ, tức là giá trị thặng dư tạo thêm ra là âm, và GDP còn bị “thâm” thêm nữa! Nói cách khác, bên cạnh chuyện bảo vệ trữ lượng dầu thô đang có xu hướng cạn kiệt, tuyệt đối không được tăng khai thác dầu thô để kích thích tăng trưởng GDP khi giá dầu tụt dốc tiệm cận với giá thành khai thác.
Giải pháp thứ hai được một chuyên gia đưa ra gần đây là kích thích tăng tiêu dùng nội địa. Theo tính toán của vị này thì tăng 1% tiêu dùng nội địa tương đương với tăng thêm 380 nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế (vì tiêu dùng chiếm 78% GDP, theo vị này cho biết).


Rất tiếc, giải pháp trên được đưa ra dựa trên một sự nhầm lẫn quan trọng. Dù là tiêu dùng chiếm đến 78% GDP nhưng không có nghĩa là cứ tăng tiêu dùng thêm 1% thì GDP sẽ có thêm ngay 380 nghìn tỷ đồng (tức tăng 0,78 điểm phần trăm). Đơn giản vì bên cạnh tiêu dùng (cá nhân) còn có các cấu thành khác tạo nên GDP, là chi tiêu Chính phủ, đầu tư, và xuất khẩu ròng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Các cấu thành này có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tăng tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình.
Tăng tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình rất có thể sẽ làm giảm chi tiêu Chính phủ. Cụ thể hơn, khi cá nhân và hộ gia đình đổ tiền vào chi tiêu, họ phải cắt giảm tiết kiệm. Hệ thống ngân hàng thương mại sẽ bị ảnh hưởng bởi tiền gửi và tiết kiệm từ dân chúng giảm đi. Vì vậy, các ngân hàng sẽ có thể phải cắt giảm lượng vốn dành cho trái phiếu Chính phủ, hoặc đòi hỏi Chính phủ phải trả lãi cao hơn cho trái phiếu của mình thì họ mới mua. Đến lượt mình, Chính phủ buộc phải cắt giảm chi tiêu vì không huy động được vốn hoặc chi phí huy động trở nên quá cao, ảnh hưởng đến cân đối thu chi ngân sách.


Tăng tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình cũng rất có thể làm giảm đầu tư. Chưa kể đến đầu tư công có thể sẽ bị sụt giảm vì Chính phủ không huy động được đủ vốn (với chi phí hợp lý) để đầu tư như nói ở trên. Ngay cả đầu tư tư nhân cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tiền làm ra được đổ vào ăn tiêu, mua sắm mà không dành cho đầu tư, không gửi tiết kiệm (do đó ngân hàng cũng sẽ không có đủ vốn để tài trợ cho các nhà đầu tư trong nước).
Tăng tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình còn chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn khác là tăng nhập khẩu (vì hàng hóa sản xuất trong nước không thể đáp ứng ngay và đầy đủ mọi nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng tăng lên đột xuất tại một thời điểm). Trong khi đó, xuất khẩu có thể lại giảm đi vì vốn đầu tư để duy trì hoặc mở rộng xuất khẩu đã bị cắt giảm để tài trợ cho tiêu dùng. Cho dù có giả định là xuất khẩu vẫn được giữ nguyên, nhưng với nhập khẩu tăng lên thì xuất khẩu ròng phải giảm đi tương ứng. Điều này, kết hợp với khả năng cả đầu tư và chi tiêu Chính phủ bị suy giảm, thậm chí lại còn làm giảm thay vì tăng GDP như lập luận của vị chuyên gia trên.


Dẫu vậy, phân tích như trên không có nghĩa là không nên kích thích tiêu dùng nội địa. Để tiêu dùng nội địa đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP thì cần phải thỏa mãn một số điều kiện mà có thể được rút ra cũng chính từ sự phân tích trên.
Điều kiện trước tiên là song song với kích thích tiêu dùng nội địa phải có những biện pháp kiểm soát, hạn chế nhập khẩu, từ đó kích thích các hoạt động sản xuất trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu tăng lên trong nước. Tuy vậy, thực hiện việc này không đơn giản trong bối cảnh có hàng loạt các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương mà Việt Nam đã cam kết.


Điều kiện thứ hai là đi kèm với tăng chi tiêu cá nhân và hộ gia đình thì cần phải có nguồn vốn bổ sung cần thiết để duy trì hoạt động đầu tư và chi tiêu Chính phủ thay thế cho nguồn vốn tiết kiệm từ khu vực cá nhân và hộ gia đình đã bị suy giảm. Nguồn vốn bổ sung này không gì khác chính là nguồn vốn vay nước ngoài. Nhưng nguồn vốn này có giới hạn vì động chạm đến các hạn mức vay nợ Chính phủ và tư nhân nên không thể trông chờ nhiều vào đó được.
Tóm lại, những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kể trên nếu không thực hiện một cách đúng đắn và cẩn trọng thì thậm chí còn tạo ra tác động ngược đến tăng trưởng GDP.

Sunday 2 July 2017

Tránh ảo tưởng về nợ xấu (Bài đăng trên CafeF, 29/6/2017)

http://cafef.vn/tranh-ao-tuong-ve-no-xau-20170628153826418.chn


Nợ xấu được xác định đến cuối tháng 12/2016 là khoảng 600 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,8% tổng dư nợ. Về con số này, có đại biểu Quốc hội đã đặt vấn đề rằng “chúng ta làm sao vận hành để 600.000 tỷ này quay lại để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế khi mà nguồn lực của chúng ta còn rất hạn chế. Với con số này chúng ta có thể làm được 3 sân bay Long Thành mà Quốc hội chúng ta đang đưa ra bàn”.
Với quy mô GDP theo giá danh nghĩa của Việt Nam hiện vào khoảng trên 5 triệu tỷ đồng, nên quy mô nợ xấu tính theo GDP cũng vào khoảng 10-12%, một con số rất đáng kể. Quả thật, nếu nền kinh tế Việt Nam được bổ sung thêm một nguồn vốn với quy mô này thì tốc độ tăng trưởng Việt Nam đã khác trong suốt thời gian qua.
Vậy 600 nghìn tỷ đồng này đang nằm ở đâu, liệu có lấy lại/hồi phục được không?
Trước tiên, có thể khẳng định rằng nói quy mô nợ xấu lên tới 600 nghìn tỷ hay 1 triệu tỷ đồng cũng không có nghĩa là số tiền này đang “nằm chết” đâu đó trong cái “nấm mồ” được gọi là nợ xấu nên phải tìm cách “khai quật” và đưa chúng trở lại lưu thông trong nền kinh tế. 
Cụ thể hơn, ví dụ ngân hàng thương mại A cho doanh nghiệp B vay X đồng với tài sản thế chấp Y. Sau một thời gian thì khoản vay X đồng này được đánh giá là nợ xấu nhưng ngân hàng A chưa thanh lý tài sản Y được vì một số lý do, và bởi vậy nên khoản nợ xấu X này cứ bị treo trên sổ sách của ngân hàng A. 
Tuy vậy, điều này không có nghĩa là nền kinh tế đã mất đi một khoản vốn tương đương với X đồng khi khoản cho vay này được xác định là nợ xấu. Bởi doanh nghiệp B sau khi vay X đồng, đã mang số vốn này chi tiêu, thanh toán và đầu tư đâu đó trong nền kinh tế. Nói cách khác, số vốn X đồng này đã “hòa tan” vào trong nền kinh tế, dù trên danh nghĩa doanh nghiệp B vẫn đang nợ ngân hàng A một khoản nợ (xấu) là X đồng với tài sản thế chấp chưa thể thanh lý được.
Giả sử nhờ có nghị quyết xử lý nợ xấu mới đây của Quốc hội, ngân hàng A xử lý được thành công tài sản thế chấp của doanh nghiệp B và thu về được đúng số vốn đã cho vay ban đầu là X đồng. Nhưng lúc này cũng không thể nói rằng nền kinh tế đã tiếp nhận thêm một nguồn vốn mới trị giá X đồng được ngân hàng A rót thêm vào, thông qua một khoản cho vay mới với một doanh nghiệp C nào đó. 
Điều này là bởi số vốn ngân hàng A nhận được từ xử lý tài sản thế chấp Y là số vốn rót ra bởi một cá nhân/tổ chức nào đó đứng ra mua lại tài sản Y này. Cá nhân/tổ chức mua nợ xấu này rút một khoản tiền gửi tại ngân hàng (tức rút khỏi nền kinh tế) trị giá X đồng để mua tài sản thế chấp Y do ngân hàng A nắm giữ. Sau khi nhận được số tiền X này, ngân hàng A cho doanh nghiệp C vay X đồng để rồi doanh nghiệp C lại đem X đồng này chi tiêu, thanh toán và đầu tư ngược trở lại nền kinh tế. Cứ như vậy, nên lượng vốn X đã luân chuyển từ tay này sang tay khác trong nền kinh tế mà không mất đi đâu, nằm chết ở đâu cả.    
Từ phân tích trên có thể thấy rõ là dù nợ xấu có được xử lý sạch sẽ, rốt ráo và hệ thống ngân hàng thu hồi đồng thời cả 600 nghìn tỷ đồng trị giá nợ xấu thì nền kinh tế vẫn chỉ có từng đó số tiền/vốn như trước khi 600 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý. Do đó, vốn thiếu thì vẫn cứ thiếu, và dù chỉ xây một góc của sân bay cũng sẽ phải “giật gấu vá vai”, lấy chỗ nọ đập vào chỗ kia, chứ chẳng dám nói đến đủ vốn để xây những 3 cái sân bay Long Thành như vị đại biểu Quốc hội trên so sánh.
Cũng liên quan đến chuyện trên, một vấn đề khác được đặt ra là liệu có phải khi nợ xấu được xử lý rốt ráo thì chắc chắn lãi suất cho vay sẽ hạ đi (vì ngân hàng không phải trích lập dự phòng, và vì lợi nhuận của ngân hàng được đảm bảo nên không cần phải tính lãi suất cho vay cao để bù đắp tổn thất do nợ xấu)?
Câu trả lời là... còn tùy!
Đầu tiên là tùy vào mức độ cạnh tranh cho vay trong hệ thống ngân hàng. Nếu các ngân hàng phải “sứt đầu mẻ trán” để giành giật khách hàng thì việc xử lý nợ xấu và tài sản thế chấp sẽ giúp ngân hàng có thêm sức lực để cắt giảm lãi suất cho vay nhằm chiến thắng trong cuộc đua giành khách. Nhưng cũng lưu ý thêm là trong bối cảnh này thì dù nợ xấu không được xử lý ổn thỏa, các ngân hàng vẫn phải đối mặt với áp lực giảm lãi suất để trở nên cạnh tranh hơn so với đối thủ.  


Ngược lại, nếu sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không đủ mạnh và/hoặc khách hàng đi vay phải “cạy cục” ngân hàng để vay được vốn, thì lúc này các ngân hàng chẳng có lý do và động cơ gì phải cắt giảm lãi suất. Thị trường lúc này là thị trường của các ngân hàng chứ không phải khách hàng, nên, với nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng sẽ tiếp tục giữ lãi suất cho vay ở mức cao, không có ý định làm “từ thiện” cắt giảm lãi suất cho khách hàng, trừ khi họ bị buộc phải làm thế bởi sự can thiệp của cơ quan quản lý hoặc bị áp đặt trần lãi suất cho vay.
Tiếp đó là tùy vào thái độ của cơ quan quản lý, trong trường hợp này là Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Trước đây, để cứu vãn tình hình, NHNN đã phải chấp nhận một số biện pháp thỏa hiệp để nợ xấu trong hệ thống theo báo cáo không trở nên quá lớn gây áp lực lên sự ổn định hệ thống, hay để hệ thống ngân hàng có thêm thời gian và tiềm lực để xử lý nợ xấu như giãn thời gian áp dụng các chuẩn mực an toàn cao hơn.


Nay, nếu nợ xấu được xử lý triệt để đem lại cho ngân hàng một nguồn thu/nguồn lực mới, rất có thể NHNN sẽ yêu cầu các ngân hàng phải thực thi sớm các chuẩn mực an toàn cao hơn, ví dụ về vốn an toàn tối thiểu, về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, về hạn mức tăng trưởng tín dụng, về tỷ lệ vốn được đầu tư vào bất động sản và những dự án BOT v.v... Lúc đó, các ngân hàng buộc phải bù đắp cho phần chi phí tăng lên này bằng việc duy trì lãi suất cho vay cao.
Có nghĩa là dù nợ xấu được xử lý triệt để, lãi suất cho vay vẫn hoàn toàn có thể không hạ đi, nếu không muốn nói là còn tăng lên!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).